← Quay lại trang sách

PHẦN I

Nhiều năm sau này, trong quá trình viết hồi ký, Gabriel García Márquez thường nhớ lại cái buổi chiều xa xưa ấy ở Colombia, khi ông nội đặt một quyển tự điển trên đùi và nói: “Quyển sách này không chỉ biết tất tật mọi thứ, mà nó còn là một quyển sách không bao giờ sai.” Cậu bé hỏi ông “Có bao nhiêu từ không sai hở ông?” “Tất cả,” ông nội trả lời.

Ở bất cứ nơi nào trên thế giới, nếu một người ông cho đứa cháu một quyển từ điển làm quà, là ông đã cho nó một công cụ hiểu biết tuyệt vời; nhưng Colombia không phải đơn giản là bất cứ nơi nào. Nó là đất nước của những nhà ngữ pháp. Trong thời trai trẻ của ông nội García Márquez – đại tá Nicolás Márquez Mejía, sinh năm 1864 và chết năm 1936 – một số tổng thống và bộ trưởng trong chính phủ – hầu như tất cả bọn họ đều là luật sư của phe bảo thủ – xuất bản những quyển từ điển, sách giáo khoa ngôn ngữ, và các chuyên luận (bằng văn xuôi và bằng thơ) về orthology[2] về chính tả, ngữ văn, lý thuyết và thực hành biên soạn từ điển, nhịp thơ, vận luật, và ngữ pháp phương ngữ xứ Castile. Malcolm Deas, một học giả về lịch sử Colombia, đã nghiên cứu hiện tượng kỳ quặc này, tuyên bố rằng tình trạng bị ám ảnh bởi ngôn ngữ được biểu hiện bằng sự vun trồng các môn khoa học này – Deas ghi chú rằng những người thực hành những môn này khăng khăng gọi chúng là những môn khoa học – vốn xuất phát từ sự thôi thúc kế tục di sản văn hóa Tây Ban Nha. Bằng cách đòi hỏi “Sự hiện diện vĩnh viễn của Tây Ban Nha trong ngôn ngữ,” người Colombia nhằm đến sở hữu các truyền thống của nó, lịch sử của nó, các tác giả cổ điển của nó, các gốc rễ Latin của nó. Công cuộc chiếm hữu này, mở đầu bằng việc thành lập Viện Hàn lâm Ngôn ngữ Colombia vào năm 1871, chi nhánh Mỹ châu của viện Hàn lâm Hoàng gia Tây Ban Nha, là một trong những chìa khóa để hiểu thời kỳ dài nắm quyền của phe bảo thủ – kéo dài từ 1886 đến 1930 – trong lịch sử chính trị Colombia.

Ông nội của García Márquez là một gương mặt nổi bật trong những tiểu thuyết đầu tiên của nhà văn, và ông không xa lạ gì với lịch sử chính trị-ngữ ngôn này. Đại tá Nicolás Márquez Mejía chiến đấu trong hàng ngũ của viên tướng huyền thoại của phe tự do Rafael Uribe Uribe (1859-1914), một trong số lãnh tụ hiếm hoi trong lịch sử Colombia. Câu chuyện của ông đến lượt nó lại gợi hứng để tạo ra nhân vật Đại tá Aureliano Buendía trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn. Là một chiến binh hăng hái và kém may mắn trong ba cuộc nội chiến, Uribe Uribe còn là một nhà ngữ học chuyên cần, một người lính trong các cuộc chiến dân sự giữa phe bảo thủ và phe tự do. Có lần khi ngồi trong tù ông đã dịch Herbert Spencer, và năm 1887 ông đã soạn cuốn “Từ điển vắn tắt các đặc ngữ Pháp, các phương ngữ và cách dùng từ đúng” (Diccionario abreviado de galicismos, provincialismos y correcciones de lenguaje), xem ra có được một thành công vừa phải.

