PHẦN IV
Mặc dù những bài báo đáng nhớ này năm 1975, Fidel Castro nhận xét với Régis Debray rằng ông vẫn chưa tin tưởng vào tính “kiên định cách mạng” của nhà văn Colombia này. Thật ra, García Márquez đã từ chối giúp đỡ nhà thơ Cuba Heberto Padilla trong cái vụ nổi tiếng ông ta bị buộc “thú tội” rằng tiếng vọng mãnh liệt của các vụ án Moscow đã dẫn đến việc cắt đứt các nhà trí thức Mỹ Latin với chế độ này. Castro nhận thấy điều này, nhưng ông vẫn còn chưa chắc chắn, và không cho phỏng vấn. García Márquez lúc đó đã phải tự bằng lòng với việc phỏng vấn người hùng của Panama, Omar Torrijos, một nhà đốc tài hạng hai vùng Carribe, nhưng là một độc giả trung thành của García Márquez. Torrijos đã có câu này để nói về Mùa thu của trưởng lão: “Nó đúng đấy, nó là chúng tôi, chúng tôi là như thế đấy.” “Bình luận của ông khiến tôi ngạc nhiên và thích thú,” García Márquez nói. “Và rất nhanh, hai người đã thiết lập một tình bạn dựa trên sức hấp dẫn tình cảm sâu sắc qua thời gian đã biến thành một cuộc tình” Martin viết.
Năm 1976 García Márquez trở lại Cuba, và sau khi chờ đợi một tháng (giống như ông đại tá truyền kỳ) ở khách sạn Nacional một cuộc gọi của ngài Tư lệnh, cuộc gặp đã được dự tính gần hai thập kỷ cuối cùng cũng đa diễn ra. Ngay sau khi được Castro tiếp, và dưới sự giám sát cá nhân của ông ta, ông đã viết “Chiến dịch Carlota: Cuba ở Angola,” một biên niên mang đến cho ông một giải thưởng từ Tổ chức Nhà báo Quốc tế. Mario Vargas Llosa (người đã viết và xuất bản luận án tiến sĩ về Trăm năm cô đơn) đã gọi thẳng ông là “đầy tớ” của Castro. Hai năm sau, García Márquez tuyên bố rằng việc ông gắn vó với Cuba có ý nghĩa tương tự như với đạo Thiên Chúa: “một sự hiệp thông với các Thánh.”
Martin dành vài trang để miêu tả mối ràng buộc đang lớn lên giữa Tư lệnh và nhà văn sau 1980. “Mối quan hệ của chúng tôi là một mối quan hệ trí thức” García Márquez nói năm 1982. “Khi chúng tôi ngồi với nhau chúng tôi nói về văn học.” Và không phải chỉ có văn học liên kết họ lại với nhau. “Họ bắt đầu có những chuyến đi nghỉ hàng năm cùng với nhau tại dinh thự của Castro ở Cayo Largo,” Martin ghi lại, “nơi đôi khi một mình, đôi khi với khách, họ có thể nói chuyện trong chiếc xuồng du lịch nhanh hay du thuyền Acuaramas của ông.”
Vợ García Márquez “đặc biệt thích thú những dịp này bởi vì Fidel có cách cư xử đặc biệt với phụ nữ, luôn luôn chu đáo với một cử chỉ ga lăng theo phong cách cũ khiến người ta vừa vui thích vừa hãnh diện.” Ông cũng cho chúng ta biết về tài nấu bếp của Castro, và Gabo thì thích món trứng cá muối, còn Castro thì thích cá tuyết. Mừng giải Nobel, Castro gửi cho bạn mình cả một thuyền rượu rum, và khi gia đình trở lại ông đưa họ lên Nhà Lễ tân số sáu, ngôi nhà này chỉ vài năm sau trở thành ngôi nhà Cuba của họ. Tại đây García Márquez cho những vị khách như Debray ngập trong Veuve Cliquot. “Không có mâu thuẫn giữa việc người ta giàu có và việc người ta là nhà cách mạng,” García Márquez tuyên bố thế, “chừng nào bạn chân thành trong vai trò là nhà cách mạng và không chân thành trong việc là người giàu có.”
