← Quay lại trang sách

Chương 11 Bản Năng

Hồi ông-ở-chân-đồi còn là thanh niên, có những đàn gia súc được chăn thả trên núi, và chúng được các cao bồi chăn. Những con ngựa chăn gia súc của ông là những con vật huyền thoại. Dày dạn gió sương như da thú lâu đời, chúng di chuyển thân hình vạm vỡ một cách uyển chuyển, như thể được điều khiển bởi ý nghĩ của người cưỡi.

Chí ít, đó là những gì tôi được nghe kể. Tôi chưa từng nhìn thấy chúng. Khi tuổi đã cao, ông chăn thả ít hơn, làm trang trại ít đi, cho đến một ngày ông thôi làm trang trại. Ông không cần ngựa vậy nên ông bán những con có giá đi và thả những con còn lại về với đời sống hoang dã. Chúng sinh sôi, và khi tôi chào đời đã có cả một đàn ngựa hoang trên núi.

Richard gọi chúng là những con ngựa làm thức ăn cho chó. Mỗi năm một lần, Luke, Richard và tôi giúp ông vây cả tá ngựa lại để bán đấu giá trong thị trấn, nơi chúng được bán cho lò mổ. Vài năm ông lại tia thấy giữa một bầy ngựa nhỏ sợ hãi di chuyển về hướng lò mổ những con ngựa giống non chạy nước kiệu, chấp nhận bị giam cầm lần đầu tiên, và nỗi thèm muốn xuất hiện trong mắt ông. Sau đó ông chỉ vào một con và nói, “Đừng mang con này đi. Chúng tôi sẽ giữ lại con này.”

Nhưng những con ngựa hoang không dễ gì thuần phục, thậm chí trước một người như ông tôi. Các anh tôi và tôi phải mất nhiều ngày, thậm chí nhiều tuần, mới giành được lòng tin cậy của một con ngựa, chỉ để chạm vào nó. Sau đó chúng tôi từ từ vuốt cái mặt dài của nó, và thêm nhiều tuần nữa mới có thể để tay quanh cái cổ rộng của nó và vuốt ve thân hình rắn chắc của nó. Sau một tháng làm quen chúng tôi mang yên cương ra, và con ngựa sẽ bất ngờ hất đầu mạnh đến nỗi dây buộc cổ ngựa kêu răng rắc hoặc dây thừng bị đứt. Một lần, một con ngựa màu vàng đồng to lừng lững làm đổ hàng rào bãi quây gia súc, đâm mạnh qua như thể cái hàng rào không tồn tại, và chạy sang phía bên kia, người bê bết máu và đầy những vết xây xát.

Chúng tôi không cố đặt tên cho chúng, những con vật mà chúng tôi hy vọng sẽ thuần hóa được, nhưng kiểu gì chúng tôi cũng phải nhắc đến chúng. Những cái tên chúng tôi chọn không bay bướm, cũng chẳng ủy mị: Đỏ Lớn, Cái Đen, Gộc Trắng. Tôi bị hất văng xuống từ lưng hàng chục con ngựa ấy khi chúng nhảy chụm bốn vó, lồng lên, lăn hoặc nhảy vọt. Tôi bị đập xuống đất trong cả trăm kiểu ngã, và mỗi lần đều phải lấy lại thăng bằng ngay lập tức và tìm một chỗ an toàn trên cây, một cái máy kéo hoặc bên trong hàng rào, phòng khi con ngựa trả thù.

Chúng tôi chưa bao giờ chiến thắng; sức mạnh ý chí của chúng tôi lung lay sớm hơn rất nhiều so với của chúng. Chúng tôi có vài con không nhảy chụm bốn vó khi chúng nhìn thấy yên cương, và vài con chịu được một con người cưỡi trên lưng chúng cho những cuộc dạo chơi quanh bãi vây súc vật, nhưng ngay cả ông tôi cũng không dám cưỡi chúng trên núi. Bản chất của chúng không thay đổi. Chúng là những thiên thần giáng thế đầy sức mạnh và nhẫn tâm đến từ một thế giới khác. Trèo lên chúng là bạn từ bỏ chỗ đứng của mình để chuyển sang lãnh địa của chúng. Là đối mặt với rủi ro bị cuốn đi.

