← Quay lại trang sách

Chương 3

Họ đáp xuống con đường lát đá giữa một khu rừng giữa lúc Wallace đang gào thét. Không khí lạnh lẽo, nhưng ngay cả khi hắn tiếp tục gào lên, chẳng có cụm khói trắng nảo phả ra trước mặt hắn. Không hợp lý chút nào. Làm sao hắn thấy lạnh được khi đã chết? Hắn có đang hô hấp thật không hay... Không. Không. Tập trung nào. Tập trung vào nơi này. Tập trung vào lúc này. Từng thứ một thôi.

“Anh hét xong chưa?” Mei hỏi hắn.

Hắn nhận ra hắn vẫn đang hét. Hắn ngậm chặt miệng lại, bị đau dữ dội khi cắn phải lưỡi. Việc này, dĩ nhiên, lại khiến hắn bắt đầu nghĩ ngợi, vì làm thế quái nào mà hắn thấy đau được?

“Không,” hắn càu nhàu, lùi ra xa khỏi Mei, suy nghĩ rối thành một nùi vô tận. “Cô không thể cứ—”

Và rồi hắn bị xe tông.

Chờ đã.

Lẽ ra hắn phải bị xe tông. Chiếc xe đi tới, đèn pha sáng chói. Hắn kịp thời đưa tay lên che mặt, chỉ để nó đi xuyên qua mình. Qua khóe mắt, hắn thấy khuôn mặt của tài xế lướt qua cách mặt hắn vài phân.

Chiếc xe tiếp tục chạy trên đường, pha chiếu hậu lóe lên một lần trước khi nó vòng qua khúc quanh và hoàn toàn biến mất.

Hắn đứng cứng đờ, hai tay giơ ra trước mặt, một chân giơ lên cao, đùi áp lên bụng.

Mei cười ầm ĩ. “Ôi, trời. Anh nên nhìn vẻ mặt anh đi. Ôi trời ơi, quá đỉnh.”

Hắn từ từ hạ chân xuống, nửa tin chắc rằng mình sẽ rơi thẳng qua mặt đất. Hắn không rơi. Mặt đất vững vàng dưới chân hắn. Hắn không thể ngừng run rẩy. “Làm thế nào. Chuyện gì. Tại sao. Chuyện gì vậy. Chuyện gì vậy.”

Cô lau nước mắt, vẫn đang khúc khích. “Xin lỗi nhé. Lẽ ra tôi nên cảnh báo anh rằng việc này có thể xảy ra.” Cô lắc đầu. “Nhưng mà cũng ổn cả thôi, phải không? Ý tôi là, thật tuyệt vời khi không thể bị xe tông nữa phải không?”

“Đó là điều cô rút ra được từ chuyện vừa rồi đấy à?” Hắn hỏi vẻ khó tin.

“Nghĩ lại thì thấy đó cũng là chuyện khá to tát đấy chứ.”

“Tôi không muốn nghĩ lại gì hết,” hắn cấm cảu. “Tôi không muốn nghĩ về bất kỳ việc gì cả!”

Cô cảm thán, một cách khó hiểu, “Nếu mọi ước nguyện đều thành thật, chúng ta đâu có chật vật lội trong bùn.”

Hắn nhìn chằm chằm khi cô bắt đầu bước đi men theo đường. “Nói vậy chẳng giải thích được cái gì cả!”

“Chỉ vì anh đang ngoan cố đấy thôi. Tươi lên nào, anh bạn.”

Hắn đuổi theo cô, vì không muốn bị bỏ lại một mình ở chỗ khỉ ho cò gáy. Đằng xa, hắn thấy được ánh sáng từ chỗ trông như một ngôi làng nhỏ. Hắn không nhận ra bất kỳ chi tiết nào xung quanh, nhưng cô đang bước đi như bay, và hắn không nói xen được lời nào.

“Anh ấy chẳng chú trọng lễ nghi gì đâu, nên đừng lo về chuyện ấy. Đừng gọi anh ấy là Ông lái đò vì anh ấy ghét bị gọi vậy. Với ai anh ấy cũng là Hugo, được chưa? Và có khi ngừng cau có thường xuyên như vậy đi. Hoặc không, tùy anh thôi. Tôi sẽ không bảo anh phải thế này thế nọ đâu. Anh ấy biết là anh...” Cô ngại ngùng hắng giọng. “Chà, anh ấy biết tình huống này có thể phức tạp thế nào, nên đừng lo về khoản ấy. Cứ hỏi mọi điều anh cần. Chúng ta ở đây là để hỏi mà.” Và rồi, “Anh thấy thứ kia chưa?”