Nguồn cảm hứng này – không phải của chủ nghiã hiện thực xã hội chủ nghĩa, mà của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo – Martin có thể đã lấy một it nước ngọt từ Gabo và Fidel của Ángel Esteban và Stéphanie Panichelli (mà ông có nhắc đến trong cuốn tiểu sử nhưng không trích dẫn vào sách). Tập này đưa ra lời chứng thực của nhà thơ Cuba Miguel Barnet, một người bạn của García Márquez và là chủ tịch Tổ chức Fernando Ortiz. Barnet cho ta một mô tả chi tiết về các bữa tiệc ở “lâu đài Siboney” thậm chí miêu tả đến cả trang phục của chủ nhân. Fidel và Gabo – Barnet nói – là những chuyên gia thật sự về các vấn đề văn hóa ẩm thực, và họ biết cách thưởng thức rượu ngon và thức ăn ngon. Gabo là ‘người hưởng lạc số dách’ vì ông biết yêu bánh ngọt, cá tuyết, hải sản và thực phẩm nói chung.” Và Manuel Vázquez Montalbán, một nhà văn Tây Ban Nha và là bạn của Castro, sưu tập những chứng cớ sau đây từ “người thợ rèn vĩ đại” người có lẽ là đầu bếp giỏi nhất Cuba “Gabo là người tán thưởng tuyệt vời tài nấu bếp của tôi, và ông ấy hứa viết lời giới thiệu cho cuốn sách nấu ăn của tôi, mà tôi viết đã gần xong.” Trong cuốn sách dạy nấu bếp đó, mỗi món ăn được dành riêng cho một người và vì người ấy nó được sáng tạo ra. Món của Gabo là “Tôm hùm à la Macondo” còn của Fidel Castro là “Rùa Consommé.” Điều quan trọng cần ghi chú ở đây là vào thời gian đó sổ lương thực ở Cuba (được áp dụng từ năm 1962) gồm, cho mỗi người mỗi tháng, những cao lương mỹ vị sau đây: bảy pao[3] gạo và ba mươi aoxơ[4] đậu, năm pao đường, nửa pao dầu, bốn trăm gam mì sợi, mười quả trứng, một pao gà đông lạnh, và nửa pao thịt nền (gà) trộn với cá, mortadella, hay xúc xích có thể chọn cho thêm vào để thay đổi, trong cái loại “sản phẩm thịt” này.
Trong “Mùa thu của trưởng lão” vị trưởng lão nhìn xuống con người văn chương bằng vẻ kẻ cả: “Bọn nó vênh vang trong cái nghề văn như những con gà trống thuần chủng khi chúng rụng lông, do đó chúng nó là đồ vô tích sự trừ khi có giỏi một thứ gì đó.” García Márquez bây giờ có ngôi nhà của riêng mình trên hòn đảo ấy, là phải giỏi nhiều thứ. Tháng Mười Hai năm 1986, ông thành lập một Viện hàn lâm điện ảnh ở San Antonio de los Bãnos: New Latin American Cinema Foundation. Học viện mới này – do García Márquez tài trợ, là quan trọng đối với chế độ, bởi vì ở châu Mỹ Latin văn hóa luôn luôn là nguồn gốc cơ bản của tính hợp pháp. Trong số khách mời có Robert Redford, Steven Spielberg, và Francis Ford Coppola. Học viện này, như Martin mô tả, là một ý tưởng thông minh và kích thích: “Điện ảnh có tính vui vẻ, tập thể, tiên phong, trẻ trung; điện ảnh là sêchxy và điện ảnh là vui nhộn. Và García Márquez sống từng phút của nó; ông được bao vây bởi những cô gái trẻ hấp dẫn, nồng nhiệt và những chàng trai đầy tham vọng nhưng cung kính, và ông ở trong môi trường của mình”
Martin nói đúng: García Márquez “ở trong môi trường của ông.” Điều mà Martin không nhìn thấy là ý nghĩa tiểu sử của những gì ông kể lại. Toàn bộ sự việc giống như xây dựng lại thiên đường Macondo trước cơn bão lá, với thuận lợi là bây giờ Gabriel García Márquez là người sống ở phía bên kia, phía đặc quyền đặc lợi, phía “Mỹ”. Đối với những người Cuba bình thường, lâu đài Siboney của ông, những bữa ăn hoang phí của ông, nhưng sâm banh, những hải sản, mỳ sợi tuyệt diệu do Castro nấu nướng, những cuộc đi chơi bằng du thuyền, là – như García Márquez viết về “thành phố cấm” của người Mỹ ở Arcataca – “cái nhìn lướt qua về một thế giới biệt lập và không chắc thực mà chúng tôi bị cấm lui tới.”