Năm 1886 viên tướng này một mình trong Nghị viện chống lại sáu mươi thượng nghị sĩ phe bảo thủ. Rốt cuộc phe đa số áp đảo không để cho ông một lựa chọn nào khác ngoài “nhường lời cho đại bác” – theo lời của chính ông. Uribe Uribe là vai chính trong cuộc chiến tranh Nghìn Ngày đẫm máu trong khoảng 1899-1902, kết thúc bằng việc ký Hòa ước Neerlandia. Việc ký kết này được chứng kiến bởi Đại tá Márquez, là người nhiều năm sau đã tiếp cựu tướng quân tại nhà riêng ở Aracataca, gần nơi diễn ra những sự kiện ấy. Uribe Uribe bị ám sát năm 1914. Hai thập niên sau, viên trung úy của ngài tặng cho đứa cháu lớn của ông ấy không phải một thanh gươm hay khẩu súng, mà một quyển từ điển. Cuốn sách tuyệt vời này ở nơi nào khác thì có thể là công cụ của kiến thức đấy, nhưng ở Colombia thì nó là một công cụ của quyền lực.

Quyền lực thật ra đến với García Márquez thông qua nghệ thuật văn chương, nhưng ngay trong những giấc mơ nồng cháy hoang dã nhất, đại tá Márquez cũng không thể hình dung ars combinatoria phi thường mà thằng cháu nội – ông gọi nó là Napoleon bé của ông – đã áp dụng vào quyển từ điển đó, cuốn sách “gần hai nghìn trang khổ lớn dày đặc, minh họa đẹp đẽ” mà “Gabito” bắt đầu đọc “theo thứ tự của bảng chữ cái, nhưng không hiểu mấy.” García Márquez đoạt giải Nobel Văn học năm 1982, và những cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng. Với sức mạnh phi thường của tài kể chuyện, với chất thơ duyên dáng, với thứ văn xuôi uyển chuyển và phong phú đến mức trong từng khoảnh khắc nó dường như chứa đựng toàn bộ các từ trong cuốn từ điển, những cuốn sách ấy được đọc ở khắp nơi. Thành phố quê hương của ông là điểm đến của khách hành hương văn chương. Ở Cartagena de Indias, cái thành phố cảng có thành bao quanh là nơi mà chàng phóng viên trẻ García Márquez trải qua những năm gian khó, các tài xế taxi chỉ cho du khách “Ngôi nhà Phần thưởng” một trong những ngôi nhà thuộc sở hữu của cái ông “Gabo” ấy trong các thành phố trên khắp cả thế giới. Cái biệt hiệu đáng yêu ấy cho ta thấy ông đã khơi dậy được sự đồng cảm rộng rãi trong dân chúng.

Năm 1996 García Márquez đã thanh toán một khoản nợ cũ trong lịch sử Colombia: lãnh đạo một cuộc cách mạng nhỏ chống lại sự chuyên quyền của các cuốn từ điển. Trước sự hoảng sợ của Viện Hàn lâm Hoàng gia Tây Ban Nha và bản sao của nó ở Zacatecas, Mexico, tác giả lừng danh này – ông chúa và bậc thầy của “Sự hiện diện vĩnh viễn của Tây Ban Nha trong ngôn ngữ – tự tuyên bố ông thích xóa bỏ chính tả. Sự khinh mạn này là thắng lợi cuối cùng của phái tự do cấp tiến Colombia đối với bá quyền về ngữ ngôn của phái bảo thủ. Linh hồn tướng Uribe Uribe và đại tá Márquez ngậm cười nơi chín suối.

