← Quay lại trang sách

PHẦN II

Gabriel García Márquez: Một cuộc đời là một cuốn tự truyện được ủy quyền, phiên bản chính thức của saga chính trị và văn chương của nhà văn. Cuốn sách được chia thành ba phần. Phần đầu tập trung vào Colombia từ 1899 đến 1955, chồng lấn ở một mức độ nhất định với Sống để kể chuyện, nhưng nó làm tươi mát lịch sử gia đình bằng một thông tin mới, và phác họa từng thành viên trong cái gia đình mở rộng trong ngôi nhà ở Aracataca, và tái hiện chi tiết về đời sống sinh viên ở ngôi trường có uy tín ở San José. Nó gợi lại một ít niềm vui và nhiều nỗi buồn của gia đình García Márquez, giàu lên và nghèo đi mỗi năm bởi những anh chị em mới ra đời. Trên hết, nó miêu tả sự thăng trầm của chàng trai không xu dính túi ở những thành phố kế tiếp nhau (Cartagena, Barranquilla, Bogotá) có các bạn bè là nhà báo và các ông thầy văn chương vây quanh, say sưa dấn thân theo đuổi sự nghiệp văn chương, bằng cách đi bán những bộ sách bách khoa hay soạn những vở kịch rẻ tiền cho đài phát thanh.

Lạ thay, Martin hoàn toàn bỏ qua cái bối cảnh văn hóa trong đó García Márquez đã lớn lên – nét cởi mở và hạnh phúc đặc trưng của dân Caribbe, với chủ nghĩa phóng khoáng lạ thường của nó, thú ham khoái lạc hội hè của nó, sự sùng bái thơ ca và tình yêu âm nhạc của nó, cái xu hướng thích đùa bỡn quá trớn, ma thuật đen, và chết dễ dàng. Ông hơi cường điệu sự phong phú và phức tạp trong giáo dục văn chương của García Márquez, hình như chỉ giới hạn trong Darío và thời hoàng kim Tây Ban Nha, rất nhiều Faulkner và Hemingway, đôi chút Kafka, hầu như không có gì về Freud “bê bối”, thậm chí còn ít hơn về Mann “ngoắt nghéo”. Và Martin hầu như không đả động gì tới mảng báo chí rộng lớn của García Márquez.

Mặc dầu có rất ít thư từ hay tài liệu gốc từ các hồ sơ lưu trữ công hay tư được nêu trong sách của ông, Martin – được cánh García Márquez biết đến dưới tên “Tiso Jeral”, như ông nói trong đoạn mở đầu – bỏ ra mười bảy năm phỏng vấn hơn năm trăm người: các thành viên gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, biên tập viên, người viết tiểu sử, người viết tiểu sử thánh, và các viện sĩ (phần lớn họ nghiêng về yêu thích nhà văn). Những chứng thực này sống động và đôi khi mơ hồ. Một số người từ chối mô tả trực tiếp, như bản mô tả của người bạn ‘toàn thời gian’ của García Márquez, nhà trí thức và ngoại giao Plinio Apuleyo Mendoza, khẳng định cảnh nghèo nàn thê thảm của nhà văn trẻ – nhưng phải chăng ông đã thật sự ở trong một căn phòng chỉ có mười foot vuông? Phải chăng ông đã thật sự quen với việc “không đếm xỉa gì đến các nhu cầu cơ thể của riêng mình”? Và, ở nơi nào khác có phải ông thật sự ngủ với vợ của một quân nhân, người bắt quả tang ông tại trận, đã tha thứ cho ông vì nhớ tới ơn của người cha ‘vi lượng đồng căn’ của ông? Có phải ông viết “Bão Lá“, tiểu thuyết đầu tay của ông về Macondo có cảm hứng từ chuyến đi cùng với mẹ đến Aracataca? Và chuyến đi này – như Martin gợi ý trong một chú thích, giống một cách đáng ngạc nhiên với chuyến đi ở đầu cuốn Pedro Páramo, cuốn tiểu thuyết của Juan Rulfo này là chìa khóa trong việc xác định giọng cho cuốn Trăm năm cô đơn – thật sự diễn ra là vào 1950, và nó có ý nghĩa quyết định đối với tác phẩm của ông như được nêu trong hồi ký của ông không? Một bức thư không được Martin nhắc đến, ghi tháng Ba năm 1952 và công bố trong Textos costeños (Tập bài báo đầu tiên của García Márquez) dường như khẳng định ngược lại:

