Chương 2
Đám tang của hắn chẳng có mấy người tới dự. Wallace không hài lòng chút nào. Hắn còn không biết làm sao hắn tới được đây. Giây trước, hắn đang nhìn xuống cái xác của mình, và rồi hắn chớp mắt, và bằng cách nào đó, thấy mình đứng trước nhà thờ, hai cánh cửa rộng mở, chuông ngân vang. Tình hình rõ ràng chẳng khá khẩm gì hơn khi hắn thấy bảng thông báo nổi bật đặt trước cửa nhà thờ. LỄ TƯỞNG NIỆM CUỘC ĐỜI CỦA WALLACE PRICE, trên bảng ghi như vậy. Nếu thành thực với bản thân, thì hắn không thích tấm bảng đó. Không, hắn không thích tí nào. Có lẽ ai đó trong nhà thờ có thể nói cho hắn biết chuyện quái quỷ gì đang xảy ra chăng.
Hắn ngồi xuống một băng ghế ở cuối dãy. Bản thân nhà thờ này có mọi thứ hắn ghét: quá phô trương, với cửa sổ kính màu khổng lồ cùng nhiều phiên bản tượng chúa Jesus trong các tư thế đau đớn và khổ sở, tay đóng đinh lên thập giá trông như làm bằng đá. Wallace thấy bất lực trước việc dường như chẳng ai bận tâm khi vĩ nhân được trưng bày từ đầu tới cuối nhà thờ này bị khắc họa trong muôn vẻ giãy chết. Hắn sẽ không bao giờ hiểu nổi tôn giáo.
Hắn đợi người ta lác đác vào thêm. Tấm bảng đặt ngoài cửa ghi rằng tang lễ của hắn sẽ bắt đầu vào đúng chín giờ. Lúc này còn năm phút nữa là đến giờ, theo cái đồng hồ trang trí trên tường (một chúa Jesus khác, hai cánh tay là hai kim đồng hồ, hình như là lời nhắc nhở rằng con trai duy nhất của Chúa là một nghệ sĩ uốn dẻo) và trong nhà thờ chỉ có sáu người.
Hắn biết năm người trong số đó.
Người đầu tiên là vợ cũ của hắn. Cuộc ly hôn đã là một hồi cay cú, đầy những cáo buộc vô căn cứ từ cả hai phía, các luật sư hầu như không ngăn được họ hét vào mặt nhau qua bàn. Cô ta hẳn phải đáp máy bay tới, vì cô ta đã chuyển tới đầu bên kia đất nước để tránh xa hắn. Hắn không trách cô.
Gần như là không.
Cô ta không khóc. Hắn bực mình vì những lý do mà chính hắn không giải thích nối. Không phải cô ta nên khóc nấc lên sao?
Người thứ hai, ba và bốn hắn biết, là các cộng sự ở văn phòng luật Moore, Price, Hernandez & Worthington. Hắn đợi những người khác ở văn phòng đến theo họ, vì MPH&W được thành lập trong garage hai mươi năm trước và đã phát triển thành một trong những văn phòng quyền lực nhất tại bang này. Ít nhất, hắn trông đợi rằng cô thư ký Shirley sẽ ở đây, với lớp trang điểm lấm lem, tay siết chặt khăn trong khi gào khóc rằng cô không biết phải sống tiếp thế nào khi không có hắn.
Cô không có mặt. Hắn dồn hết sức tập trung suy nghĩ, cầu mong cô ta hiện ra cái bụp, kêu khóc rằng như vậy không công bằng, rằng cô ta cần một người sếp như Wallace để giữ cho cô sống ngay thẳng. Hắn cau mày khi chẳng có gì xảy ra, nỗi bất an cuộn trào xốn xang sâu trong đầu hắn.
Các cộng sự túm tụm lại ở cuối nhà thờ, gần băng ghế của Wallace, thấp giọng trò chuyện. Wallace đã từ bỏ việc cố báo hiệu cho họ biết hắn vẫn còn đây, và ngồi ngay trước mặt họ. Họ không thấy được hắn. Họ không nghe được hắn.
“Một ngày buồn thảm,” Moore nói.
“Thật là buồn,” Hernandez tán thành.
“Đúng là ngày tồi tệ nhất,” Worthington nói. “Shirley tội nghiệp, tìm thấy xác cậu ta trong tình trạng ấy.”
Các cộng sự ngừng lời, nhìn về phía đầu nhà thờ, kính cẩn cúi đầu khi Naomi nhìn lại họ. Cô cười khẩy rồi quay ra nhìn về phía trước.
Rồi:
“Làm người ta phải suy ngẫm,” Moore nói.
“Thật đấy,” Hernandez đồng ý.
“Chắc chắn rồi,” Worthington nói. “Làm người ta suy ngẫm về rất nhiều chuyện.”
“Cả đời ông có tự suy ngẫm được cái gì đâu,” Wallace mắng anh ta.
Họ im lặng hồi lâu, và Wallace tin chắc là họ đang ôn lại những kỷ niệm ưa thích về hắn. Một lát sau, họ sẽ bắt đầu bùi ngùi hồi tưởng, từng người lần lượt kể một mẫu chuyện về người đàn ông họ đã quen biết đến nửa đời và sức ảnh hưởng của hắn lên họ.
Có khi họ còn nhỏ đôi ba giọt lệ ấy chứ. Hắn hy vọng là vậy.
“Anh ta là một thằng khốn,” cuối cùng Moore nói.
“Quả là một thằng khốn,” Hernandez đồng tình.
“Khốn nạn nhất trần đời,” Worthington nói.
Họ đều bật cười, dù cố gắng bụm miệng để ngăn tiếng cười vang vọng. Wallace sửng sốt vì hai lý do cụ thể sau. Đầu tiên, hắn không biết là người ta được phép cười trong nhà thờ, đặc biệt là khi đang dự đám tang. Hắn tưởng, theo một cách nào đó, chuyện này phải là phi pháp chứ. Quả thật là hắn chưa từng vào nhà thờ trong nhiều thập kỷ rồi, nên có thể là luật lệ đã thay đổi. Thứ hai, làm sao bọn họ chẳng hề hấn gì khi gọi hắn là thằng khốn? Hắn thất vọng khi họ không bị sét đánh ngay lập tức. “Trừng phạt gã đi!” hắn quát lên, ngẩng đầu lườm trần nhà. “Trừng phạt gã... ngay...” Hắn dừng lại. Tại sao giọng hắn không vọng lại?