Điều hay nhất là lại một lần nữa được đi dạo tay trong tay với trưởng lão. Năm 1988 García Márquez viết một tiểu sử sơ lược về “caudillo”[5] (như ông gọi ông ta) được xuất bản như lời giới thiệu cho Habla Fidel hay Fidel nói, một cuốn sách của tác giả Ilaty Gianni Minà. Trong cuốn tiểu sử sơ lược này, dành sự ngưỡng mộ về văn học đối với nhân vật chính của mình (“Ông có thể không nhận thấy sức mạnh của sự hiện diện của ông, nó dường như chiếm hết không gian trong phòng, mặc dầu ông không cao cũng không to như ấn tượng từ cái nhìn đầu tiên.”) Cùng năm đó, đang sống ở Habana, García Márquez đạt được tiến bộ trong cuốn sách về hành trình cuối cùng của Bolivar:
Tướng quân trong mê hồn trận. Martin gợi ý rằng miêu tả của ông về Bolivar được gợi hứng từ những nét đặc trưng của Castro, và ngược lại.
Năm tiếp theo mở đầu một cách tồi tệ, với những phản hồi của một bức thư chung được ký 1988 bởi nhiều nhà văn có danh tiếng quốc tế yêu cầu Castro theo bước Pinochet có đủ can đảm để làm một cuộc trưng cầu dân ý về chế độ của ông ta.
Đối với García Márquez, người từ những năm 1970 đã bộc lộ sự khinh bỉ đối với những thiết chế, luật pháp và các quyền tự do của nền dân chủ “tư sản”, và năm 1981 đã chế giễu “những giọt nước mắt cá sấu của những kẻ “thường chống Liên xô và chống cộng” sau cuộc đàn áp công đoàn Đoàn kết ở Ba lan – bức thư này là một chương mới trong sự nổi lên của “phái hữu” được John Paul II, Thatcher, Reagan, và bản thân Gorbachev cổ vũ. (Trong một chuyến thăm Moscow vào cuối những năm 1980, García Márquez đã cảnh cáo Gorbachev về nguy cơ đầu hàng đế quốc.)
Về những người đã ký bức thư phản đối nền chính trị phi tự do ở Cuba, Martin viết rằng “Những cái tên Mỹ không gây được mấy ấn tượng, trừ Susan Sontag, ngay cả những cái tên Mỹ Latin cũng thế (Carlos Fuentes, Augusto Roa Bastos, v..v.).” Trong số những tác giả Mỹ không gây được ấn tượng với Martin có Saul Bellow và Elie Wiesel; những tác giả Mỹ Latin là Reinaldo Arenas (người soạn thảo bức thư này), Ernesto Sábato, Mario Vargas Llosa, Guillermo Cabrera Infante, và Octavio Paz; trong số những người Âu có Juan Goytisolo, Federico Fellini, Eugene Ionesco, Czesław Miłosz, và Camilo José Cela.
Nhưng điều này có thể hiểu được. Đối với nhà viết tiểu sử và với chủ đề cuốn sách của ông, năm 1989 là năm tận thế. Một đòn đánh vào uy tín của Cuba còn mạnh hơn cả sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu là bản án được bàn tán nhiều kết án Tướng tư lệnh sư đoàn Arnaldo Ochoa và anh em Antonio (Tony) và Patricio de la Guardia, về tội vận chuyển ma túy và phản bội Cách mạng. Thời kỳ đen tối và tệ hại này – Martin chỉ dành có vài đoạn cho nó – được công luận chú ý vào Tháng Sáu 1989. Theo nhà báo Andrés Oppenheimer, việc vận chuyển ma túy qua Cuba bắt đầu năm 1986, và được sự bảo trợ ngầm của Fidel, cho đến khi tình báo Mỹ khám phá ra một vụ móc ngoặc. Khi đó Castro chớp lấy cơ hội giết bốn con chim bằng một hòn đá: ông có thể dứt bỏ một kẻ thù tiềm tàng nguy hiểm (Ochoa là một trong những chỉ huy cao cấp trong cuộc can thiệp vào Angola, một cựu binh trong cuộc đột nhập vào Venezuela. Ethiopia, Yement, và Nicaragua, và được công nhận chính thức là “Anh hùng của Cách mạng”) cùng với anh em Guardia, cả hai là bạn của Castro và gắn bó với Bộ Nội vụ dưới một “phe cánh ngầm” khác, viên tướng tư lệnh sư đoàn José Abrantes. Fidel đã giao cho Tony de la Guardia, người “được ông bảo hộ”, nhiều nhiệm vụ tình báo (như vụ rửa 60 triệu đô la cho Montoneros của Argentina trong năm 1975, để thanh toán cho một cụ bắt cóc). Khó mà tin rằng cuộc phiêu lưu mới này – theo lệnh rõ ràng của Abrantes – không được hưởng sự bảo trợ của Fidel, giống như tất cả mọi việc trên hoàn đảo này. Nhưng mục đích biện minh cho phương tiện.