Tôi vừa mới từ Aracataca trở về. Nó vẫn còn là một ngôi làng bụi bặm, đầy im lặng và chết chóc. Không khí bất an hầu như tràn ngập, với những ông đại tá già ngắc ngoải trong sân nhà dưới bóng những cây chuối to lớn, và một số lượng đáng kinh ngạc các cô gái già đồng trinh ở tuổi sáu mươi, cau có toát ra những dấu vết cuối cùng của giới tính, uể oải thờ thẫn vào lúc hai giờ chiều. Lần này tôi tình cờ đến đây, nhưng tôi không nghĩ tôi sẽ quay lại đây một mình, nhất là sau khi Bão Lá ra mắt và các ông đại tá già quyết định rút súng chơi một cuộc nội chiến cá nhân đánh lại tôi.

Phần thứ hai của Martin dõi theo nhân vật chính từ những cuộc lang thang ở châu Âu và thời gian ở Paris từ 1955-1957 qua cuộc hôn nhân của ông với Mercedes Barcha năm 1958 – người tình đanh đá và nhẫn nại thời thanh niên của ông – và cuộc phiêu lưu của ông sang New York với tư cách là phóng viên tờ Prensa Latina, hãng tin Cuba được thành lập sau khi Fidel Castro thắng lợi, cho đến năm 1961, khi ông định cư lâu dài ở Mexico, một đất nước hiếu khách (may mắn thay lại độc tài, chống đế quốc, và có kỷ cương, ít nhất vào thời gian ấy). Ở đó hai con trai của ông, Rodrigo và Gonzalo được sinh ra, và ở đó lần đầu tiên ông sống một cuộc sống tươm tất và chắc chắn với hai hãng quảng cáo Mỹ (J. Walter Thompson và McCann Erickson) và lãnh đạo thành công hai tạp chí thương mại (La familia và Sucesos para todos). Ông còn thử vận may của mình trong ngành điện ảnh và xuất bảnNgài Đại tá chờ thư. Ở Mexico ông nối lại các tình bạn cũ (đặc biệt với Álvaro Mutis) và kết nhiều bạn mới, không kém phóng khoáng và bền lâu (chẳng hạn, với Carlos Fuentes) mua nhà riêng và xe hơi, xin cho các con vào trường Mỹ, bị quấy nhiễu bởi đám nhà văn, sợ thành nạn nhân của “hoàn cảnh tốt” và cuối cùng, vào năm 1967, ở tuổi bốn mươi làm ngạc nhiên các thế hệ bạn đọc bằng việc cho ra đời Trăm năm cô đơn.