Moore, có vẻ như quyết định rằng đau buồn đã qua, nói, “Các ông có xem trận tối qua không? Trời ạ, Rodriguez đặc biệt phong độ. Không thể tin được họ gọi đấy là chơi thể thao.”
Và rồi họ bắt đầu, tán chuyện về thể thao như thể cộng sự cũ của họ không phải đang nằm trong quan tài gỗ anh đào đỏ nguyên khối trị giá bảy ngàn đô ở đầu nhà thờ, tay chắp trước ngực, da tái mét, mắt nhắm nghiền.
Wallace cương quyết quay ra phía trước, nghiến răng nghiến lợi. Họ đã học đại học cùng nhau, đã quyết định mở văn phòng riêng ngay sau khi tốt nghiệp, khiến bố mẹ họ khiếp vía. Hắn và các cộng sự đã khởi nghiệp như những người bạn, ai nấy đều trẻ và đầy lý tưởng. Nhưng theo năm tháng trôi, họ đã trở thành điều gì đó hơn cả bạn bè: họ đã trở thành đồng nghiệp, là những người quan trọng hơn rất nhiều đối với Wallace. Hắn không có thời gian cho bạn bè. Hắn không cần những người đó. Hắn đã có một công việc ở tầng mười ba của tòa cao ốc lớn nhất thành phố, nội thất văn phòng nhập khẩu, và một căn hộ quá-khổ nơi hắn hiếm khi dành thời gian lưu lại. Hắn đã có tất cả, và giờ thì...
Chà.
Ít ra quan tài của hắn đắt tiền, dù hắn đã tránh nhìn vào nó từ khi tới đây.
Người thứ năm trong nhà thờ là một người hắn không nhận ra. Cô ta là một người phụ nữ trẻ với mớ tóc đen lộn xộn cắt ngắn. Mắt cô ta sẫm màu phía trên sống mũi mỏng, hếch lên cùng cái miệng nhợt nhạt. Cô ta bấm lỗ tai, hai nụ khuyên tai lấp lánh trong nắng chiều chiếu qua cửa sổ. Cô ta mặc một bộ âu phục đen kẻ sọc lịch sự, cà vạt màu đỏ tươi. Một chiếc cà vạt uy quyền, nếu thứ ấy thật sự tồn tại trên đời. Wallace tán thưởng thứ ấy. Tất cả cà vạt của hắn đều là hàng uy quyền. Không, hắn không hẳn là đang đeo cà vạt uy quyền vào lúc này. Có vẻ như khi ta chết, ta tiếp tục mặc những gì ta khoác lên người lần cuối trước khi tạch. Quả là đáng tiếc, thật đấy, vì hình như hắn chết trong văn phòng của mình vào một ngày Chủ Nhật. Hắn đến để chuẩn bị cho tuần tiếp theo, và đã xỏ quần chạy bộ, áo phông Rolling Stones cũ, và đi dép xỏ ngón, vì biết rằng văn phòng sẽ vắng người.
Đó là những thứ đồ hắn thấy mình đang mặc lúc này đây, khiến hắn ảo não vô cùng.
Người phụ nữ liếc về phía hắn, như thể cô ta nghe thấy hắn. Hắn không biết cô ta, nhưng đoán rằng nếu cô ta đang ngồi đây dự phần đầu tang lễ của hắn thì mình hẳn đã đi ngang đời cô ta vào một lúc nào đó. Có khi cô ta từng là khách hàng ngập tràn cảm kích tại thời điểm nào đó. Sau một thời gian hành nghề khách khứa bắt đầu lẫn lộn trong đầu hắn, nên cũng có thể là vậy đi. Hắn hẳn đã thay mặt cô ta kiện một công ty lớn vì cà phê nóng hay quấy rối hay tội gì đó, và cô ta đã nhận được một khoản dàn xếp khổng lồ từ vụ kiện đó. Dĩ nhiên cô ta sẽ thấy cảm kích rồi. Ai mà không vậy chứ?
Moore, Hernandez và Worthington dường như đã tử tế quyết định rằng họ có thể tạm gác lại ký ức về một sự kiện thể thao điên cuồng như vậy, ba người đi qua Wallace mà không liếc về phía hắn dù chỉ một lần và di chuyển về phía đầu nhà thờ, trên mặt mỗi người đều là vẻ trang nghiêm. Họ lờ đi người phụ nữ mặc âu phục, thay vào đó dừng lại gần Naomi, từng người một nghiêng tới nói lời chia buồn. Cô gật đầu. Wallace đợi nước mắt chảy ra, lòng chắc mẩm mắt cô giờ là con đập chuẩn bị vỡ tan.
Từng cộng sự đứng trước linh cữu một lát, đầu cúi thấp. Cảm giác bồn chồn chất chứa trong lòng Wallace từ khi hắn hiện ra trong nháy mắt trước nhà thờ trở nên mạnh mẽ hơn, đầy mâu thuẫn và thật khủng khiếp. Hắn đang ở đây, ngồi ở cuối nhà thờ, nhìn vào chính mình nằm trong quan tài, ở cuối nhà thờ: Wallace không hề nghĩ rằng hắn đẹp trai. Hắn quá cao, quá xương xẩu, gò má sắc dữ dằn, khiến khuôn mặt tái nhợt trông lúc nào cũng hốc hác. Có lần, trong bữa tiệc Halloween ở công ty, trang phục của hắn đã khiến một đám trẻ con thích mê, có đứa tuổi tween[1] bạo dạn còn khen rằng hắn đóng vai Thần Chết thật xuất sắc.
Lúc ấy hắn có mặc đồ hóa trang đâu.
Từ chỗ đang ngồi hắn săm soi bản thân, thấp thoáng thấy di thể của mình khi các cộng sự xê dịch xung quanh, cái cảm giác khủng khiếp rằng có gì đó không đúng đang chực chờ choán lấy hắn. Cái xác khoác lên một trong những bộ âu phục hạng sang của hắn, một bộ hai mảnh bằng len sakin[2] của Tom Ford. Bộ này ôm vừa vặn thân hình mảnh khảnh của hắn và làm nổi bật lên đôi mắt xanh lá của hắn. Công bằng mà nói, giờ bộ quần áo trông không nịnh mắt cho lắm, vì mắt hắn đã nhắm lại và má bị bôi lên đủ phấn hồng, khiến hắn trông như gái gọi thay vì luật sư có tiếng. Trán hắn nhợt nhạt đến kỳ lạ, mái tóc ngắn tối màu vuốt ngược ra sau và bóng lên ướt át dưới ánh đèn trên cao.
Cuối cùng, các cộng sự ngồi xuống băng ghế phía bên kia Naomi, mặt ráo hoảnh.