Và Fidel Castro cũng mỉm cười. Vào lễ sinh nhật thứ bảy mươi của ông, ông nhận từ García Márquez một món quà hấp dẫn, một “vật báu thật sự”: một cuốn từ điển. “Tôi viết như vậy các bạn bè sẽ yêu mến tôi” García Márquez đã nhiều lần nói thế. Một trong các bạn bè đó là nhà độc tài Cuba. Trong lịch sử châu Mỹ Latin, không có mối ràng buộc nào giữa ngòi bút và quyền trượng từng mạnh mẽ bằng, thân mật bằng, lâu dài bằng và đôi bên cùng có lợi bằng liên minh giữa Fidel và Gabo. Năm 1915, khi nhà thơ lớn Nicaragua Rubén Darío (người có ảnh hưởng quan trọng đến García Márquez) già, yếu và túng bấn, ông đã cố đấm ăn xôi chấp nhận sự trợ giúp của nhà độc tài Guatemala Manuel Estrada Cabrera và thậm chí đã viết những bài thơ dành riêng tán tụng ông ta. Những động cơ chính trị để Castro liên kết công khai với nhà văn vĩ đại không khó hiểu, và cũng rõ ràng như của Estrada Cabrera: ông tìm kiếm lời lãi của tính hợp pháp. Thế nhưng các động cơ của García Márquez là gì, vì ông đâu có ở trong tình trạng quẫn bách như ông già Darío?

Ngày nay, nhờ cuốn tiểu sử đồ sộ do Gerald Martin soạn, những gốc rễ tâm lý của mối quan hệ phi thường này đang bắt đầu lộ diện. Chúng dẫn về ngôi nhà của gia đình ở Aracataca, và đặc biệt, tới mối ràng buộc giữa Gabito với bậc trưởng thượng gia tộc của ông, Đại tá Márquez. Tại đây có mầm mống của sự mê say của ông đối với quyền lực: bí ẩn, khó nắm bắt, nhưng thật một cách kỳ diệu, giống như câu chuyện về quyển từ điển được chuyển từ viên đại tá Colombia đến vị lãnh tụ Cuba thông qua bàn tay nhà văn.

“Cuộc sống không phải cái mà người ta sống, nó là cái mà người ta nhớ và cái cách mà người ta nhớ để kể lại nó” García Márquez đã viết thế trong đề từ cho cuốn hồi ký của ông. Đó là cái cách mà ông đã nhớ lại, làm tái hiện và kể lại bằng nhiều cách một sự cố bi thảm trong đời người ông của ông. Nó xảy ra năm 1908, ở Barrancas. García Márquez nhắc đến nó trong cuốn “Sống để kể chuyện” như một cuộc “đọ kiếm” một “cuộc đấu vì danh dự” trong đó vị đại tá không có lựa chọn nào khác ngoài việc đối đầu với một người bạn cũ, một viên cựu trung úy. Anh ta là “một gã khổng lồ trẻ hơn ông đến mười sáu tuổi” đã có vợ và hai con, tên anh ta là Medardo Pacheco. Theo kể lại, cuộc cãi cọ bắt đầu bằng một lời “nhận xét nhục mạ” đối với mẹ của Medardo Pacheco và nó được qui cho ông của García Márquez. Việc “giải thích công khai” về sự lăng nhục này không làm nguôi được cơn giận dữ điên cuồng của Medardo, và ông đại tá, “người xúc phạm danh dự” của anh ta đã thách Medardo một trận đấu kiếm trí mạng. Không có “ngày được ấn định” và anh phải mất đến sáu tháng để giải quyết vấn đề đảm bảo tương lai cho gia đình, trước khi ra đi để đón nhận số phận của mình. “Cả hai người đều trang bị vũ khí” García Márquez nhận xét. Medardo bị tử thương ngã gục xuống “bụi cây thấp nức nở không nói lên lời”

Một phiên bản trước đó của câu chuyện này, được kể trong một cuộc phỏng vấn với Mario Vargas Llosa, không nói đến cuộc đấu kiếm này: “Có lần ông đã phải giết một người, khi ông còn rất trẻ…hình như có một kẻ liên tục săn đuổi và thách thức ông, nhưng ông không để ý cho đến khi tình thế trở nên khó chịu đến mức ông phải cho hắn một phát đạn.” Theo García Márquez, thành phố đứng cả về phía ông nội của ông đến nỗi một người anh của kẻ đã chết phải ngủ “ngay trước cửa một ngôi nhà đối diện với nhà ông nội, để đề phòng gia đình khỏi đến trả thù cho cái chết của anh ta”.