“Mỗi người có ba cuộc đời: đời công, đời tư, và một cuộc đời bí mật” García Márquez cảnh báo người viết tiểu sử ông như vậy. Ngoài những tiết lộ đáng kể về ông nội nhà văn, sách của Martin chỉ làm sáng tỏ một giai đoạn duy nhất trong “cuộc đời bí mật” của García Márquez: mối quan hệ ở Paris – trước cuộc hôn nhân của ông, tất nhiên – với một nữ diễn viên Tây Ban Nha đầy tham vọng. Mãnh liệt và kém may mắn, cuộc tình này quan trọng không chỉ ở bản thân nó, mà còn là nguồn cảm hứng cho Ngài Đại tá chờ thư, và truyện ngắn “Vết máu em trên tuyết”. Nhưng những khía cạnh khác trong “cuộc đời bí mật” của ông vẫn còn nằm trong bóng tối. Tại sao bỗng dưng ông cắt đứt quan hệ với Prensa Latina? Chỉ có hồ sơ lưu của Cuba, nếu có khi nào họ mở nó, là có thể rọi ánh sáng lên chuyện này. Cái gì là uẩn khúc trong việc trao đổi thư từ lâu dài với Mercedes? Không thể biết được: hai bên đều tuyên bố họ đã đốt tất cả thư từ rồi. Các mối quan hệ với các bạn văn của ông đã tiến triển ra sao? Ngoại trừ những thư từ trao đổi với Plinio Apuleyo Mendoza và một vài tác giả khác, các hồ sơ văn học hiện có đã không được Martin tra cứu. Cách nói của người Âu về “đời tư” của nhà văn phóng túng này, người thích ca hát nhảy múa, có chứa nhiều giai thoại mủi lòng. Có thật ông đã phải “đi lượm vỏ chai và báo cũ và có ngày đã phải xin ăn ở Metro”? Sự thật, như Plinio Apuleyo Mendoza chỉ ra, là Gacía Márquez dường như hoàn toàn không quan tâm gì đến những trải nghiệm ở châu Âu. Ông sống cách biệt, chìm ngập trong những dự án riêng của mình. Theo Martin, “thật đáng ngạc nhiên ông đã quan sát được Đông và Tây Âu nhiều đến thế,” nhưng bản thân Gacía Márquez đính chính lại Martin: “Tôi chỉ trôi giạt có hai năm, và tôi chỉ chăm chú vào các cảm xúc của mình, vào thế giới nội tâm của tôi thôi.”

Nói về “đời công” Martin có bao gồm cả Gacía Márquez-nhà báo –thời ấy là phóng viên ngôi sao của tờ báo Colombia El Espectador –khi ông làm một hành trình qua Đông Đức, Ba lan, Hungary, và Liên xô. Chẳng hạn, ông nhận xét về say mê kỳ lạ của nhà văn với xác ướp Stalin: “Không gì gây ấn tượng cho tôi mạnh hơn đôi bàn tay thanh nhã của ông, với những móng tay mỏng trong suốt. Đó là một đôi bàn tay phụ nữ.” Ông không giống chút nào với “tích cách nhẫn tâm mà Nikita Khruschev tố cáo trong trong một bài diễn văn cường điệu khủng khiếp.” Martin cũng ghi lại niềm “say sưa” của Gacía Márquez đối với sự gần gũi về thể xác của János Kádár, người đã đàn áp cuộc nổi dậy Hungary, mà ông ra sức biện hộ cho hành động của ông ta. Biết vụ hành hình lãnh tụ cuộc nổi dậy Imre Nagy, Gacía Márquez phê phán hành động ấy không phải về phương diện đạo đức, mà như “một sai lầm chính trị”. “Có lẽ chúng ta không nên ngạc nhiên” Martin nói, trong một lần phê phán thẳng thừng “rằng người viết điều này vào lúc đó rõ ràng đã tin rằng có những người “đúng” và người “sai” trong những tình huống đặc biệt, và hoàn toàn máu-lạnh đặt chính trị lên trước đạo đức, rốt cuộc bất chấp mọi trở ngại đã ủng hộ một lãnh tụ “không thể thay thế được” như Castro”

Những trang dành riêng về việc viết Trăm năm cô đơn thật sự hứng thú, nhưng hình như kết luận của Martin đã nói quá. Ông gọi cuốn tiểu thuyết là một tác phẩm – một tấm gương – trong đó lục địa của ông nói chung nhận ra chính mình, và như vậy tìm được một truyền thống. Nếu như Borges là người thiết kế ra kính ngắm (giống như một người anh em Lumière đến chậm) thì chính García Márquez là người đem đến một bức ảnh chân dung tập thể đầu tiên thật sự tuyệt vời. Như vậy châu Mỹ Latin không chỉ tự nhận ra mình mà bây giờ còn được công nhận ở khắp nơi, một cách phổ biến.