Một cánh cửa mở ra, Wallace quay lại và thấy một linh mục (lại một người hắn không nhận ra, và hắn lại thấy cảm giác thiếu hài hòa như đè nặng lên ngực hắn, có gì đó không đúng, có gì đó sai sai) đi qua tiền sảnh, mặc bộ áo lễ trông cũng lố bịch như nhà thờ quanh họ. Linh mục chớp mắt vài lần, như thể không tin được rằng nhà thờ vắng đến vậy. Ông ta kéo tay áo lễ lên để nhìn đồng hồ, lắc đầu rồi treo một nụ cười bình thản lên mặt. Ông ta đi ngay qua trước mặt Wallace mà không nhận ra anh có ở đó. “Không sao đâu,” Wallace gọi với theo ông. “Chắc là ông tưởng mình quan trọng lắm. Bảo sao mà tôn giáo có tổ chức đang ở trong tình trạng như hiện nay.”
Linh mục dừng lại cạnh Naomi, nắm tay cô trong tay ông ta, nói những lời nhảm nhí nhẹ nhàng, nói với cô rằng ông ta rất tiếc vì mất mát của cô, rằng Chúa Trời hành động theo nhiều cách bí ấn, và dù chúng ta không phải lúc nào cũng hiểu được dự định của Ngài, hãy an tâm rằng Ngài có dự định hết rồi, và việc này là một phần trong đó.
Naomi nói, “Ồ, con không nghi ngờ gì chuyện đó đâu, thưa Cha. Nhưng hãy bỏ qua những chuyện tâm linh này và làm nhanh lên thôi. Hai tiếng nữa là anh ta phải được hạ huyệt, và con có chuyến bay vào chiều nay.”
Wallace đảo mắt. “Naomi, trời ạ. Sao không tỏ vẻ tôn kính một chút đi nhỉ? Cô đang ở trong nhà thờ đấy.” Và tôi đã chết rồi, hắn muốn nói thêm, nhưng lại thôi, vì lời ấy biến chuyện này thành sự thực, và không chi tiết nào ở đây có thể là thật cả. Không thể được.
Linh mục gật đầu. “Dĩ nhiên rồi.” Ông vỗ vỗ mu bàn tay cô rồi đi tới băng ghế bên kia nơi các cộng sự ngồi. “Ta rất tiếc vì mất mát của các con. Chúa hành động theo—”
“Dĩ nhiên là vậy rồi,” Moore nói.
“Bí ẩn lắm luôn,” Hernandez đồng tình.
“Ông lớn trên kia với mấy cái dự định ấy mà,” Worthington nói.
Người phụ nữ - người lạ hắn không nhận ra - cười khẩy, lắc đầu.
Wallace lườm cô ta.
Linh mục đi tiếp, dừng lại trước quan tài, cúi đầu. Trước kia, hắn đã từng thấy đau nhói trong cánh tay, có cảm giác nóng rát trong ngực, có thoáng buồn nôn khủng khiếp quặn lên trong dạ dày. Trong giây lát, hắn đã suýt thuyết phục được bản thân rằng đó là do chỗ thịt hầm ớt còn thừa hắn ăn tối hôm trước. Nhưng rồi hắn nằm trên sàn văn phòng, trên tấm thảm Ba Tư nhập khẩu mình từng vung một khoản tiền cắt cổ để mua, vừa lắng nghe tiếng đài phun ùng ục trong sảnh chờ vừa cố hớp hơi. “Món thịt ớt chết tiệt,” hắn gắng gượng thốt lên, lời cuối cùng trước khi nhận ra mình đang đứng trên cơ thể của chính mình, cảm thấy như mình đang ở hai nơi cùng một lúc, nhìn lên trần nhà trong khi cũng nhìn xuống bản thân. Phải mất một lúc cảm giác phân thân đó mới nguôi đi, để lại hắn miệng há hốc, âm thanh duy nhất bò ra khỏi họng hắn là tiếng rít mỏng manh như bóng bay đang xì hơi.
Như vậy cũng chẳng sao, vì hắn chỉ đang bất tỉnh mà thôi! Tất cả chỉ có vậy. Chỉ là trào ngược và cần phải nằm nghỉ trên sàn không hơn. Chuyện này cũng có lúc xảy ra với tất cả mọi người mà. Gần đây hắn làm việc vất vả quá. Dĩ nhiên cuối cùng hắn cũng bị chứng này thôi.
Quyết định vậy xong, hắn cảm thấy khá hơn đôi chút về việc mặc quần chạy bộ, đi dép xỏ ngón và mặc áo phông trong nhà thờ vào tang lễ của mình. Hắn còn không thích nhóm Rolling Stones. Hắn chẳng biết áo này từ đâu ra nữa.
Linh mục hắng giọng và nhìn ra vài con người tụ tập ở đây. Ông ta nói, “Kinh Thánh có ghi rằng—”
“Ôi, lạy thánh Pete lòng lành,” Wallace lầm bầm.
Người lạ sặc một cái.
Wallace ngẩng phắt lên trong khi linh mục tiếp tục lè nhè.
Cô ta bịt tay lên miệng như thể đang cố nén lại tiếng cười. Wallace tức điên lên. Nếu thấy việc chết chóc vui đến vậy, thì vì cái quái gì cô ta còn đến đây?
Trừ khi...
Không, không thể như vậy đâu, phải không?
Hắn nhìn cô ta chằm chằm, cố gắng nhớ ra mặt cô.
Nhỡ cô ta là khách hàng của hắn thật thì sao?
Nhỡ hắn giành được kết quả kém với mong đợi cho cô ta thì sao?
Một vụ khởi kiện tập thể, có lẽ là vậy. Một vụ không lời lãi được nhiều như cô ta đã hy vọng. Lần nào có khách hàng mới hắn cũng hứa hẹn, những hứa hẹn to tát về công lý và khoản bồi thường vật chất khổng lồ. Dù khi xưa có lẽ cũng từng kiềm chế mong đợi của họ, hắn mỗi lúc một tự tin hơn sau mỗi phán quyết nghiêng về phía mình. Người ta thì thầm tên hắn với lòng tôn kính vô vàn trong những sảnh đường thiêng liêng của tòa án. Hắn là con cá mập tàn nhẫn, và bất kỳ ai cản đường hắn thường cuối cùng đều ngã ngửa, tự hỏi chuyện quái gì vừa xảy ra vậy.
Nhưng có khi chuyện còn hơn thế nữa.