“Cháu không thể biết một người chết đè nặng lên cháu thế nào đâu” ông nội kể đi kể lại với Gabito cho nhẹ bớt nỗi lòng, Gabito say mê nghe những câu chuyện chiến tranh của ông, và nhấn mạnh tầm quan trọng của thời kỳ này trong cuộc đời mình: “Đó là sự cố đầu tiên trong cuộc đời thực nó khuấy động bản năng viết lách của tôi, và tôi vẫn không sao xua đuổi được nó đi.” Đúng là để xua đuổi nó, ông chọn tái tạo nó không phải như nó đã được trải nghiệm, mà như “người ta nhớ nó để kể lại nó.” Có lẽ sự tái hiện sự cố này bằng văn chương đã đến lần đầu tiên vào năm 1965, trong kịch bản ông viết cho bộ phim Thời để chết, của nhà làm phim Mexico, Arturo Ripstein. Sau nhiều năm ốm yếu mòn mỏi trong tù, Juan Sáyago trở về thành phố, tại đây hắn giết một người nữa, Raúl Trueba, sau một cuộc đua ngựa. Sáyago tìm cách xây lại ngôi nhà cũ và chiếm lại người đàn bà mà hắn đã bỏ lại phía sau, nhưng những đứa con của người chết tin rằng vụ giết người đó là một vụ gian lận, đã đợi hắn suốt thời gian đó để trả thù. Kịch bản biện hộ cho nhân vật chính: “Sáyago không giết một người không có vũ khí” hắn đã không giết “một cách hèn hạ” “hắn đã giết anh ta mặt đối mặt, như mọi người.” Cuối cùng Sáyago không có lựa chọn nào khác là giết một trong những đứa con của Trueba, mặt đối mặt, và sau đó hắn bị đứa khác bắn – vào lưng, khi không mang vũ khí, một cách hèn hạ.

Cảnh này còn xảy ra lần nữa trong Trăm năm cô đơn, chuyển thành một cuộc chọi gà, sau đó Aureliano Buendía cho tên Prudencio Aguilar láo xược chọn vũ khí để họ có thể đối mặt nhau trong một cuộc đấu công bằng. Chỉ đến khi đó ông ta mới có thể giết Aguilar bằng một nhát giáo đâm chắc chắn. Giống như Đại tá Márquez trong đời thực, Aureliano đầu tiên lên tàu trong một cuộc di cư cùng với gia đình, để tìm một thành phố mới: thành phố Aracataca thật, Macondo huyền ảo (hư cấu). Nhưng những chân trời mới không xua tan được nỗi xấu hổ. Cả hai nhân vật, thực và tưởng tượng, sống trong nỗi dày vò của một “niềm ân hận khủng khiếp.” Và cả hai đều từ chối ăn năn hối cải, lặp lại “Tôi sẵn sàng làm lại tất cả chuyện đó lần nữa.”

Sau khi phỏng vấn hậu duệ của những người tận mắt chứng kiến, Gerald Martin dựng lại một phiên bản hoàn toàn khác. “Trong chuyện này chẳng có tí gì là anh hùng cả” ông kết luận. Mẹ của Medardo là người tình bị đá của ông đại tá khoác lác, và đứa con bị xúc phạm muốn tẩy rửa danh dự của nó; Márquez (lúc này đã bốn tư tuổi) chọn “thời gian, địa điểm, và thể thức cho cuộc quyết đấu”. Ông ta đã giết Medardo một cách hèn hạ: Medardo không có vũ khí. Trong tờ Công báo của bang Magdalena tháng Mười một năm đó, mà Martin đã tra cứu, có nêu viên đại tá bị phạt tù về “tội giết người.” Sau khi ngồi tù, giống như hóa thân văn chương của mình, ông không trở về Barrancas (nơi mà ông chắc chắn đã được đối xử giống như Juan Sáyago) mà lên đường trong một chuyến du hành quan trọng đến Aracataca, với hy vọng ngành trồng chuối mới phát đạt ở đó sẽ đem lại cho ông giàu có và quên lãng.