Sự kiện nổi bật là Antonio de la Guardia, một tính cách như trong một phim hành động, cũng là bạn thân của García Márquez. Một trong những tranh vẽ của ông ta treo ở nhà của García Márquez ở Habana. Cùng năm đó, 1989, Gabo đề tặng Tướng quân trong mê hồn trận cho ông ta: “Tặng Tony: người gieo điều thiện.” Ngày 9 tháng Bảy, khi bản án cuối cùng sắp được công bố, Castro đến thăm García Márquez tại nhà riêng ở Havana. Oppenheimer tái hiện một đoạn trong cuộc nói chuyện dài đó như sau: “Nếu họ bị hành hình, sẽ không ai tin rằng nó không phải là do anh ra lệnh” theo thuật lại, García Márquez đã nói thế. Đêm khuya, nhà văn tiếp Ileana de la Guardia, con gái Tony, và chồng cô ta là Jorge Masseti (con trai của một chỉ huy du kích đã mất Jorge Ricardo Masseti, một người bạn cũ và sếp của García Márquez ở Prensa Latina ). Họ đến cầu xin García Márquez can thiệp giùm để cứu mạng Guardia. Nhà văn nói đại loại “Fidel không điên đến mức ông có thể để cho các vụ hành hình diễn ra,” và khơi dậy hy vọng của họ. Ông nói họ không nên lo lắng, và khuyên họ không nên kêu gọi các tổ chức nhân quyền. Bốn ngày trôi qua. Rồi, ngày 13 tháng Bảy, 1989, người bạn tốt của Gabo, Tony de la Guardia và Ochoa bị hành hình. Patricio bị phạt ba mươi năm tù và Abrantes hai mươi năm. Ông này chết vì bệnh tim năm 1991.
Mặc dù rời Cuba trước vụ hành hình, theo những chứng cớ do chính Ileana de la Guardia thu thập được, García Márquez đã “tham dự phiên tòa, cùng với Fidel và Raúl, đằng sau tấm gương lớn’ trong hội trường lớn của Các Lực lượng Vũ trang Cách mạng Cuba.” Ở Paris, trong lễ kỷ niệm hai trăm năm Cách mạng Pháp, ông nói với François Mitterrand rằng đó chỉ là “một xích mích giữa các sĩ quan.” Ông tuyên bố công khai đã có “những thông tin rất tốt” rằng việc kết án “phản bội” là công bằng, và ông bình luận rằng trong tình hình đó Castro không có lựa chọn nào khác.
Vài tháng trước sự kiện đó, khi viết những trang cuối cùng của Tướng quân trong mê hồn trận, García Márquez đã tả Simón Bolívar khoái trá trong giấc ngủ khi ông ta nhớ lại ông ta đã ra lệnh bắn viên tướng lai đen can đảm Manuel Piar, là người vô địch chống Tây Ban Nha và một anh hùng của quần chúng. “Đó là việc sử dụng quyền lực dã man nhất trong đời ông,” García Márquez bình luận trong tiểu thuyết của mình. “Nhưng cũng là thời cơ thuận lợi nhất cho ông để củng cố quyền lực, hợp nhất quyền chỉ huy của ông, và dọn đường đi đến vinh quang.” Và đến đoạn cao trào của chương, García Márquez đặt vào mồm Bolivar câu nói của ông nội ông: “Tôi sẵn sàng làm lại tất cả những chuyện đó.”
“Hồi đó tôi không xuất bản bất kỳ quyển sách nào trước khi Tư lệnh đọc nó” García Márquez nói đôi lần vào giữa những năm 1980. Đó là lý do vì sao Martin, nhắc đến những đoạn nói về Bolívar và Piar, đã tự hỏi “Liệu ông (Castro) có nhớ đến những đoạn ấy khi ông ra quyết định không?” Tất nhiên ông ấy nhớ. Nhưng căn cứ vào “những thông tin rất tốt” mà García Márquez luôn luôn tuyên bố là ông có được về tình hình Cuba, và căn cứ vào việc ông rất thân với Antonio de la Guardia, những câu hỏi thú vị không dính dáng đến nhà độc tài mà đến nhà văn. Chẳng lẽ García Márquez không biết gì về nhiệm vụ bí mật của ông bạn Tony của mình? Khi ông viết cuốn tiểu thuyết của mình, ông có xem xét cái khả năng là các bạn ông sẽ bị bắt về tội cố ý “phản bội” không?