Có phải thứ ban đầu là mối quan hệ luật sư - khách hàng chuyên nghiệp đã biến thành điều gì đó hắc ám hơn? Có lẽ cô ta đã bị ám ảnh với hắn, mê mệt vì những bộ âu phục đắt tiền và phong thái làm chủ phòng xử án. Cô ta đã tự nhủ rằng mình sẽ có được Wallace Price, nếu không thì không ai có thể. Cô ta đã theo dõi hắn, đứng ngoài cửa sổ nhà hắn về đêm, ngắm nhìn khi hắn ngủ (việc căn hộ của hắn ở tầng mười lăm không đập tan nổi suy nghĩ này; cô ta có thể theo hông tòa nhà leo lên ban công của hắn, biết đâu đấy). Và khi hắn đi làm, cô ta đột nhập vào nhà, ngả đầu lên gối hắn, hít hà mùi hương của hắn, mơ mộng về ngày mình có thể trở thành bà Wallace Price. Rồi, có khi hắn đã vô tình hắt hủi cô ta, và tình yêu trong lòng cô ả đã biến thành cơn cuồng nộ tăm tối.
Đúng là thế rồi.
Như vậy là giải thích được mọi chuyện. Sau cùng, chuyện này không phải là không có tiền lệ, đúng không? Vì rất có thể Patricia Ryan cũng đã bị ám ảnh về hắn, theo như phản ứng đáng tiếc của bà ta khi hắn sa thải bà. Họ đã thông đồng với nhau, biết đâu được đấy, và khi Wallace làm việc hắn đã làm, họ đã... sao nhỉ? Chung tay để... chờ đã. Để hợp lý hóa chuyện này thì mạch thời gian có hơi nhiễu, nhưng vẫn có khả năng chứ.
“— và giờ, xin mời người nào có lời muốn nói về Wallace thân mến của chúng ta bước tới và chia sẻ vào lúc này.” Linh mục mỉm cười bình thản. Nụ cười hơi héo đi khi không ai cựa quậy. “Ai cũng được.”
Các cộng sự cúi đầu.
Naomi thở dài.
Rõ ràng là họ quá choáng ngợp, không thể tìm nổi lời nào để nói, để tóm tắt một cuộc đời trọn vẹn. Wallace không trách họ vì việc này. Người ta còn mở miệng tóm lược lại toàn bộ con người anh thế nào được đây? Thành công, thông minh, chăm chỉ tới mức bị ám ảnh và còn nhiều hơn thế nữa. Dĩ nhiên họ sẽ dè dặt rồi.
“Đứng dậy đi,” hắn lầm bầm, gắt gao nhìn những người ngồi ở đầu nhà thờ. “Đứng dậy và nói vài điều tốt đẹp về tôi đi. Ngay. Tôi ra lệnh cho mấy người đấy.”
Hắn há hốc miệng khi Naomi đứng dậy. “Thành công rồi!” hắn điên cuồng thì thầm. “Đúng rồi. Đúng rồi.”
Linh mục gật đầu với cô và bước qua một bên. Naomi nhìn xuống cái xác của Wallace một lúc lâu, và Wallace ngạc nhiên khi thấy mặt cô nhăn nhúm lại như thể chuẩn bị khóc. Rốt cuộc. Rốt cuộc thì ai đó cũng sắp sửa biểu lộ cảm xúc này kia rồi. Anh tự hỏi liệu cô ta có nhào lên linh cữu, van vỉ muốn biết tại sao, tại sao, tại sao đời lại bất công đến vậy, và Wallace, em vẫn luôn yêu anh, ngay cả khi em ngủ với gã làm vườn. Anh biết đấy, cái gã dường như phản đối việc mặc áo khi làm việc, nắng lấp lánh rọi xuống bờ vai rộng của gã, mồ hôi lăn dọc cơ bụng điêu khắc như thể gã là một bức tượng Hy Lạp chết tiệt mà anh vờ như mình đang không nhìn chằm chằm giống em, nhưng chúng ta đều biết đó là đối trá, vì gu đàn ông của hai ta giống nhau.
Cô ta không khóc.
Thay vào đó cô hắt xì.
“Xin lỗi,” cô nói, lau mũi. “Tôi muốn hắt xì từ nãy rồi.”
Wallace trượt xuống trên băng ghế. Hắn có linh cảm không lành về chuyện này.
Cô đi tới cạnh linh mục trên bục ở phía đầu nhà thờ. Cô nói, “Wallace Price... chắc chắn đã từng sống. Và giờ thì không còn nữa. Dù có bị đe dọa tính mạng, tôi cũng không thể nói rằng đó là việc gì khủng khiếp cho lắm. Anh ta không phải người tốt.”
“Ôi trời,” linh mục nói.
Naomi lờ ông ta đi. “Anh ta cứng đầu, liều lĩnh, và chỉ quan tâm tới bản thân mình. Tôi đã có thể cưới Bill Nicholson, nhưng thay vào đó, tôi buộc mình vào đoàn tàu tốc hành Wallace Price, hướng tới đích đến đầy những bữa ăn vắng mặt, ngày sinh nhật và kỷ niệm bị lãng quên, và thói quen vứt mảnh móng chân trên sàn nhà tắm một cách ghê tởm. Ý tôi là, thôi nào. Thùng rác ở ngay kia kìa. Thế quái nào mà anh không thấy nó chứ?”
“Khủng khiếp,” Moore nói.
“Chính xác,” Hernandez đồng tình.
“Vứt móng chân vào thùng rác đi,” Worthington nói. “Đâu có khó đến vậy.”
“Chờ đã,” Wallace ồn ào nói. “Đây không phải việc cô lẽ ra phải làm. Cô cần phải buồn bã và vừa gạt nước mắt vừa kể mọi thứ cô sẽ nhớ về tôi. Đám tang kiểu gì thế này?”
Nhưng Naomi không nghe anh, việc mà, thật ra thì. Cô ta có lúc nào nghe đâu? “Kể từ khi nhận được tin, tôi đã dành vài ngày vừa qua để cố gắng tìm ra một ký ức trong khoảng thời gian bên nhau mà không khiến lòng tôi tràn ngập tiếc hận hay vô cảm hay giận dữ cháy bỏng như thể tôi đang đứng trên mặt trời. Mất chút thời gian, nhưng tôi quả đã tìm được một việc. Có lần, Wallace mua cho tôi một cốc súp khi tôi đang ốm. Tôi cảm ơn anh ta. Rồi anh ta đi làm, và tôi không thấy mặt anh ta suốt sáu ngày sau.”
“Có thế thôi à?” Wallace thốt lên. “Cô đang đùa tôi đấy à?”