Hắn dợm hỏi cô đang nói về cái quái gì vậy, nhưng rồi cô hất đầu về phía ngực hắn. Hắn cúi xuống nhìn, mặt bắt đầu cau lại.

Lời đối đáp cứng rắn nơi chóp lưỡi hắn bị thay thế bằng một tiếng thét kinh hoàng.

Ở đó, thò ra khỏi ngực hắn, là một mảnh kim loại cong lên, trông gần giống như lưỡi câu to bằng bàn tay. Thứ ấy màu bạc, lóe lên trong ánh sáng tù mù. Nó không gây đau đớn, nhưng trông lẽ ra phải đau đớn mới đúng, vì mũi câu sắc bén dường như đang móc sâu vào xương ức hắn. Đuôi lưỡi câu nối với một... sợi cáp? Một dải mỏng thứ trông gần như là ni lông, lờ mờ rực sáng. Sợi cáp vươn dài trên mặt đường phía trước, kéo về phía xa. Hắn vỗ lên ngực, cố lay lưỡi câu ra, nhưng tay hắn xuyên thẳng qua vật ấy. Ánh sáng tỏa ra từ sợi cáp bừng lên, và lưỡi câu rung bần bật ấm nóng, lấp đầy hắn bằng thứ cảm giác nhẹ nhõm quái lạ mà hắn chẳng ngờ tới, vì hắn vừa bị đâm xiên qua cơ mà.

“Cái gì vậy?” Hắn la hét, vẫn đang đập lên ngực. “Gỡ nó xuống, gỡ nó xuống mau!”

“Không,” Mei nói, vươn tay qua nắm lấy tay hắn. “Chúng ta thật sự không nên làm vậy đâu. Hãy tin tôi khi tôi nói rằng thứ này đang giúp anh. Anh cần nó. Nó sẽ không làm anh đau đâu, tôi thề đấy. Tôi không thấy được nó, nhưng xét trên phản ứng của anh, tình trạng này cũng giống như tất cả những người khác thôi. Đừng táy máy nghịch nó. Hugo sẽ giải thích thôi, tôi hứa đấy.”

“Cái gì đây?” Hắn lại hạch hỏi, da rợn hết lên. Hắn nhìn chằm chằm sợi cáp chạy theo con đường trước mặt họ.

“Mối dây liên kết,” Cô huých vai hắn. “Để giữ cho anh tỉnh táo ấy mà. Dây này dẫn tới chỗ Hugo. Anh ấy biết chúng ta đang ở gần rồi. Đi thôi. Tôi nóng lòng muốn anh gặp anh ấy lắm đây.”

Ngôi làng thật yên tĩnh. Dường như chỉ có duy nhât một phố chính xuyên qua giữa làng. Không có đèn giao thông: không tiếng người rộn ràng trên hè phố. Vài chiêc ô tô chạy qua (Wallace nhảy qua tránh chúng, hắn không muốn trải nghiệm lại việc kia lần nữa), nhưng ngoài chúng ra, nơi này hầu như là tĩnh lặng. Cửa hàng cửa hiệu ở hai bên đường đã đóng, khung kính tối om, biển hiệu treo trên cửa hứa hẹn rằng họ sẽ mở lại vào sáng sớm. Những mái hiên vươn ra phía trên vỉa hè, tất cả đều mang màu đỏ, lục, lam, cam rực rỡ.

Đèn đường xếp dọc hai bên phố, ánh đèn ấm áp và dịu nhẹ. Con phố được lát đá phiến, và Wallace bước sang bên khi một đám trẻ phóng xe đạp qua. Chúng không đoái hoài đến cả hắn lẫn Mei. Chúng đang cười đùa và la hét, trên nan hoa kẹp những lá bài bằng kẹp quần áo, hơi thở kéo vệt phía sau như những đoàn tàu. Lòng Wallace nhức nhối đôi chút trước suy nghĩ ấy. Chúng thật tự do, tự do theo những cách mà hắn chưa từng từ lâu lắm rồi. Hắn loay hoay với suy nghĩ này, không tài nào định hình nó thành những cảm xúc mình nhận ra được. Và rồi cảm giác ấy biến mất, khiến Wallace trống rỗng và run rẩy.