Và như vậy một chu kỳ cũ của sự đồng lõa đã hoàn thành. Nó bắt đầu bằng việc hành hình trong nhóm khống chế của chàng García Márquez trẻ tuổi – việc ông nội chàng bắn người bạn, trung úy Medardo, con của người tình – và kết thúc với việc hành hình trong nhóm khống chế của ông: bản án của Tổng Tư lệnh về người bạn Tony của ông, người gieo giống tốt. Nhà văn là người từ thời rất sớm, đã chấp nhận thứ “đạo đức chính trị” của ông nội, là người “hoàn toàn máu lạnh đặt chính trị lên trước đạo đức,” là người đã thấy Castro như “hình ảnh của ông nội ông, người mà ông không thể, không dám, và thậm chí không muốn thắng” đã buộc phải thử nghiệm lý thuyết của mình bằng xương máu. Và ông đã chấp nhận phán quyết của quyền lực.
Tình bạn và những con tôm hùm đã tiếp tục trong hai mươi năm. Người viết tụng ca, cố vấn cung đình, đại lý báo chí, đại sứ lưu động, đại diện toàn quyền, lãnh đạo các quan hệ quốc tế: García Márquez đã làm tất cả những vai trò này cho Castro. Năm 1996, ông ăn tối với tổng thống Clinton và nói với ông ta rằng: “Nếu ông và Fidel có thể ngồi đối diện nhau, sẽ không còn vấn đề gì nữa.” Sau sự kiện ngày 11 tháng Chín, ông công bố một bức thư dài gửi Bush: “Ông sẽ cảm thấy thế nào nếu bây giờ sự khủng khiếp ấy nổ bùng ra ngay trong sân nhà ông mà không phải trong phòng khách nhà hàng xóm?”
Mọi việc diễn biến khá ổn cho nhà văn và Tư lệnh, chỉ trừ một vài thời điểm, như trong năm 2003, một phong trào quan trọng hơn và rộng rãi hơn phong trào dân chủ, là phong trào nhân quyền, hình như đã xen vào giữa họ. Vào tháng Ba năm đó, bằng một đòn bất ngờ và tàn ác, Castro lặp lại những phiên toà Moscow, kết án bảy mươi tám nhà bất đồng chính kiến từ mười hai đến hai mươi bảy năm tù. (Một người trong số họ bị kết án vì đã sở hữu một máy ghi âm Sony). Ngay lập tức sau đó, giữa thời khắc nóng bỏng ấy, ông ra lệnh hành hình ba thanh niên đã cố trốn thoát khỏi thiên đường trên một chiếc bè. Đối đầu với tội ác ấy, José Saramago tuyên bố (mặc dầu sau đó ông rút lại tuyên bố này) rằng đó là “đây là điểm tận cùng” trong quan hệ của ông với Castro. Nhưng Susan Sontag đi xa hơn, và trong Hội chợ Sách Bogotá, bà trực diện với García Márquez: “Ông ấy là nhà văn lớn nhất của đất nước này và tôi rất ngưỡng mộ ông ấy, nhưng không thể tha thứ được việc ông không lên tiếng về những biện pháp mới đây của chế độ Cuba”
Để đáp lại, García Márquez dường như có vẻ xa lánh, một cách không dứt khoát, với Castro: “Xét về các án tử hình, tôi không có gì nói thêm vào những gì tôi đã nói ở chỗ riêng tư hay trước công chúng trong chừng mực mà tôi còn nhớ: tôi phản đối nó ở bất kỳ nơi nào, vì bất kỳ lý do nào, và trong bất kỳ hoàn cảnh nào.” Cứ như thể vấn đề chỉ là án tử hình! Và gần như liền đó ông đã lánh xa ngay sự xa lánh của mình: “Một số cơ quan truyền thông – trong đó có CNN – đang xuyên tạc và bóp méo câu trả lời Susan Sontag của tôi, làm cho nó có vẻ như một tuyên bố chống lại Cách mạng Cuba.” Để nhấn mạnh, ông nhắc lại một tuyên bố cũ, để thanh minh cho quan hệ cá nhân của ông với Castro: “Tôi không thể đếm được số lượng các tù nhân, những nhà bất đồng chính kiến, và những kẻ âm mưu, những người mà tôi đã giúp đỡ trong im lặng tuyệt đối, để ra khỏi nhà tù và di cư khỏi Cuba trong ít nhất hai mươi năm qua.”