Biểu cảm của Naomi đanh lại. “Tôi biết chúng ta phải cư xử và có cảm xúc theo một cách nhất định khi người ta qua đời, nhưng tôi ở đây để nói với mọi người rằng việc ấy thật vớ vẩn. Xin lỗi, thưa Cha.”
Linh mục gật đầu. “Không sao đâu, con của ta. Trút hết tâm sự ra đi. Chúa không—”
“Và đừng để tôi phải nhắc đến việc anh ta quan tâm tới công việc nhiều hơn là gây dựng một gia đình. Tôi đánh dấu chu kỳ rụng trứng của mình lên lịch làm việc của anh ta. Mọi người biết anh ta làm gì không? Anh ta gửi tôi một tấm thiệp ghi CHÚC MỪNG, BẠN ĐÃ TỐT NGHIỆP.”
“Vẫn còn để bụng chuyện đó, phải không?” Wallace to tiếng hỏi. “Khóa trị liệu tâm lý kia thế nào rồi, hả Naomi? Nghe như cô nên đòi lại tiền đấy.”
“Eo ôi,” người phụ nữ ngồi trên băng ghế nói.
Wallace lườm cô ta. “Cô có gì muốn bổ sung không? Tôi biết tôi ngon, nhưng chỉ vì tôi không yêu cô không có nghĩa là cô có quyền giết tôi!”
Tốt nhất là không nên miêu tả âm thanh hắn phát ra khi người phụ nữ nhìn thẳng vào hắn, đặc biệt là khi cô ta nói rõ to, “Không. Anh không hẳn là gu của tôi, và giết người là xấu lắm, biết không?”
Wallace ngã thẳng khỏi băng ghế trong khi Naomi tiếp tục chặt chém hắn trong nhà của Chúa như thể người phụ nữ lạ mặt chưa từng lên tiếng. Hắn túm được lưng ghế, móng tay ghim sâu vào gỗ. Hắn ló mặt qua thành ghế, mắt lồi ra khi nhìn cô ta chằm chằm.
Cô ta mỉm cười và nhướn một bên mày.
Wallace chật vật tìm lại giọng mình. “Cô... cô thấy được tôi?”
Cô ta gật đầu rồi xoay người trên băng ghế, tựa khuỷu tay lên lưng ghế. “Thấy được.”
Hắn bắt đầu run rẩy, tay siết băng ghế chặt tới nỗi hắn nghĩ ngón tay mình sẽ gãy mất. “Làm sao. Cái gì vậy. Tôi không— chuyện gì thế này.”
“Tôi biết anh đang hoang mang, Wallace ạ, và tình hình có thể—”
“Tôi chưa bao giờ cho cô biết tên tôi!” Hắn rít lên, không ngăn nổi giọng mình vỡ ra.
Cô cười khẩy. “Thật sự có một cái bảng trên có ảnh của anh đặt dưới tên anh ở trước nhà thờ đấy.”
“Đấy không phải...” Gì? Chính xác thì cái gì không phải là vấn đề ở đây? Hắn kéo mình ngồi thẳng dậy. Chân hắn không hề hoạt động như hắn mong muốn. “Quên cái bảng chết tiệt đó đi. Làm sao chuyện này xảy ra được? Chuyện gì đang diễn ra vậy?”
Cô gái mỉm cười. “Anh chết rồi.”
Hắn bật cười. Đúng vậy, hắn có thể thấy xác mình nằm trong quan tài, nhưng việc ấy chẳng có nghĩa lý gì cả. Hẳn là có sai sót gì rồi. Hắn ngừng cười khi nhận ra người phụ nữ không cười theo. “Cái gì cơ,” giọng hắn vô cảm.
“Chết, Wallace ạ.” Mặt cô ta nhăn lại. “Chờ chút. Đang cố nhớ xem nguyên nhân là gì. Đây là lần đầu của tôi, và tôi có hơi căng thẳng.” Cô ta bừng tỉnh. “Ồ, phải rồi! Đau tim.”
Và thế là hắn biết chuyện này không có thực. Một cơn đau tim ư? Vớ vẩn. Hắn chẳng bao giờ hút thuốc, hắn ăn uống tử tế hết mức có thể, và hắn tập thể dục khi nào hắn nhớ. Lần kiểm tra sức khỏe cuối cùng của hắn đã kết thúc bằng việc bác sĩ kết luận rằng tuy huyết áp của hắn có hơi cao, mọi thứ khác dường như đều hoạt động tốt. Hắn không thể chết vì đau tim được. Không có khả năng. Hắn nói với cô ta những điều ấy, tin chắc rằng như thế là hết chuyện.
“Phảaai rồi,” cô ta chậm rãi lặp lại, như thể hắn mới là kẻ ngốc. “Tôi không muốn làm anh thất vọng đâu, anh bạn ạ, nhưng chuyện xảy ra như thế đó.”
“Không,” hắn nói, lắc đầu. “Tôi phải biết nếu mình... Tôi hẳn sẽ thấy...” Thấy gì? Đau nhức trong cánh tay? Nhịp tim rối loạn trong ngực? Hoàn toàn không thở được dù có cố đến đâu đi nữa?
Cô ta nhún vai. “Tôi nghĩ đấy là chuyện bất khả kháng thôi.” Hắn rúm người lại khi cô ta đứng dậy khỏi băng ghế, đi về phía hắn. Cô ta thấp hơn hắn tưởng; đỉnh đầu có khi chỉ chạm tới cằm hắn. Hắn lùi khỏi cô hết mức có thể, nhưng không được bao xa.
Naomi đang thao thao bất tuyệt về chuyến du lịch tới Poconos họ từng đi (“Toàn bộ thời gian anh ta đều ở trong phòng khách sạn dự họp trực tuyến! Đó là kỳ trăng mật của chúng tôi đấy!”) trong khi cô gái ngồi xuống băng ghế của hắn, giữ chút khoảng cách giữa họ. Trông cô ta còn trẻ hơn mới đầu hắn tưởng, theo một cách nào đó chuyện này càng khiến tình hình tồi tệ hơn. Da cô ta sẫm màu hơn da hắn, môi nhoẻn lên khoe hàm răng nhỏ khi cô khẽ mỉm cười. Cô ta gõ gõ ngón tay lên lưng ghế rồi lại nhìn hắn. “Wallace Price,” cô nói. “Tên tôi là Meiying, nhưng anh có thể gọi tôi là Mei, như tháng Năm trong tiếng anh ấy, chỉ là phát âm hơi khác chút thôi. Tôi ở đây để dẫn anh về nhà.”
Hắn nhìn cô ta chằm chằm, không nói nên lời.