Mối liên kết giữa ông và cháu – được Martin nghiên cứu tỉ mỉ – giải thích nhu cầu của người cháu tạo ra câu chuyện hư cấu độc đáo này và giữ chặt mãi nó. “Chúng tôi luôn ở bên nhau” García Márquez nhớ lại trong hồi ký của mình. Thậm chí họ còn ăn mặc giống nhau. Trong nhà “chỉ có hai người đàn ông là ông nội và tôi.” Bị tách rời khỏi cha mẹ từ tấm bé và bị vây quanh bởi một lũ “những người đàn bà ngoan đạo” – bà nội, các cô, những người hầu gái Indian – đối với tôi, ông nội là tuyệt đối an toàn. Chỉ có ông mới làm cho những hoài nghi của tôi biến mất và làm cho tôi cảm thấy đôi chân của mình vững chãi trên đất và bản thân tôi đứng vững trong cuộc đời thực.” “Bị mắc cạn trong nỗi niềm hoài cổ” của ông già rắn chắc và mù dở trong cặp kính gọng đen ấy, người ông cứ mỗi tháng lại kỷ niệm “sinh nhật” cháu một lần và khen ngợi tài năng kể chuyện sớm nở của nó và bảo nó kể lại cho ông những cốt truyện phim mỗi khi nó từ rạp về nhà, García Márquez nhìn ông nội bằng ánh mắt đa cảm đầy tôn sùng và bao dung, như nhìn một hiện thân của tình yêu và sức mạnh. “Tôi lên tám tuổi thì ông mất…trong tôi có cái gì đó chết theo ông… từ đó không có gì là quan trọng xảy đến với tôi nữa.” Theo ý kiến của Martin, điều đó không có gì là cường điệu: “Một trong những sức đẩy mạnh nhất trong cuộc đời của García Márquez sau này là ước muốn đặt lại bản thân ông vào trong thế giới của ông nội ông” tức là thừa kế “những hồi ức của ông cụ, triết lý sống của ông và đạo đức chính trị của ông”, một đạo đức chính trị được gói gọn trong một câu duy nhất “Tôi sẵn sàng làm lại tất cả chuyện đó lần nữa.”

Ý thức chính trị của Gabriel García Márquez được hình thành từ sớm, khi ông bước vào lứa tuổi hai mươi, cùng với sự thôi thúc sáng tác. Nó liên quan đến miêu tả văn chương và có tính tự truyện về Công ty Liên hiệp Hoa qủa. Trong Trăm năm cô đơn cũng như trong Sống để kể chuyện Aracataca không phải chỉ là một thành phố công ty (với những đồn điền, đường sắt, trạm điện tín, cảng, bệnh viện, và các đội tàu), mà còn là quang cảnh của “tai ương trời giáng” của chủ nghĩa đế quốc Bắc Mỹ (Yankee), một sức mạnh lịch sử quyết định, mà “cảm hứng cứu thế” của nó khuấy lên những hy vọng của hàng ngàn người (trong số đó có ông bà của García Márquez) chỉ làm nhơ bẩn sông biển của cái thiên đường độc đáo này, quấy rối nếp sống thanh bình của nó, và bóc lột nhân dân của nó. Sau lưng nó, “cơn dịch” này chỉ để lại những “rác rưởi”, những “phế thải của phế thải mà nó đã mang đến cho chúng tôi.” Khởi đầu cuốn hồi ký, nhắc lại chuyến trở về cùng với mẹ thăm nơi sinh của ông ở khoảng giữa thế kỷ, García Márquez lột tả môi trường bao quanh thời thơ ấu của ông như một nạn phân biệt chủng tộc vùng Caribbe: “Thành phố riêng… bị cấm” của những người nước ngoài (Anh, Mỹ..) “Những bãi cỏ xanh buồn tẻ với những chim công và chim cút, những ngôi nhà mái ngói đỏ với những cửa sổ che rèm và những chiếc bàn tròn nhỏ với những ghế xếp để ngồi ăn, giữa những cây cọ và những khóm hồng bụi bặm… Đó là những cái nhìn thoáng qua về một thế giới biệt lập và không chắc thực, mà chúng tôi bị cấm lui tới. ”