Trong “im lặng tuyệt đối” hay trong đồng lõa tuyệt đối? Tại sao García Márquez có thể giúp đỡ bất kỳ ai rời khỏi Cuba nếu ông không coi việc tù tội của họ là bất công? Và nếu ông coi nó là bất công, trong phạm vi đấu tranh cho sự nghiệp của họ, tại sao ông đã tiếp tục – tại sao ông vẫn còn tiếp tục – ủng hộ một chế độ gây nên những bất công ấy? Tố cáo sự cầm tù bất công đối với “những tù nhân, những nhà bất đông chính kiến, những kẻ âm mưu” ấy, và như vậy giúp xóa bỏ hệ thống nhà tù chính trị, có phải là giá trị hơn không?
Gabriel García Márquez không phải là một nhà văn trong lồng kính. Ông tuyên bố tự hào với công việc nhà báo của mình. Ông cổ súy báo chí tại một học viện ở Colombia. Ông đã khẳng định rằng những bài báo phóng sự là thể loại văn học với tiềm năng trở thành “không chỉ chân thật với cuộc sống mà còn tốt đẹp hơn cuộc sống. Một bài báo cũng tốt như một cuốn tiểu thuyết, nhưng có một sự khác biệt quan trọng và không thể xâm phạm: tiểu thuyết và truyện ngắn cho phép bịa đặt không giới hạn, nhưng phóng sự phải thật cho đến dấu phảy cuối cùng.” Như vậy làm thế nào có thể hòa hợp tuyên bố về đạo đức nghề báo này với việc chính ông che dấu sự thật ở Cuba, mặc dầu ông có đặc quyền thông tin nội bộ?
Cuối cùng lịch sử đã phán quyết cả về đạo đức và thẩm mỹ. Về phương diện thẩm mỹ, nói rằng García Márquez là một “Cervantes mới” là hơi vội vã. Nhưng về mặt đạo đức, chắc chắn là không thể có sự so sánh. Là một anh hùng trong chiến tranh chống Thổ Nhĩ Kỳ, bị thương và tàn tật trong chiến tranh, đắm tàu và bị cầm tù ở Algeria trong năm năm, Cervantes sống với những lý tưởng của ông, những nỗi đau khổ của ông, trong cảnh nghèo nàn với tính chính trực như Don Quixote, và hưởng tự do cao cả nhất trong việc chấp nhận thất bại một cách hài hước. Không hề có một dấu vết nào của sự cao cả về tinh thần đó ở García Márquez, người đã say sưa cộng tác với độc tài và áp bức. Còn Cervantes ư? Không bao giờ!
Vẻ đẹp của những hư cấu của Gabriel García Márquez sẽ sống mãi mặc dầu những sự trung thành méo mó của người sáng tạo ra nó, đúng như tác phẩm của Céline sẽ sống mãi mặc dầu sự say mê của ông đối với chủ nghĩa quốc xã, và tác phẩm của Pound sẽ sống mãi mặc dầu ông ngưỡng mộ Mussolini. Nhưng sẽ là một sự công bằng đầy chất thơ nếu, trong mùa thu của cuộc đời mình và trên đỉnh cao chói lọi của vinh quang, ông tự tách mình ra khỏi Fidel Castro và dùng ảnh hưởng của mình để phục vụ cho những thuyền nhân Cuba. Tất nhiên chẳng có hy vọng gì cho một sự chuyển biến như thế. Những chuyện như thế chỉ xảy ra trong các tiểu thuyết của García Márquez mà thôi.
[3] 0,454kg
[4] 28,35g
[5] Caudillo là một từ tiếng Tây Ban Nha mô tả một lãnh tụ chính trị - quân sự đứng đầu một chế độc độc tài chuyên chế (sếp, tư lệnh, người hùng, như Simón Bolivar) hay những lãnh tụ có sức lôi cuốn quần chúng (như Jorge E. Gaitán). Các Caudillo có ảnh hưởng rất lớn trong lịch sử châu Mỹ Latin.