← Quay lại trang sách

PHẦN III

Khởi đầu là miêu tả về quyền lực: trong những truyện ngắn, trong Trăm năm cô đơn (với những ông đại tá già, cô đơn và chán nản, “đã hết thời vinh quang và không còn luyến tiếc vinh quang nữa”) và cuối cùng, năm 1975, trong Mùa thu của trưởng lão, một trong số sách được García Márquez ưa thích nhất, mà theo lời của chính nhà văn, là một lời thú tội. Martin hiểu ông qua chính lời của ông. Người trưởng lão đầy tham vọng, dâm dật, đáng tởm, tàn nhẫn, cô độc – trên hết là cô độc – là chính bản thân García Márquez, “một nhà văn rất nổi tiếng cực kỳ khó chịu với tiếng tăm của mình” và trút gánh nặng qua một cuốn tự truyện trong đó tinh thần chủ đạo là một cố gắng đạo đức vươn tới “tự phê bình.”

Mùa thu của trưởng lão không phải cuốn tiểu thuyết đầu tiên về những nhà độc tài cuồng nhiệt viết bằng tiếng Tây ban Nha trong thế kỷ hai mươi. Còn có Bạo chúa Banderas (1926) của nhà văn Tây Ban Nha Ramón del Valle-Inclán, và Ngài Tổng thống (1946), của nhà văn Guatemala Miguel Ángel Asturias (đoạt giải Nobel Văn học 1967). Đầu năm 1968, theo lời nhà văn Guatemala Augusto Monterroso, một số nhà văn Mỹ Latin, Monterroso nêu tên Fuentes, Vargas Llosa, Cortázar, Donoso, Roa Bastos, Alejo Carpentier, nhưng không có Gabriel García Márquez – soạn thảo một kế hoạch xuất bản các sách về các nhà độc tài của đất nước họ. Kế hoạch này đã không được thực hiện. “Tôi sợ rốt cuộc tôi sẽ ‘thông cảm’ và ‘thương hại’ ông ta”, Monterroso biện luận, chắc ông đã nhận được nhiệm vụ khắc nghiệt là miêu tả chân dung Somoza.

Trên bối cảnh ấy, có lẽ García Márquez đã đảm nhận viết cuốn tiểu thuyết của ông về nhà độc tài trong tinh thần đua tranh hơn là sám hối. Ông đã mất nhiều năm trăn trở nó trong đầu, và ông đã soạn ra những bản thảo mở rộng. Ông đã “dạy” Asturias và những người khác “viết một cuốn tiểu thuyết thật sự về nhà độc tài phải như thế nào.” Và nếu Mùa thu của trưởng lão chứng tỏ điều gì, thì đó là chủ đề bạo ngược chuyên chế rất thích hợp với những yêu cầu biểu hiện của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo.

Tính thô bạo và độc đoán của nhà độc tài, cách ông ta sử dụng quyền lực như một hình thức thể hiện cá nhân, sự đam mê phóng đãng với sức mạnh của riêng mình, là những biến thể tự nhiên thuộc bản chất của cái thực huyền ảo. Trưởng lão “chỉ biết cách thể hiện những mong mỏi tha thiết nhất của ông qua những biểu tượng thấy được của quyền lực khổng lồ của ông.” Ông khao khát làm một nhà pháp thuật của lịch sử thậm chí của vũ trụ, làm thay đổi các lực lượng của thiên nhiên và dòng chảy thời gian, bẻ cong bóp méo thực tại.” Cách nào đó hình tượng trưởng lão của García Márquez làm ta nhớ đến Caligula của Camus: “Nhìn thấy con người tự do duy nhất ấy trong toàn đế quốc La mã. Sung sướng chưa: cuối cùng một vị hoàng đế đã đến để dạy tự do cho họ…Tôi sống, giết, nắm quyền lực mê ly của kẻ phá hoại, bên cạnh nó quyền lực của đấng sáng tạo dường như chỉ là một bức biếm họa.”