“Hờ. Chưa từng nghĩ rằng nói vậy sẽ khiến anh ngậm miệng đấy. Lẽ ra nên thử chiêu này từ đầu.”
“Tôi không đi đâu với cô cả,” hắn nói qua kẽ răng nghiến chặt. “Tôi không quen cô.”
“Tôi hy vọng là không,” cô ta nói. “Nếu anh quen tôi, thì sẽ kỳ quái lắm đấy.” Cô ngừng lại, đăm chiêu. “Càng kỳ quái hơn, ít ra là vậy?” Cô hất đầu về phía đầu nhà thờ. “Nhân tiện, quan tài đẹp đấy. Trông không rẻ tiền chút nào.”
Hắn xù lông. “Không rẻ tiền đâu nhé. Chỉ toàn những đồ tốt nhất cho—”
“Ồ, chắc chắn là vậy rồi,” Mei nói. “Dẫu vậy. Khá là đáng sợ, phải không? Nhìn vào cơ thể của chính mình theo cách này. Tuy nhiên là cơ thể anh không tồi đâu. Có hơi gầy so với gu tôi, nhưng mỗi người một sở thích mà.”
Hắn xù lông. “Cô nên biết rằng tôi đã sống tốt bằng cái cơ thể gầy còm— không. Tôi sẽ không bị đánh lạc hướng đâu! Tôi yêu cầu cô nói với tôi chuyện gì đang xảy ra ngay lập tức.”
“Được thôi,” cô khẽ nói. “Việc đó thì tôi làm được. Tôi biết chuyện này có thể khó tiếp thu, nhưng tim anh ngừng đập, và anh đã chết. Người ta đã khám nghiệm tử thi, và hóa ra là hai trong số các van mạch chủ của anh bị nghẽn. Tôi có thể chỉ cho anh vết rạch chữ Y, nếu anh muốn, dù tôi khuyên là anh không nên xem. Trông ghê lắm. Anh có biết rằng khi giải phẫu tử thi, đôi khi họ trả nội tạng đựng trong túi nhồi mùn cưa vào trong người rồi khâu lại không?” Vẻ mặt cô bừng sáng. “Ồ, và tôi là Thần Chết của anh, ở đây để dẫn anh tới nơi anh thuộc về.” Và rồi, như thể khoảnh khắc này chưa đủ kỳ dị, cô xòe rộng hai tay. “Ngạc nhiên chưa.”
“Thần chết à,” hắn choáng váng nói. “Đó là... cái gì.”
“Là tôi,” cô nói, nhích lại gần hơn. “Tôi là Thần Chết. Khi một người chết đi, họ sẽ bị hoang mang. Anh không rõ chuyện gì đang xảy ra nữa, và anh đang sợ.”
“Tôi không sợ!” Lời này là dối trá. Cả đời hắn chưa từng thấy sợ hơn lúc này.
“Được rồi,” cô nói. “Không sợ thì không sợ. Tốt thôi. Dẫu vậy, đây vẫn là một thời điểm đầy thách thức với bất kỳ ai. Anh cần được giúp đỡ để đi chuyển kiếp. Đó là lúc tôi vào việc. Tôi ở đây để đảm bảo rằng quá trình chuyển kiếp ấy diễn ra thuận lợi hết mức có thể.” Cô ngừng lại. Rồi, “Thế thôi. Tôi nghĩ mình nhớ nói hết mọi chuyện rồi. Tôi đã phải ghi nhớ rất nhiều thứ để có được công việc này, và có thể đã quên một vài chi tiết ở chỗ này chỗ nọ, nhưng về căn bản là vậy đó.”
Hắn há hốc mồm nhìn cô ta. Hắn hầu như không nghe thấy tiếng Naomi hò hét xung quanh, gọi hắn là thằng khốn ích kỷ hoàn toàn không biết tự kiểm điểm. “Chuyển kiếp ấy à.”
Mei gật đâu.
Hắn không thích từ ấy chút nào. “Thành cái gì?”
Cô cười toe toét. “Ồ, trời ơi. Anh cứ đợi mà xem.” Cô giơ tay về phía hắn, ngửa bàn tay lên. Cô chà ngón cái vào ngón giữa rồi búng một cái.
Nắng xuân mát mẻ rọi xuống mặt hắn.
Hắn lảo đảo lùi lại một bước, nháo nhác nhìn quanh.
Nghĩa địa. Họ đang đứng trong nghĩa địa.
“Xin lỗi nhé,” Mei nói, xuất hiện bên cạnh hắn. “Vẫn đang học cách làm việc mà.” Cô cau mày. “Tôi có chút chưa quen việc.”
“Chuyện gì đang xảy ra vậy!” Hắn hét lên với cô.
“Anh sắp bị đem chôn,” cô phẩn khởi nói. “Thôi nào. Anh sẽ muốn thấy cảnh này cho xem. Nó sẽ giúp xua tan mọi nghi ngờ còn lại trong anh.” Cô túm cánh tay hắn và kéo đi. Chân hắn đá loạn vào nhau nhưng hắn vẫn đứng vững được. Đôi xỏ ngón vỗ lạch bạch lên gót chân hắn khi hắn chật vật bắt kịp cô. Họ luồn lách giữa những bia đá, tiếng xe cộ chộn rộn xung quanh khi những tài xế taxi nóng nảy bóp còi và hét lên chửi bới qua kính cửa để mở. Hắn cố giãy khỏi Mei, nhưng tay cô nắm rất chặt. Cô ta trông vậy mà khỏe hơn nhiều.
“Đến nơi rồi,” cô nói, dừng bước. “Đúng lúc luôn.”
Anh ngó qua vai cô ta. Naomi đang ở đó, các cộng sự cũng vậy, đều đang đứng quanh một cái huyệt hình chữ nhật mới đào. Cái quan tài đắt tiền đang được hạ xuống lòng đất. Không ai khóc cả. Worthington liên tục nhìn đồng hồ và thở dài khoa trương. Naomi đang bấm điện thoại.
Có biết bao nhiêu việc để Wallace chú ý, nhưng hắn lại chết lặng trước việc không có cái bia mộ nào cả. “Bia kỷ niệm đâu? Ghi tên tôi ấy. Rồi ngày tháng năm sinh. Lời nhắn truyền cảm hứng rằng tôi đã sống một cuộc đời trọn vẹn đâu.”
“Anh đã sống vậy thật hả?” Mei hỏi. Giọng cô nghe không giống như đang mỉa mai anh, chỉ đơn thuần là tò mò.
Hắn giựt tay lại rồi khoanh tay trước ngực đầy phòng vệ. “Đúng thế.”