Con ngựa đầu tiên được thuần hóa mà tôi thấy là một con ngựa hồng đã bị thiến, và nó đang đứng gần bãi vây gia súc, gặm những miếng đường trên tay Shawn. Khi đó đang là mùa xuân, và tôi mười bốn tuổi. Đã nhiều năm rồi tôi chưa chạm vào một con ngựa.

Con ngựa thiến đó là của tôi, một món quà từ ông bác về đằng mẹ tôi. Tôi thận trọng tiến đến, tin chắc khi tôi đến gần con ngựa sẽ nhảy chồm, lồng lên hoặc sẽ tấn công. Thay vì thế nó ngửi ngửi áo của tôi, để lại một vệt ướt dài. Shawn ném cho tôi một miếng đường. Con ngựa ngửi thấy mùi đường liền cù tay tôi cho đến khi tôi mở lòng bàn tay ra.

“Muốn chinh phục nó không?” Shawn hỏi.

Tôi không muốn. Tôi sợ ngựa, hoặc tôi sợ những gì mà tôi nghĩ về những con ngựa – đó là, những con quỷ nặng nghìn cân có tham vọng đập đầu vào đá. Tôi nói với Shawn rằng anh có thể thuần phục con ngựa đó. Tôi sẽ đứng ở phía trong hàng rào theo dõi.

Tôi từ chối đặt tên cho con ngựa, vậy nên chúng tôi gọi nó là Một Tuổi. Con Một Tuổi đã làm đứt dây buộc đầu ngựa và dây dắt ngựa, vậy nên vào ngày đầu tiên ấy Shawn đã mua một bộ yên cương. Con Một Tuổi căng thẳng cào cào xuống đất khi nó nhìn thấy bộ yên cương; Shawn di chuyển chậm, để nó ngửi bàn đạp và tò mò gặm cái đầu nhọn của bộ yên cương. Sau đó, Shawn cọ nhẹ mặt da nhẵn của yên cương vào vầng ngực rộng của nó, cọ đều đặn nhưng không vội vã.

“Giống ngựa không thích những thứ ở chỗ chúng không thể nhìn thấy,” Shawn nói. “Tốt nhất hãy để nó quen với bộ yên cương ở trước mắt. Sau đó, khi nó đã thực sự thoải mái với thứ đó, với mùi và cảm giác về vật ấy, chúng ta có thể chuyển yên cương về phía sau.”

Một giờ sau bộ yên cương đã được thắng đâu vào đấy. Shawn nói đã đến lúc trèo lên ngựa, và tôi trèo lên mái chuồng gia súc, chắc chắn rằng bãi quây sẽ chìm trong bạo lực. Nhưng khi Shawn trèo lên yên ngựa, con Một Tuổi chỉ nhảy nhấp nhứ. Móng guốc hai chân trước của nó nhấc lên khỏi mặt đất vài phân, như thể nó cân nhắc đến việc lồng lên một phen nhưng rồi nghĩ kỹ hơn, và cúi đầu xuống, để chân bất động. Trong chốc lát, nó chấp nhận cho chúng tôi cưỡi nó, chấp nhận bị cưỡi lên. Nó đã chấp nhận thế giới này như vốn có, cái thế giới mà trong đó nó là một vật bị sở hữu. Nó chưa bao giờ là ngựa hoang, vậy nên nó không thể nghe tiếng gọi điên cuồng của thế giới khác ở trên núi, mà ở đó nó không bị sở hữu, không bị cưỡi lên.