Đây là những sự thật lịch sử, hay là những câu chuyện thú vị? Cái thực tại được trải nghiệm, hay cái thực tại được tái chế để kể lại? Cái động lực đằng sau công ty này không ai khác hơn là Tướng Uribe Uribe, người trước đây làm đại lý cho Công ty Bảo hiểm Nhân thọ New York, và một giáo sư kinh tế nhiệt thành tin tưởng vào kinh tế thị trường và vào nông nghiệp để xuất khẩu. Người chiến binh huyền thoại này cũng sở hữu một trong những đồn điền cà phê lớn nhất ở Antioquia. Martin không nhắc gì đến sự kiện này, nhưng có nhận xét rằng người bạn của Uribe Uribe là đại tá Márquez, người ông thánh thiện của nhà văn, thật ra là một trong những người đầu tiên được hưởng lợi từ hợp đồng bảo hiểm của cuộc đầu tư ngoại quốc này. Ngôi nhà xinh đẹp của ông ở Aracataca có thể không có bể bơi hay sân tennis, những có những sàn ximăng, và là một trong những ngôi nhà lớn nhất thành phố. Vì ông là người thu thuế của thành phố, “thu nhập riêng của ông Đại tá phụ thuộc vào sự thịnh vượng tài chính, sự nhiễm độc vật chất và từ đó kéo theo tình trạng bừa bãi tình dục của những “rác rưởi” đáng khinh ấy. Chúng ta không biết Nicolás đã thực hiện bổn phận của mình tận tâm như thế nào, nhưng hệ thống này không phải là một hệ thống để lại nhiều tự do cho liêm khiết cá nhân” Martin nhận xét, ông Đại tá giám sát những cơ sở gọi là “academias ” ở đó cả rượu và sex tha hồ tự do” và những “gái điếm không chắc thực” phải thông qua đó, những gái điếm tạo cảm hứng cho những câu chuyện và tiểu thuyết của người cháu ông, xuyên suốt đến cuốn tiểu thuyết cuối cùng, Hồi ức về những cô điếm buồn của tôi.

Bị lôi cuốn bởi sức mạnh của câu chuyện kể “được nhớ lại” trong Trăm năm cô đơn, Martin bỏ qua mối quan hệ nhập nhằng của gia đình với Công ty Liên hiệp Hoa quả, một quan hệ vừa yêu vừa ghét, điển hình cho thái độ vùng Carribe đối với người Mỹ. Công ty này bị lên án vì nó bỏ rơi nhân dân thành phố, chứ không phải vì sự hiện diện của nó. Trong hồi ký của mình García Márquez nhận xét rằng mẹ ông, Luisa Santiaga (tên trong đời thực của nhân vật Úrsula trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng) “khao khát mê say thời hoàng kim của công ty chuối” – tức là cái thời mà bà là một cô tiểu thư giàu có, với những lớp học clavico, những lớp nhảy đầm, những lớp tiếng Anh. Và bản thân ông thú nhận rằng ông nhớ cô giáo xinh đẹp của mình trong trường Montessori và những chuyến đi mua sắm với ông nội.