“Tuyệt vời. Và bia mộ thường chuyển tới sau tang lễ. Họ vẫn phải khắc chữ và vân vân. Cả một quy trình ấy mà. Đừng lo lắng chuyện đó. Nhìn kìa. Đây rồi. Vẫy tay tạm biệt đi!”
Hắn không vẫy.
Mei thì có, cô ngúc ngoắc những ngón tay.
“Làm sao chúng ta tới được đây?” Hắn hỏi. “Chúng ta vừa ở trong nhà thờ xong.”
“Tinh ý đấy. Giỏi thật đấy, Wallace ạ. Chúng ta vừa ở trong nhà thờ thật. Tôi tự hào về anh đấy. Hãy cho rằng tôi nhảy cóc vài chuyện đi. Phải nhanh nhẹn lên thôi.” Cô nhăn mặt. “Và đó là lỗi của tôi, trời ạ. Kiểu, thật đấy, đừng nghĩ xấu về chuyện này vì tôi hoàn toàn không cố tình đâu, nhưng tôi đến đón anh có hơi muộn một chút. Đây kiểu như là lần đầu tôi làm Thần Chết một mình, và tôi đã làm sai.” Cô mỉm cười hiền hòa. “Mình huề nha?”
“Không,” hắn gằn giọng với cô. “Không có huề gì cả.”
“Ồ. Tệ quá. Xin lỗi nha. Tôi hứa là việc này sẽ không xảy ra lần nữa đâu. Trải nghiệm học hỏi mà, vân vân. Tôi hy vọng anh vẫn sẽ chấm mười điểm cho dịch vụ của tôi khi được khảo sát. Điều ấy có ý nghĩa với tôi lắm đấy.”
Hắn hoàn toàn không hiểu cô ta đang nói gì. Hắn gần như thuyết phục được bản thân rằng cô ta mới bị điên, và không là gì ngoài một tạo vật do mình tưởng tượng ra. “Đã ba ngày rồi đấy!”
Cô cười toe toét với hắn. “Chính xác! Như vậy khiến công việc của tôi dễ hơn rất nhiều. Hugo sẽ hài lòng về tôi lắm cho xem. Tôi nóng lòng muốn khoe với anh ấy ghê.”
“Hugo là thằng quái—”
“Đợi đã. Đây là một trong những phân đoạn ưa thích của tôi này.”
Hắn nhìn sang chỗ cô ta chỉ tới. Các cộng sự dàn hàng, Naomi đứng đằng sau họ. Hắn đứng nhìn khi họ đều cúi xuống, từng người một, vốc một nắm đất và thả xuống mộ. Tiếng đất lạo xạo rơi xuống quan tài khiến hai tay Wallace run rẩy. Naomi đứng bên miệng huyệt chưa lấp với nắm đất trong tay, và trước khi cô rải nó xuống, một biểu cảm kỳ lạ thoáng lướt qua mặt cô, rồi lại biến mất. Cô lắc đầu, rải đất, rồi quay ngoắt đi. Hình ảnh cuối cùng của vợ cũ mà hắn thấy được là ánh nắng trên tóc cô khi cô vội vã đi về phía taxi đang đợi.
“Kiểu như đưa mọi thứ trở về xuất phát điểm vậy,” Mei nói. “Một vòng hoàn chỉnh. Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi. Tuyệt đẹp, anh cứ ngẫm mà xem.”
“Chuyện gì đang xảy ra vậy?” hắn thì thầm.
Mei chạm lên mu bàn tay anh. Da cô mát lạnh, nhưng không tới mức rợn người. “Anh có cần một cái ôm không? Tôi có thể ôm anh nếu anh muốn.”
Hắn giằng tay về. “Tôi không muốn ôm gì hết.”
Cô gật đầu. “Giới hạn cá nhân à. Được thôi. Tôi tôn trọng điều ấy. Tôi xin hứa sẽ không ôm anh khi anh không cho phép.”
Có lần, khi Wallace bảy tuổi, bố mẹ hắn đưa hắn ra bãi biển. Hắn đã đứng trong sóng biển, nhìn cát trôi đi giữa những ngón chân mình. Một cảm giác khác lạ bò dần từ chân lên đáy lòng hắn. Hắn đang chìm, dù cát chảy cộng với sóng nước trắng xóa khiến hắn còn thấy nghiêm trọng hơn nhiều. Điều ấy làm hắn phát hoảng, và hắn đã từ chối đặt chân xuống biển lần nữa, dù bố mẹ có van vỉ hắn đến đâu.
Đó chính là cảm giác của Wallace Price vào lúc này. Có lẽ do tiếng đất rơi trên quan tài. Có lẽ do việc ảnh hắn được dựng ngay cạnh cái huyệt lộ thiên, dưới có đính một vòng hoa. Trong ảnh này, hắn đang mím môi gượng cười. Tóc hắn được chải chuốt hoàn hảo, rẽ ngôi lệch về bên phải. Mắt hắn sáng ngời. Naomi có lần nói rằng hắn làm cô nghĩ tới chú bù nhìn trong Phù thủy xứ Oz. “Giá như anh có não,” cô nói. Chuyện này xảy ra trong một trong những lần dàn xếp ly hôn giữa họ, nên hắn đã nghĩ câu ấy chẳng có ý nghĩa gì ngoài cố gắng xúc phạm mình.
Hắn ngồi phịch xuống đất, ngón chân thò ra khỏi dép, co quắp trên cỏ. Mei ngồi xuống cạnh hắn, chân khoanh lại, khều một bông bồ công anh nhỏ. Cô nhổ bông hoa khỏi đất, giơ tới gần miệng hắn. “Ước gì đi,” cô nói.
Hắn không ước gì hết.
Cô thở dài và tự mình thổi bông hoa. Nó vỡ tung thành một cụm mây trắng, những hạt giống bay theo gió và xoay vòng quanh huyệt mộ chưa lấp. “Tôi biết, chuyện này quá nặng nề để tiếp thu.”
“Thế à?” hắn lầm bầm, mặt vùi trong hai tay.
“Không thật sự là hiểu,” cô thú nhận. “nhưng tôi hình dung ra được.”
Hắn quay sang nhìn cô, nheo mắt. “Cô nói đây là lần đầu làm việc mà.”