Tôi đặt tên cho nó là Bud. Trong một tuần tối nào tôi cũng xem Shawn và Bud chạy nước kiệu qua bãi quây gia súc trong sắc trời xám mờ của buổi chạng vạng. Thế rồi vào một buổi tối mùa hè êm ả, tôi đứng cạnh Bud, nắm dây cương trong khi Shawn giữ dây buộc cổ nó, và tôi lên yên cương.

Shawn nói rằng anh muốn trở về với cuộc sống xưa kia của anh, và đó là bước đầu tiên để tránh xa lũ bạn của anh. Bỗng nhiên tối nào anh cũng ở nhà, tìm việc gì đó để làm. Anh bắt đầu lái xe đưa tôi đi tập kịch tại Worm Creek. Khi chỉ có hai anh em tôi chạy xe băng băng trên đường cao tốc, anh thật vui vẻ và hài hước. Anh pha trò, trêu chọc, và thỉnh thoảng cho tôi lời khuyên, chủ yếu là “Đừng làm những gì anh đã làm.” Nhưng khi chúng tôi tới nhà hát, anh thay đổi.

Thoạt đầu anh nhìn những đứa con trai nhỏ tuổi hơn mình với sự tập trung đầy cảnh giác, sau đó anh bắt đầu trêu chọc chúng. Đó không hẳn là thái độ hiếu chiến rõ rệt, chỉ là sự khiêu khích thoảng qua. Có thể anh búng mũ của một đứa con trai hoặc đá chai soda khỏi tay nó và cười khi vết bẩn lan trên quần bò của nó, Nếu anh bị thách thức – và thường thì anh không bị – anh sẽ nhập vai kẻ côn đồ, với vẻ mặt rắn đanh kiểu như “Mày định làm gì hả?” Nhưng sau đó, khi chỉ có hai anh em tôi với nhau, cái mặt nạ đó được hạ xuống, vẻ hiên ngang như một tấm giáp che ngực được gỡ bỏ, và anh trở về làm anh trai của tôi.

Tôi yêu nhất nụ cười của anh. Những chiếc răng nanh ở hàm trên của anh không phát triển, và cả đống nha sĩ mà bố mẹ tôi đưa anh tới khi anh còn bé đều không nhận ra cho đến khi đã quá muộn để can thiệp. Khi đi phẫu thuật miệng ở tuổi hai mươi ba, những cái răng đó mọc xiên vào mô cơ phía dưới mũi anh. Bác sĩ phẫu thuật nhổ những cái răng đó cho anh bảo Shawn giữ gìn những cái răng sữa của anh lâu hết sức có thể, sau đó khi chúng rụng, anh sẽ được đóng chốt răng. Nhưng chúng chẳng bao giờ rụng. Chúng cứ ở nguyên đó, những phế tích ngoan cố, không đúng chỗ của tuổi thơ, nhắc bất cứ ai chứng kiến những cuộc ẩu đả thiếu suy nghĩ, liên miên, và vô tích sự của anh nhớ rằng người đàn ông này đã từng là một cậu bé.

Đó là một buổi tối mùa hè mù sương, một tháng trước khi tôi bước sang tuổi mười lăm. Mặt trời đã lặn xuống phía dưới đỉnh núi Buck nhưng bầu trời vẫn còn níu được ánh sáng thêm vài giờ nữa. Shawn và tôi đang ở trong bãi quây gia súc. Sau khi đã chinh phục được con Bud vào mùa xuân đó, Shawn cai quản lũ ngựa một cách nghiêm túc. Suốt mùa hè anh bận với việc mua ngựa, những con ngựa thuần chủng, những con ngựa giống Paso Fino, hầu hết chưa được thuần dưỡng vì anh có thể chọn mua chúng với giá rẻ. Chúng tôi vẫn tiếp tục thuần dưỡng con Bud. Chúng tôi cưỡi nó cả chục lần qua đồng cỏ, nhưng nó thiếu kinh nghiệm, bất kham, và khó lường.