Những sự quá đáng này làm thành một phần của thực tại, và ký ức, của nhiều đất nước. Nhà văn Venezuela đáng kính Alejandro Rossi biết điều gì đó về “sự mô tả bằng hình tượng được thừa kế” này. Viết năm 1975 và không có xu hướng hiện thực huyền ảo dưới dạng “tươi trẻ và mãnh liệt” nhất của nó, như đôi khi nó tự tuyên bố trong Mùa thu của trưởng lão, Rossi khen ngợi “những hình ảnh khắc họa một cách điêu luyện, đẹp đẽ và mãnh liệt,” “tính phức tạp và nghệ thuật” của thứ văn xuôi này và “những nhịp điệu thường là hoàn hảo” của tác phẩm, nhưng ông phản đối cái căn bản của nó:

Sự phối hợp của quá nhiều yếu tố quen thuộc biến cuốn sách thành một bài tập thông minh xuất sắc tuy nhiên nó không làm thay đổi quan niệm lịch sử và tâm lý của chúng ta về nền độc tài. Mùa thu của trưởng lão khảo sát về mặt thẩm mỹ một cái nhìn đã sờn mòn và cũ nát của chính chúng ta. Những thành tựu về văn phong điêu luyện và không thể hồ nghi của García Márquez hầu như chưa bao giờ cải biến được cái bản chất ngầm vẫn còn chôn dấu bên dưới cuốn tiểu thuyết, mà bất kể sự sắc sảo văn chương nào cũng không chạm đến được. Theo nghĩa đó nó là một cuốn sách Baroque, một cái lưới văn chương kín mít đôi khi – cho dù bằng những phương sách hoàn hảo – bóp nghẹt chủ đề chính của câu chuyện kể.

Cốt truyện của cuốn tiểu thuyết là một ghi chép về chủ quan của bạo chúa: nỗi niềm hoài cổ của ông ta, những nỗi sợ hãi, các tình cảm của ông ta. Và sự đơn giản của thế giới nội tâm của ông ta là một sự xúc phạm về mặt đạo đức: họa hoằn lắm độc giả mới gặp những suy nghĩ về bổn phận và những thế tiến thoái lưỡng nan của quyền lực, hay ngẫm nghĩ về cái ác, sự đê tiện hay lời nhạo báng cay độc, nhưng hầu như không có dấu vết của một cuộc khủng hoảng lương tâm. Chỗ cao nhất trong lương tâm của nhà độc tài là dành riêng cho những nỗi đau riêng của ông ta: những hy sinh của ông ta cho người mẹ, ký sự về thói dâm dục và “những mối tình không được đền đáp” của ông ta. Có vẻ như nhà độc tài hầu như không có cuộc đời xã hội, mà chỉ có những đam mê riêng tư. Theo cách đó nhân vật lịch sử này được miễn trừ một cách kỳ lạ khỏi lịch sử. Ngược lại, những nhân vật vây quanh ông ta không có không gian riêng cho mình, mọi thứ họ nghĩ, nói, và làm là thuộc về đời sống xã hội, bởi vì nó xoay quanh nhà độc tài. Trong một câu chuyện mà cái trục chính là nhân vật tôi một nhà độc tài mơ mộng và đa cảm, mọi thứ khác thu nhỏ lại thành một sân khấu trên đó tôi tự bộc lộ. Các nạn nhân là những đạo cụ sân khấu.

Nếu García Márquez miêu tả nhà độc tài, thì không đến mức phơi bày và phân tích nội tâm phức tạp của một chính khách, mà chỉ khơi gợi tình thương đối với nỗi buồn, nỗi cô đơn của một ông già. Nhà độc tài là nạn nhân của nhà thờ, nước Mỹ, sự thiếu tình yêu, các kẻ thù, những cộng sự, cảnh mồ côi của ông ta, thiên tai, sức khỏe kém, sự ngu dốt cổ lỗ, vận rủi. Sau khi ông ta hãm hiếp một phụ nữ, chị ta an ủi ông. Còn có cả một nhà an dưỡng dành cho các nhà độc tài bị thất sủng, tại đó họ dùng những buổi chiều ở nơi lưu vong để chơi đôminô. Nỗi nhớ quê hương đảm bảo cho họ được miễn tố. Cuốn tiểu thuyết bằng một cách hoa mỹ và đa cảm làm mờ đi cái thực tại của quyền lực, và biến nền chuyên chính thành một vở cải lương. Nó lấy đi nhân tính của nạn nhân và trả lại nhân tính cho kẻ độc tài.

Trong Mùa thu của trưởng lão, chính cái mạch văn của nó, một dòng chảy ào ạt không thể kiềm chế lại được cuốn qua các thời đại, các lục địa, các nhân vật, bản thân câu chuyện kể trở thành độc đoán.