Sự thật là công ty chuối mang theo nó không chỉ là rác rưởi. Như nhà nhân loại học Catherine C. Legrand giải thích, vùng đất này bị vây quanh bởi các vùng đất khác, là một nồi lẩu thập cẩm của chủ nghĩa thế giới và chủ nghĩa địa phương, của “vàng xanh” và thuật phù thủy, bút máy Parker, thuốc mỡ VapoRub, yến mạch Quaker, kem đánh răng Colgate, của các loại xe Chevrolet và Fort, của thuốc nước phù thủy và thuốc vi lượng đồng căn (giống như những loại thuốc dùng bởi Eligio, người cha đồng bóng, túng quẫn và vắng mặt của Gabito) của sách của thuyết thần bí Thập giá hoa hồng (Rosicrucianbooks) và kinh sách Công giáo, của các Hội viên Tam điểm và những người theo thuyết thần trí, của những chuyện ma quỷ và những sáng tác hiện đại, của những thợ thủ công và những tay nhà nghề, của những cư dân đã có gốc rễ nhiều thế kỷ ở vùng bờ biển này với những kẻ nhập cư từ Italy và Tây Ban Nha, Syria, và Lebanon. Bà mẹ của García Márquez chắc đã muốn cảnh “phồn vinh giả tạo” này kéo dài vĩnh viễn. Đó là lý do tại sao, theo hồi ký, khi bà trông thấy quảng trường nơi xảy ra cuộc tàn sát, bà nói với con trai: “Đây là nơi thế giới chấm dứt.” Thế giới mà bà nói đến là thế giới của bà. Thiên đường không phải là đến trước công ty. Thiên đường là cái được tạo ra khi công ty đến – một thuật giả kim nhiệt đới mà García Márquez đã tái tạo ra trong những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông, và, đáng kể nhất là trong Trăm năm cô đơn.

Và sau hồi ức về apacthai là đến hồi ức về khải huyền. Năm 1928, theo yêu cầu của Liên hiệp Hoa quả, quân lính liên bang nổ súng vào đám đông công nhân biểu tình ở nhà ga Cinéaga, rất gần Aracataca nơi Gabriel García Márquez, mới sinh năm trước, sống với ông bà. Hàng trăm người bị giết. Cuộc tàn sát này – được tái hiện bằng ngoa dụ trong Trăm năm cô đơn –làm ô nhục danh tiếng của chế độ bảo thủ và sau năm 1930 mở đường cho một loạt chính phủ phóng khoáng, mà những cải cách xã hội quan trọng đụng phải chống đối của phe bảo thủ với lập trường còn phản động hơn trước. Vì các cuộc bầu cử năm 1946, đảng tự do đang nắm quyền chia làm hai phái, một phái ôn hòa, ủng hộ Gabriel Turbay, và phái kia cấp tiến hơn, hậu thuẫn Jorge Eliécer Gaitán, một lãnh tụ có tài lôi cuốn quần chúng. Trong những bài diễn thuyết đại chúng chống chủ nghĩa đế quốc của ông, Gaitán liên tục nhắc nhở đến cuộc tàn sát 1928, mà ông đã điều tra và lên tiếng phản đối ở Nghị viện. Sau đó, trong bối cảnh Hội nghị Liên Mỹ lần thứ chín họp ở Bogotá 9 tháng Tư năm 1948, Gaitán bị ám sát. Giai đoạn này được biết đến dưới tên gọi “El Bogotazo” và là điểm xuất phát cho một thập kỷ bạo lực xã hội và chính trị được biết đến như “La violencia.” Chàng sinh viên luật Gabriel García Márquez đã sống tấn thảm kịch gần kề. Nó là cái “Damascus chính trị” của ông - như với Fidel Castro, cũng có mặt ở Bogota vào thời gian đó. Nó khích động lòng căm thù chủ nghĩa đế quốc Bắc Mỹ và làm thức dậy những đồng cảm với chủ nghĩa cộng sản của ông.