“Đúng vậy. Đấy là làm việc một mình. Nhưng tôi đã trải qua huấn luyện, và thực hiện khá tốt. Anh có cần cảm thông chia sẻ không? Tôi có thể cảm thông với anh. Anh có muốn đấm cái gì đó vì giận dữ không? Tôi cũng có thể giúp anh làm vậy. Nhưng không phải đấm tôi. Có lẽ là đấm tường.” Cô nhún vai. “Hoặc chúng ta có thể ngồi đây và theo dõi khi họ rốt cuộc cũng lái xe ủi mini tới, ủn hết đám đất lên trên thân xác ngày xưa của anh và theo đó khẳng định sự thực rằng mọi chuyện đã chấm hết tại đây. Tùy anh thôi.”
Hắn nhìn cô chằm chằm.
Cô gật đầu. “Phải rồi. Lẽ ra tôi có thể diễn đạt theo cách tốt hơn. Xin lỗi nhé. Vẫn đang tập cho quen việc mà.”
“Cái gì...?” Hắn cố nuốt trôi cục nghẹn trong họng mình. “Chuyện gì đang xảy ra vậy?”
Cô nói, “Chuyện vừa xảy ra là anh đã sống hết cuộc đời của mình. Anh làm việc mình đã làm, và giờ mọi chuyện kết thúc rồi. Ít ra là phần đó thì kết thúc rồi. Và khi anh sẵn sàng rời khỏi đây, tôi sẽ đưa anh tới chỗ Hugo. Anh ấy sẽ giải thích phần còn lại.”
“Rời đi,” hắn lẩm bẩm. “Với Hugo à.”
Cô lắc đầu rồi khựng lại. “Chà, theo một cách nào đó là vậy. Anh ấy là Người lái đò.”
“Người gì cơ?”
“Người lái đò,” cô lặp lại. “Người sẽ giúp anh siêu thoát.”
Đầu óc hắn quay cuồng. Hắn không tập trung được vào bất kỳ điều gì. Toàn bộ chuyện này đều có cảm giác quá to tát để hắn hiểu được. “Nhưng tôi tưởng cô phải—”
“Ồ. Anh thích tôi thật à. Dễ thương quá.” Cô bật cười. “Nhưng tôi chỉ là Thần Chết thôi, Wallace ạ. Việc của tôi là đảm bảo anh tới được chỗ Người lái đò. Anh ấy sẽ phụ trách phần còn lại. Anh sẽ biết thôi. Khi chúng ta tới chỗ anh ấy, mọi chuyện sẽ ô kê con dê hết. Hugo thường khiến người ta cảm thấy vậy. Anh ấy sẽ giải thích mọi chuyện trước khi anh siêu thoát, giải đáp mọi câu hỏi vặt vãnh, day dứt kia.”
“Siêu thoát à,” Wallace đờ đẫn nói. “Đến... đâu cơ?”
Mei nghiêng đầu. “Chà, dĩ nhiên là đến thế giới tiếp theo rồi.”
“Thiên đường ư?” Hắn tái mặt, một suy nghĩ khủng khiếp xuyên qua cơn bão lòng. “Địa ngục ư?”
Cô nhún vai. “Chắc vậy rồi.”
“Nói vậy chẳng giải thích được chuyện gì cả.”
Cô bật cười. “Tôi biết mà, phải không? Việc này vui đấy chứ. Tôi đang vui đây. Anh không vui à?”
Không, hắn thật sự không vui.
✽
Cô không thúc giục hắn. Họ ngồi lại ngay cả khi bầu trời bắt đầu vằn vện những vệt hồng và cam, mặt trời tháng ba xuống thấp về phía chân trời. Họ ngồi lại cả khi xe ủi theo ước hẹn tới, người phụ nữ khéo léo điều khiển xe với điếu thuốc ngậm giữa hai hàm răng, khói thuốc tràn ra từ mũi bà. Huyệt mộ được lấp nhanh hơn là Wallace tưởng. Tới khi bà xong việc thì những ngôi sao đầu tiên đã bắt đầu xuất hiện, dù chúng mờ đi vì ô nhiễm ánh sáng từ thành phố.
Và thế là hết.
Tất cả những gì còn lại của Wallace Price là một gò đất và cái xác sẽ chẳng là gì ngoài đồ ăn cho giun.
Đây là một trải nghiệm vô cùng tan nát cõi lòng.
Hắn chưa từng nhận ra rằng hắn sẽ đau lòng. Lạ thật đấy, hắn thầm nghĩ. Thật lạ làm sao.
Hắn nhìn Mei.
Cô mỉm cười với hắn.
Hắn nói, “Tôi...” Hắn không biết phải nói tiếp thế nào.
Cô chạm lên mu bàn tay hắn. “Đúng vậy, Wallace ạ. Chuyện này là thực.”
Và ngạc nhiên thay, hắn tin cô.
Cô nói, “Anh muốn gặp Hugo không?”
Không. Hắn không muốn. Hắn muốn bỏ chạy. Hắn muốn la hét. Hắn muốn giơ nắm đấm về phía những vì sao, lải nhải và gầm rú lên về sự bất công trong toàn bộ chuyện này. Hắn có kế hoạch. Hắn có mục tiêu. Còn bao nhiêu việc để làm, và giờ hắn sẽ không bao giờ... hắn không thể...
Hắn giật mình khi một giọt lệ lăn xuống má mình. “Tôi có lựa chọn nào không?”
“Khi còn sống? Lúc nào cũng có.”
“Còn khi đã chết?”
Cô nhún vai “Lúc ấy thì hơi... khuôn phép hơn. Nhưng như thế là vì tốt cho anh thôi. Tôi thề đấy,” cô mau chóng nói thêm. “Có nhiều lý do khiến những việc này diễn ra như vậy. Hugo sẽ giải thích mọi thứ, tôi hứa với anh đấy. Anh ấy là một người tuyệt vời. Anh sẽ thấy thôi.”
Điều ấy không khiến hắn cảm thấy khá hơn chút nào.
Dẫu vậy, khi cô đứng trước hắn, chìa tay ra, hắn chỉ nhìn chằm chằm bàn tay ấy trong chốc lát rồi nắm lấy nó, để cô kéo hắn dậy.
Hắn ngửa mặt lên trời. Hắn hít vào rồi thở ra.
Mei nói, “Lần này có thể anh sẽ thấy hơi khác lạ. Nhưng khoảng cách xa hơn, nên chuyện ấy là đương nhiên. Cảm giác ấy sẽ kết thúc ngay thôi.”
Nhưng trước khi hắn kịp phản ứng, cô đã lại búng tay và xung quanh bùng nổ.
Chú thích:
[1]Tween: độ tuổi từ 9-12 tuổi.
[2]Vải Sharkskin: loại vải dệt từ sợi mềm nhưng tạo ra lớp mặt xù xì giống với da cá mập.