Cuốn tiểu thuyết bắt đầu bằng một đoạn văn dài tám mươi bảy trang, đôi khi dày vò bạn đọc một cách ngọt ngào, mà García Márquez đã biện hộ bằng cách nói rằng “nó là thứ đồ xa xỉ mà tác giả Trăm năm cô đơn có thể cho phép mình xài” Trong cuốn sách này chỉ có chỗ cho ý thức của nhà độc tài. Mọi chuyện xảy ra qua, cho, và trong nhận thức của trưởng lão. Ông ta là người kể chuyện biết hết mọi thứ, là tác giả của một đất nước. Các ý thức khác chỉ là thứ yếu, phái sinh và không tồn tại. “Hiến mình cho niềm hoan lạc cứu thế của tư duy cho chúng ta…ông là người duy nhất biết được kích cỡ thật của số phận chúng ta,” García Márquez viết, và “cuối cùng, chúng ta không thể nào hình dung chúng ta có thể sẽ là gì nếu không có ông.” “Riêng mình ông là dân tộc” – và là cuốn tiểu thuyết.

Cuốn sách này về nhiều mặt khác với Ngài Tổng thống, một cuốn tiểu thuyết - thơ có hơi hướng siêu thực, chính trị, cách mạng; nhưng có lẽ chỗ khác nhau chủ yếu là ở sách của Asturias người ta không chỉ nghe có một giọng bạo chúa. Người ta còn nghe thấy cả giọng nói của “nhân dân đường phố.” Các quan chức dân sự và quân sự nói trong giận dữ và trong tự phê bình, trong khi người dân có cuộc sống đang diễn tiến của họ. Trong tiểu thuyết của Asturias những giọng nói của họ được kính trọng, và những trải nghiệm nhà tù và tra tấn được miêu tả. Khi phơi bày sự lạm dụng, tham nhũng và tính thất thường của chính quyền, giọng điệu của nó không chỉ là phê phán dứt khoát rành mạch không lập lờ, mà còn khinh bỉ. Không có miễn trừ. Trong Mùa thu của trưởng lão, ngược lại, các nạn nhân là một phần của phông màn sân khấu. Họ không bao giờ là những người tham gia tích cực vào câu chuyện.

“Khía cạnh chính trị của cuốn sách này phức tạp hơn rất nhiều so với vẻ ngoài của nó, và tôi không định giải thích nó.” García Márquez tuyên bố khi kết thúc cuốn tiểu thuyết. Martin chắc chắn đã sẵn sàng giải mã nó: “nhà văn cô đơn” (đừng để ý đến cái danh sách vô tận các bạn bè nổi tiếng của ông) đã nhìn thấy mặt của chính mình trong tấm gương và “quyết định sẽ sống tốt hơn và làm tốt hơn, khi lúc này số phận đã cho ông nhìn thấy sự thật.” Việc nâng cao đạo đức này nằm ở chỗ dùng danh tiếng của ông để phục vụ cho một sự nghiệp – Cách mạng Cuba – dẫn đầu bởi một người, thật ngược đời, sẽ mang một nét giống người trong gương. “Theo cái chủ nghĩa khuyển nho cực kỳ tàn nhẫn về con người, quyền lực và của cải này” Martin viết, “chúng tôi thấy bản thân mình bị buộc phải coi rằng quyền lực có đó là để được sử dụng và ‘một ai đó phải làm điều này.’” Dựa trên quan điểm lịch sử “Machiavenlli” này – tính từ này, cũng như logic, là của Martin – nhà viết tiểu sử tin rằng ông đã hiểu tại sao García Márquez thẳng tiến.. đi tìm quan hệ với Fidel Castro, một nhà giải phóng xã hội chủ nghĩa, người hóa ra là nhà chính khách Mỹ Latin có tiềm năng trở thành gương mặt lâu bền nhất và thân yêu nhất trong số các nhà độc tài trên toàn châu lục”

Một nhà độc tài là một nhân vật quyền uy, tôi nghĩ thế, nhưng là nhân vật rất kỳ quặc. Có lẽ Mùa thu của trưởng lão thể hiện câu thần chú cuối cùng của câu chuyện về người ông của nhà văn, trong đó từ “bạo chúa” được tế nhị làm dịu đi thành “trưởng lão”. Vị trưởng lão đọc cho viết chính tả toàn bộ tiểu thuyết, không có dấu chấm dấu phảy hay để cho ai kịp thở, trừ ông. Đó là cuốn tiểu thuyết trong đó bóng ma của Medardo Pacheco, kẻ nạn nhân đạo cụ ấy với người mẹ bị tình nhân đá, và người vợ với hai đứa con ma, sẽ vĩnh viễn biến mất. Tiếng nói của anh ta bị buộc phải câm lặng, không nghe được ở đâu nữa. Và sau khi mô tả vị trưởng lão trong văn học, thì đến lúc đi tìm ông ấy trong đời thực. Martin khẳng định điều này: chính “Fidel Castro, con người duy nhất, nhân vật người ông của ông, là người mà ông không thể, không dám, thậm chí không hề muốn thắng.” Từ Macondo đến Havana: một phép lạ của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo.