Tối hôm đó, Shawn thắng yên cương cho con ngựa mới lần đầu tiên, một con ngựa cái màu vàng đồng. Shawn nói nó đã sẵn sàng cho một chuyến đi ngắn, vậy nên chúng tôi lên ngựa, anh cưỡi con ngựa cái, tôi cưỡi con Bud. Chúng tôi cưỡi ngựa đi được khoảng nửa dặm lên núi, đi chuyển thong thả để không làm những con ngựa hoảng sợ, đi vòng qua những cánh đồng lúa mì. Sau đó tôi làm một điều ngớ ngẩn. Tôi đi sát con ngựa cái quá. Nó không thích con ngựa thiến ở ngay sau mình, và không báo trước nó chồm lên phía trước, dồn hết trọng lượng cơ thể xuống hai chân trước, và dùng hai chân sau đá vào ngực con Bud.

Con Bud cáu tiết.

Tôi đã buộc một nút dây cương cho chúng chắc thêm nhưng vẫn không có chỗ bám chắc chắn. Con Bud giật người dữ dội, sau đó bắt đầu nhảy chụm bốn vó, ném thân hình của nó vào những vòng tròn hẹp. Dây cương bay trên đầu nó. Tôi nắm chặt núm yên cương và ép chặt hai đùi lại, dùng chân quặp lấy cái bụng phình ra của nó. Tôi chưa kịp nhận ra mình đang ở đâu thì con Bud bắt đầu chạy thẳng lên một hẻm núi, thỉnh thoảng đang chạy lại nhảy chụm bốn vó. Bàn chân tôi trượt qua bàn đạp khiến nó bị đẩy lên tận bắp chân.

Trong tất cả những mùa hè thuần hóa ngựa cùng với ông nội, tôi chỉ nhớ được một lời khuyên duy nhất đó là, “Dù cháu làm gì chăng nữa, chớ có để chân cháu bị mắc kẹt trong một cái bàn đạp.” Tôi không cần ông phải giải thích. Tôi biết tôi có thể sẽ không sao cả miễn là tôi không bị vướng víu gì. Ít nhất tôi sẽ ở trên mặt đất. Nhưng nếu chân tôi bị kẹt thì tôi sẽ bị kéo đi cho tới khi bị vỡ đầu trên một tảng đá.

Shawn không thể giúp gì được, không thể giúp khi anh ngồi trên lưng một con ngựa chưa thuần. Tình trạng kích động ở một con ngựa sẽ khiến những con ngựa khác bị kích động theo, nhất là những con ngựa non, hăng máu. Trong tất cả những con ngựa của Shawn, có một con duy nhất – một con ngựa màu da báo bảy tuổi tên là Apollo – đủ già và đủ bình tĩnh để làm điều này: bùng nổ với tốc độ mãnh liệt, phi nước đại, sau đó len lỏi một cách điềm tĩnh trong khi người cưỡi ngựa tách ra khỏi nó, nhấc một chân ra khỏi bàn đạp và chạm đất để nắm dây cương của con ngựa khác đang cuồng lên vì sợ. Nhưng Apollo đang ở trong bãi vây súc vật, cách xa nửa dặm ở phía dưới núi.

Bản năng bảo tôi phải buông núm yên cương ra – điều duy nhất giúp tôi ngồi trên yên ngựa. Nếu tôi buông tay ra, tôi sẽ ngã, nhưng tôi sẽ có một tích tắc quý giá để chạm tới dây cương đang bay phần phật hoặc là cố giật mạnh chân ra khỏi bàn đạp. Cố lên, bản năng của tôi gào lên.

Bản năng đó là thần hộ mệnh của tôi. Chính bản năng ấy trước đó đã cứu sống tôi, dẫn dắt các động tác của tôi trên lưng cả tá những con ngựa đang nhảy chụm bốn vó, nói với tôi khi nào thì bám vào yên ngựa, khi nào thì ném mình để thoát khỏi những cái móng guốc đang giậm thình thịch. Đó cũng chính là bản năng mà nhiều năm trước đã thúc đẩy tôi đu lên khỏi cái thùng phế liệu khi bố đổ phế liệu, bởi vì bản năng của tôi đã hiểu, thậm chí tôi thì không, rằng thà rơi từ cái điểm cao ấy xuống còn hơn là hy vọng bố sẽ can thiệp. Trong suốt cuộc đời những bản năng đã dạy tôi thuyết này – rằng sẽ có lợi thế hơn nếu bạn dựa vào chính mình.