Ngoài những tái tạo có tính văn học và tự truyện – tôn vinh ngài đại tá và biến công ty chuối thành quỷ dữ – trong ý thức chính trị của nhà văn trẻ đã hình thành nỗi nghi ngờ đối với các giá trị dân chủ đại nghị và cộng hòa. Martin hình như cũng chia sẻ điều này: “Colombia là một đất nước kỳ quặc trong đó hai đảng lớn có vẻ đã từng là kẻ thù quyết liệt trong gần hai trăm năm thế mà nay đã ngầm liên kết lại để đảm bảo nhân dân không bao giờ có quyền có đại diện thật sự của mình.” Ý tưởng về Colombia như một nước cộng hòa giả cũng là một sự tái hiện không phù hợp với thực tế. Ngay từ những thập kỷ đầu thế kỷ mười chín nhân dân tại những vùng xa xôi hẻo lánh nhất ở Colombia đã được tập dượt chính trị quốc gia, tham gia vào những cuộc bầu cử sạch và có tính cạnh tranh, với sự phân ly quyền lực thật sự, và được hưởng – ít nhất trong thế kỷ hai mươi – một số quyền tự do đáng kể. Ngoại trừ giai đoạn hải quân của Tướng Gustavo Rojas Pinilla những năm 1950, người dân Colombia chưa bao giờ để xảy ra những cuộc đảo chính hay các nền độc tài. Cõ lẽ không phải là cường điệu khi nói rằng không có nước nào khác trong khu vực này đã thử nghiệm dân chủ kiên trì hơn (ngay cả Chile, Uruguay, Costa Rica, hay Venezuela trong nửa cuối thế kỷ hai mươi cũng không, cho đến khi Chávez lên cầm quyền).

Tuy nhiên bạo lực dường như là bản chất thứ hai ở Colombia. Lý do chính cho bạo lực này là sự bất hòa giữa phe phóng khoáng và phe bảo thủ – một cuộc tranh cãi về các giá trị chính trị, kinh tế, xã hội, và tôn giáo đã có từ thế kỷ mười chín ở châu Mỹ Latin. Mặc dầu các xu hướng cộng hòa và dân sự của nó, Colombia không tìm được một công thức cho ổn định, và kéo lê cuộc xung đột chính trị văn hóa chỉ đem lại tàn phá cho cả hai bên đến kiệt quệ. Ở Colombia, các truyền thống chính quy và pháp định của các nhà ngữ pháp ngự trị bị lật đổ hết lần này đến lần khác bởi lệnh động viên. Tổng thống Rafael Nuñez cuối thế kỷ mười chín đã tuyên bố “Ở Colombia, chúng ta đã thể chế hóa tình trạng vô chính phủ.”

Sự thiểu năng của hòa bình được bộc lộ một lần nữa ở “Bogotazo” năm 1948, đã gieo vào chàng García Márquez trẻ tuổi một ý thức sắt đá về sự vô ích của các ý thức hệ tự do và thủ cựu. Giống như Đại tá Aureliano Buendía, ông đi đến chỗ tin rằng “điều khác nhau duy nhất giữa những người phóng khoáng và những người bảo thủ là những người phóng khoáng thì dự lễ mixa lúc năm giờ còn những người bảo thủ thì dự lễ mixa lúc tám giờ.” Ông đồng tình với tuyên bố nổi tiếng của Simón Bolívar rằng “Tôi tin từ trong xương tủy của mình rằng chỉ có một chế độ chuyên quyền có năng lực là có thể cai trị được ở châu Mỹ.” Một bạo chúa tài năng, một trưởng lão tốt bụng, một Uribe Uribe mới và chống đế quốc: có lẽ đã trở thành lý tưởng của Gabito. Để tìm ra nó, ông đã lên đường đi một hành trình dài và khó khăn. Và thay vì đại bác, công cụ của ông là ngôn từ, đúng như ông nội của ông đã muốn.

[2] Nghệ thuật nói đúng ngữ pháp và dùng từ đúng.