Mặc dầu một trong những lời khuyên với tư cách phóng viên của García Márquez là “đầu độc người đọc bằng uy tín và nhịp độ”, trong mảng báo chí rộng lớn của mình ông đã không thực hành chủ nghĩa hiện thực huyền ảo nhiều bằng chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Bằng tiếng Tây Ban Nha những bài báo của ông chất đầy không dưới tám tập dày, từ 1948 đến 1991. Chúng chưa được dịch ra tiếng Anh, và Martin mới chỉ đọc lướt qua. Điều này thật đáng tiếc, nếu ta xét đến việc tập tiểu sử này ban đầu chỉ nói với một công chúng nói tiếng Anh. Những loạt bài báo đầu tiên của García Márquez là quan trọng vì nó cho ta một ý niệm mơ hồ về những bí mật của những “bài tập cơ bản” của ông, của “nghề mộc văn chương” của ông. Loạt thứ hai (1955-1957) bao gồm những phóng sự từ châu Âu và Hoa kỳ, có nội dung chính trị nhiều hơn và được nhà viết tiểu sử chú ý hơn một chút. Nhưng những bài báo chính trị then chốt, viết trong khoảng từ 1974 đến 1995, tập hợp trong Por la libre và Notas de prensa – một nghìn trang tất cả – được coi là chỉ xứng đáng với những bình luận tối thiểu, hầu hết là ngưỡng mộ. Và điều này thật tai hại.

Ba loạt bài mà Martin coi là đáng ghi nhớ, nhưng không phê bình, được viết bởi García Márquez sau thời gian dài lưu trú ở Cuba năm 1975 và nhan đề “Cuba từ đầu này đến đầu kia” (Cuba de cabo a rabo). Chúng được xuất bản vào tháng Tám/tháng Chín năm đó bởi tạp chí Alternativa, do García Márquez lập ra năm 1974 ở Bogotá. Và chắc chắn là chúng đáng nhớ! Chúng công khai thừa nhận một niềm tin tuyệt đối vào Cách mạng như được hiện thân trong hình tượng anh hùng của Tư lệnh (mà đến lúc này García Márquez chưa được gặp): “Mọi người Cuba hình như nghĩ rằng nếu một ngày nào đó không còn ai ở lại trên đất Cuba, thì một mình anh ta, dưới sự lãnh đạo của Fidel Castro, sẽ tiến hành cuộc cách mạng, đưa nó đến một kết cục hạnh phúc. Đối với tôi, nói thẳng ra, hiện thực này là kinh nghiệm phấn khích nhất và quan trọng nhất mà tôi từng có.”

Quả đúng vậy, đến mức mà trong ba mươi tư năm hỗn loạn ấy García Márquez chưa từng công khai tách mình khỏi cái nhìn thiên khải ấy. Ông đã thấy những gì mà mọi người đều có thể thấy? Những thành tựu xác thực trong y tế và giáo dục, mặc dầu ông không tự hỏi có nhất thiết phải duy trì một chế độ toàn trị để đạt được những mục tiêu xã hội ấy không. Và điều gì ông đã không nhìn thấy? Sự hiện diện của Liên xô, ngoài vai trò người cung cấp dầu lửa hào phóng? Và ông đã nói ông không nhìn thấy những gì? “Những đặc quyền đặc lợi cá nhân” (mặc dầu gia đình Castro đã chiếm quyền sở hữu hòn đảo này như thái ấp của riêng họ) và “sự đàn áp của cảnh sát và sự phân biệt đối xử đủ mọi kiểu” (mặc dầu từ năm 1965 đã tồn tại những trại tập trung cho những người đồng tính, những tín đồ tôn giáo, và những người bất đồng chính kiến – chúng được gọi một cách hoa mỹ là: Các Đơn vị Quân đội Hỗ trợ Sản xuất, hay UMAP).