Bud lồng lên, hất đầu lên cao đến nỗi tôi nghĩ nó có thể lộn ngược. Nó tiếp đất thật mạnh và nhảy cong người. Tôi nắm chặt núm cương, quyết định không bỏ chỗ bám của mình, dựa vào một bản năng khác.

Shawn sẽ đuổi kịp, thậm chí trên con ngựa chưa được thuần hóa đó. Anh sẽ tạo ra một phép màu. Con ngựa cái đó thậm chí không hiểu mệnh lệnh khi anh hô, “Hùuuuu!”; với một cú thúc giày vào bụng nó, cú thúc mà nó chưa từng cảm thấy trước đó, nó sẽ chồm lên, vặn mình điên cuồng. Nhưng anh sẽ giật dây cương kéo đầu nó xuống, và ngay khi móng guốc của nó chạm đất, anh sẽ đá nó lần thứ hai, đá mạnh hơn, biết chắc nó sẽ lại chồm lên. Anh sẽ làm điều này cho tới khi nó chịu chạy, sau đó anh sẽ lái nó về phía trước, khích lệ nó tăng tốc cuồng nhiệt, và bằng cách nào đó dẫn dắt nó dù nó chưa học các bước di chuyển của vũ điệu lạ mà qua thời gian sẽ trở thành một dạng ngôn ngữ giữa ngựa và người cưỡi ngựa. Toàn bộ chuyện này sẽ xảy ra trong vòng vài giây, một năm huấn luyện được cô đọng trong một khoảnh khắc cực kỳ quan trọng.

Tôi biết điều đó là bất khả thi. Thậm chí khi tôi tưởng tượng ra nó tôi đã biết vậy. Nhưng tôi vẫn nắm chặt núm yên cương.

Bud đã trở nên điên cuồng. Nó nhảy loạn lên, tự làm đau lưng mình khi nó nhảy lên cao, rồi hất đầu xuống khi nó đập móng guốc xuống đất. Hai con mắt tôi hầu như không thể dựng lại trật tự của những gì chúng nhìn thấy. Lúa mì vàng ruộm bay tứ phía, trong khi bầu trời xanh và ngọn núi chao đảo kỳ cục.

Tôi bị mất phương hướng đến nỗi tôi cảm thấy, hơn là nhìn, con ngựa cái màu đồng đang di chuyển tới một chỗ bên cạnh tôi. Shawn nhấc mình khỏi yên cương, nghiêng người về phía mặt đất, một tay nắm chặt dây cương ngựa của anh, tay kia chộp sợi dây cương của con Bud từ mặt cỏ. Cái dây da bị kéo căng; đầu của con Bud buộc phải ngẩng cao, hướng về phía trước. Với cái đầu ngẩng lên, Bud không thể nhảy chụm bốn vó nữa và nó chuyển sang chạy nước kiệu nhịp nhàng và nhẹ nhàng hơn. Shawn giật mạnh dây cương của anh, kéo đầu con ngựa cái về phía đầu gối nó, buộc nó phải chạy vòng tròn. Cứ mỗi vòng anh lại kéo đầu nó chặt hơn, quấn dây cương quanh cổ tay anh, rút ngắn vòng tròn lại cho tới khi nó nhỏ đến nỗi những cái món guốc đập thình thịch buộc phải đứng yên. Tôi trượt từ trận yên cương xuống, nằm trong đám lúa mì, những cọng lúa đâm qua áo sơ-mi của tôi ngưa ngứa. Phía trên đầu tôi, những con ngựa thở hổn hển, bụng chúng phình lên, xẹp xuống, móng guốc của chúng cào cào vào đất.