Vào thời gian đó, tất cả chúng ta đã đọc cuốn sách phi thường đó với một nhiệt tình thật sự đã khiến nó được coi như một loại kinh thánh (như Fuentes xác nhận), hay ít nhất một “Amadis châu Mỹ” (câu của Vargas Llosa); nhưng sự thật là cái thế giới của García Márquez không thể được gọi là tấm gương của cả châu Mỹ Latin. Ít nhất có hai yếu tố cơ bản bị bỏ sót từ mô tả hư cấu của ông: tầm cỡ bản địa và tín ngưỡng Công giáo.

Dù sao nó vẫn là tấm gương lạ thường của vùng Caribbe, không phải là chuyện nhỏ. Tuy nhiên không phải mọi ý kiến đều nhất trí ca tụng. Borges bình luận rằng Trăm năm cô đơn thì hay, nhưng giá nó rút ngắn đi hai mươi hay ba mươi năm thì hay hơn. Và phê phán của Octavio Paz còn gay gắt hơn: “Văn của Gacía Márquez về bản chất có tính hàn lâm, một kết hợp giữa văn báo chí và tưởng tượng. Chất thơ pha loãng. Ông là sự chắp nối hai dòng ở Mỹ Latin: sử thi thôn dã và tiểu thuyết quái dị. Ông không phải không có tài, nhưng ông là người pha loãng.” Martin thường muốn bỏ qua những phê bình văn học này, và lờ đi những phê bình (của Guillermo Cabrera Infante, và sau này của Vargas Llosa) về chủ nghĩa Castro của Gacía Márquez, coi nó như thành kiến ý thức hệ và đố kỵ tối tăm đối với tác giả cuốn tiểu thuyết mà, theo Martin, “là cái trục của văn học Mỹ Latin thế kỷ hai mươi, cuốn tiểu thuyết duy nhất không thể tranh cãi của lục địa này, có ý nghĩa lịch sử thế giới và tầm kinh điển thế giới”

Thật ra bắt đầu phần ba của cuốn sách, “Danh tiếng và Chính trị: 1967-2005,” Martin đã đánh mất khoảng cách của mình. Mặc dầu ông tiếp tục đưa ra những miêu tả sinh động về những hoàn cảnh trong đó cuốn tiểu thuyết được sáng tác – nỗi ám ảnh cũ về quyền lực kết tinh trong Mùa thu của trưởng lão, ký ức về một sự kiện có thực được Mercedes chứng kiến ở Sincé trong Ký sự về một cái chết đã được báo trước, cảnh điền viên của cha mẹ ông trong Tình yêu thời Thổ tả - Martin bám sát bản thảo chính thức của Gacía Márquez. Cuốn sách bắt đầu giống như một cột báo lớn lượm lặt những chuyện vụn vặt. “Đời tư” nhường chỗ cho “đời công”: hết trang này sang trang khác dồn dập những bữa ăn trưa, ăn tối, những tiệc tùng, phỏng vấn, những câu đùa, những chuyến đi, những khách sạn nhà hàng, những buổi xem hát và tiệc sinh nhật, tiệc Giáng sinh, những dạ hội lãng tử; một cuộc phô diễn những ông vua ông hoàng, những tổng thống, những diễn viên nam nữ, những nhà văn, những thành viên văn nghệ tiền phong. Mười trang Hello! xứng đáng dành cho lễ trao giải Nobel. Thậm chí những người hâm mộ nhiệt thành nhất của Gabo cũng phát chán khi đọc những đoạn mô tả dài dòng việc ông tiến bước lên ghế danh dự, mà Martin trong đoạn kết đã kêu lên: “Bất tử: một Cervantes mới.” Gacía Márquez tuyên bố đã nổi lên từ cái mê cung này bằng cách dùng danh tiếng của mình phục vụ cho một sự nghiệp cao quý hơn. Đó là Cách mạng Cuba.