Tóm lại, những gì mà ông nhìn thấy là những gì mà ông muốn nhìn: năm triệu dân Cuba thuộc về các Ủy ban Bảo vệ Cách mạng, không phải như những gián điệp và những người bị cưỡng bách của Cách mạng, mà là “lực lượng thật sự” đông vô kể những người hạnh phúc, tự nguyện, hay, nói trắng ra, bằng những lời lẽ ớn lạnh của chính Castro, được García Márquez trích dẫn một cách ngưỡng mộ - “một hệ thống cảnh giác cách mạng tập thể đảm bảo mọi người biết người ở nhà bên cạnh là ai và làm gì” Ông thấy “nhiều mặt hàng thực phẩm và hàng công nghệ được bày bán tự do trong các cửa hàng” và ông tiên tri rằng “năm 1980 Cuba sẽ là nước phát triển đầu tiên ở châu Mỹ Latin.” Ông thấy “những trường học cho mọi người” và những tiệm ăn “tốt như những tiệm tốt nhất ở châu Âu.” Ông thấy “sự thiết lập chính quyền nhân dân thông qua phổ thông đầu phiếu bằng những cuộc bỏ phiếu kín từ lứa tuổi mười sáu.” Ông thấy một cụ già chín mươi tư tuổi mải mê đọc sách “chửi rủa chủ nghĩa tư bản về tất cả những cuốn sách mà ông chưa đọc.”

Hơn hết cả, ông thấy Fidel. Ông thấy “cái hệ thống liên lạc gần như bằng ngoại cảm” mà ông đã thiết lập với nhân dân. “Cái nhìn chăm chú bộc lộ một tính dịu dàng kín đáo của trái tim như trẻ thơ trong ông.” “Ông đã sống bình an vượt qua sự gặm mòn khắc nghiệt và quái ác của quyền lực hàng ngày, của những nỗi buồn âm thầm… Ông đã thiết lập cả một hệ thống phòng thủ chống lại tệ sùng bái cá nhân.” Nhờ tất cả những cái đó, và nhờ “trí tuệ chính trị, những bản năng và sự tao nhã của ông, cái khả năng làm việc gần như phi phàm của ông, sự gắn bó sâu sắc và tuyệt đối tin tưởng vào sự khôn ngoan của quần chúng,” Castro đã đạt được ước mơ “đáng thèm muốn và khó nắm bắt” của tất cả những nhà cai trị: “tình thương”

Những đức tính này, theo sự miêu tả của García Márquez, được hỗ trợ bởi “cái kỹ năng cơ bản và bị coi thường nhất” của Fidel: cái “thiên tài làm nhà báo” của ông. Tất cả những thành tựu to lớn của Cách mạng, những nguồn gốc của nó, những chi tiết của nó, các ý nghĩa của nó, được “biên chép trong các bài diễn văn của Fidel Castro. Nhờ những bản báo cáo nói tuyệt vời này, người dân Cuba là một trong những dân được thông tin tốt nhất trên thế giới về thực tế cuộc sống của họ.” García Márquez thừa nhận rằng những bài diễn văn này “chưa giải quyết những vấn đề tự do phát biểu và dân chủ cách mạng” và đạo luật cấm tất cả các tác phẩm sáng tác chống đối các nguyên tắc của Cách mạng đánh vào ông như một sự “báo động” – nhưng, tất nhiên, không phải vì những giới hạn quyền tự do của nó. Không, điều làm ông băn khoăn về đạo luật đàn áp này là sự vô ích của nó: “bất cứ nhà văn nào liều lĩnh đến mức viết một cuốn sách chống lại Cách mạng không cần phải vấp vào hòn đá Hiến pháp… cách mạng sẽ đủ chín để tiêu hóa nó.” Theo ý ông, báo chí Cuba vẫn còn thiếu thông tin và những đánh giá phê phán, nhưng người ta có thể “thấy trước” rằng nó sẽ trở nên “dân chủ, sinh động, và độc đáo”, bởi vì nó sẽ được xây dựng trên một “nền dân chủ thực sự và mới mẻ…chính quyền nhân dân hình dung như một cấu trúc kim tự tháp nó bảo đảm cơ sở bền vững và sự kiểm soát trực tiếp của các lãnh đạo của nó.” (Một năm sau, trong một phỏng vấn của The New York Times, ông được Alan Riding hỏi tại sao ông không chuyển đến Cuba, vì ông thường xuyên đến đó. “Bây giờ rất khó mà đến đó và thích ứng với hoàn cảnh. Tôi đã thiếu thốn quá nhiều thứ, tôi không thể sống mà thiếu thông tin.”) “Quỷ ạ, đừng tin tôi” García Márquez kết luận “Anh cứ đến đấy mà thấy tận mắt.”

Một tác phẩm thuộc hệ hình khác trong báo chí chính trị của ông – danh tiếng đích thực của García Márquez trong thế giới nói tiếng Anh có thể không trụ nổi sau bản dịch của tuyển tập báo chí của ông sang tiếng Anh “Vietnam por dentro” hay “Việt nam nhìn từ bên trong,” mà Martin không nói đến trong cuốn sách của ông. Một năm trước khi nó được xuất bản, tháng Mười Hai năm 1978, García Márquez đã sáng lập một tổ chức gọi là “Quỹ Habeas vì Nhân quyền” ở Mỹ, với mục đích “vận động trả tự do cho các tù nhân. Không phải là chỉ trích các nhà cai trị bạo ngược, nó chỉ cố gắng trong phạm vi có thể để điều tra tung tích những người mất tích và tạo điều kiện cho người lưu đày trở về nhà. Tóm lại – không giống với các tổ chức cứu trợ sự sống khác, Habeas sẽ tập trung quan tâm trực tiếp vào việc giúp đỡ những người bị đàn áp hơn là lên án kẻ đàn áp.” Theo tinh thần này, có thể hy vọng rằng những thảm kịch của những thuyền nhân rời khỏi Việt nam trong tuyệt vọng có thể thu hút sự chú ý của ông, như nó đã thu hút sự chú ý của Sartre và những người khác ủng hộ chế độ Việt nam.

Nhưng trong chuyến đến Việt nam người sáng lập của Habeas chỉ nói chuyện với một bên, và chỉ lắng nghe câu chuyện chính thức. Trong loạt bài báo mà García Márquez gửi về, chúng ta được biết một chánh án Tòa án Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, “một quan chức chóp bu” hàm Bộ trưởng của Đảng Cộng sản phụ trách quan hệ đối ngoại, ông thị trưởng Chợ Lớn, ông Bộ trưởng Ngoại giao, và, tất nhiên, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người với “trí sáng suốt lặng lẽ…tiếp tôi và gia đình tôi vào một giờ mà hầu hết các nguyên thủ quốc gia vẫn còn đang say giấc nồng: vào sáu giờ sáng.” Trong chuyến thăm “gần một tháng” nhóm của García Márquez đã có dịp tham dự “những lễ hội văn hóa” trong đó “những thiếu nữ duyên dáng chơi đàn thập lục, và hát những điệu ca buồn thương để tưởng nhớ những liệt sĩ”; nhưng họ không có thời gian để nghe những người tị nạn, hay phỏng vấn họ, hay chìa tay giúp đỡ họ. “Câu chuyện của họ, García Márquez nói một cách thật thà “chiếm vị trí thứ yếu trong thực tế khắc nghiệt của đất nước này. Cái “thực tế khắc nghiệt” ấy, tất nhiên, là lịch sử cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ và nguy cơ một cuộc chiến tranh mới với Trung Quốc.

Điều thật sự trọng yếu đối với García Márquez ở Việt nam là nó “đã thua cuộc chiến tranh thông tin”. Đối với người sáng lập Habeas, thảm họa không phải là hàng trăm nghìn dân tị nạn, chết đuối, chết đói, đau ốm, bị cướp hết tài sản, bị hãm hiếp, bị giết chết. Thảm họa là thế giới biết tất cả về điều này. García Márquez tiếc rằng những người Việt nam, những người Việt nam thật sự quan trọng, những người mà ông đã phỏng vấn – không có “ tầm nhìn xa để tính toán quy mô rộng lớn của những nỗ lực quốc tế vì lợi ích của những người tị nạn.” Phe nhân đạo đã thắng phe toàn trị - đó là điều đã làm ông buồn bực.

Tất cả những bài báo này vẫn theo mẫu những bài báo trước đây của García Márquez về Hungary, và làm lộ rõ cái hình mẫu của tất cả những bài báo chính trị của ông, lúc đó và bây giờ: chỉ nghe tiếng nói của kẻ mạnh, và làm mất tác dụng – ngăn chặn, hạ thấp, bóp méo, xuyên tạc, và bỏ qua – bất kỳ thông tin nào có thể “rơi vào tay bọn đến quốc.”