“Nơi này có thực không?” hắn hỏi, cảm thấy lưỡi câu trên ngực hắn ấm nóng lên. Sợi cáp không hề chùng xuống khi họ tiến xa hơn như hắn đoán. Hắn tưởng đến lúc này là mình phải vấp vào thứ ấy rồi. Thay vào đó, sợi dây vẫn căng như từ lần đầu hắn để ý thấy nó.

Mei liếc hắn. “Ý anh là sao?”

Hắn cũng không biết nữa. “Họ... mọi người ở đây đều chết rồi ư?”

“Ồ. Chà, không. Tôi hiểu ý anh rồi. Phải, nơi này có thực. Không, mọi người không chết. Chỗ này cũng giống như mọi nơi khác thôi, tôi nghĩ vậy. Chúng ta quả đã phải đi khá xa, nhưng đây không phải nơi mà anh không tự mình đi được nếu từng quyết định rời khỏi thành phố. Nghe có vẻ như anh không ra ngoài nhiều lắm nhỉ.”

“Tôi bận quá mà,” hắn lầm bầm.

“Giờ thì anh có thừa thời gian rồi,” Mei nói, và hắn giật mình khi thấy lời ấy châm chích đến thế nào. Ngực hắn nảy lên và hắn chớp mắt để xua đi cơn cay xè bất chợt trong đó. Mei biếng nhác bước đi trên vỉa hè, ngoái đầu lại để đảm bảo rằng hắn đang theo sau.

Hắn có theo cô, nhưng chỉ vì hắn không muốn bị bỏ lại ở một nơi xa lạ. Những ngôi nhà trông từng hay ho giờ sừng sững quái gở quanh hắn, những ô cửa tối om như những đôi mắt chết lặng. Hắn nhìn xuống chân mình, tập trung vào việc đưa chân nọ lên trước chân kia. Khung cảnh trước mắt hắn bắt đầu xoay mòng mòng, da hắn giần giật. Lưỡi câu trên ngực hắn mỗi lúc một mãnh liệt hơn.

Cả đời hắn chưa từng sợ hãi hơn lúc này.

“Nào, nào,” hắn nghe thấy Mei nói, và khi mở mặt, hẳn thấy mình khuỵu xuống sát đất, hai tay ôm quanh bụng, ngón tay bấu vào da thịt mạnh đến mức để lại vết bầm tím. Đấy là nếu hắn còn có thể bị bầm tím. “Không sao đâu, Wallace. Có tôi ở đây rồi.”

“Làm như nói vậy sẽ khiến tôi thấy khá hơn ấy,” hắn nghẹn họng.

“Chuyện này khá ngợp đối với bất kỳ ai. Chúng ta có thể ngồi đây một lát, nếu anh cần. Tôi sẽ không thúc giục anh đâu, Wallace ạ.”

Hắn không biết hắn cần làm gì nữa. Hắn không suy nghĩ tỉnh táo được. Hắn cố gắng hiểu, cố gắng tìm điều gì đó để bám víu vào. Và khi đã tìm được, nó bung nở trong hắn, kỷ niệm đã bị lãng quên trỗi dậy như một hồn ma.

Khi ấy hắn chín tuổi, và cha hắn bảo hắn vào phòng khách. Hắn vừa từ trường về nhà và đang ở trong bếp làm bánh kẹp chuối với bơ lạc. Hắn đông cứng lại trước yêu cầu của cha, cố gắng nghĩ xem hắn đã làm gì để gặp rắc rối thế này. Hắn đã hút thuốc ở sau khán đài, nhưng đó là vài tuần trước rồi, và không đời nào cha mẹ hắn có thể biết được trừ khi ai đó đã mách với họ. Và cũng chẳng phải là hắn sẽ lại hút tiếp, hắn ghét việc thuốc lá khiến hắn ho sù sụ tới mức đau họng.

Hắn để chiếc bánh kẹp trên quầy, trong đầu đã viện cớ, lập ra những lời hứa hẹn như... con sẽ không bao giờ làm vậy nữa, con thề đấy, chỉ có một lần đấy thôi.

Họ đang ngồi trên sô pha, và hắn đứng khựng lại khi thấy mẹ hắn khóc, dù trông bà như đang cố nhịn. Má bà lấm lem, tờ giấy ăn vo viên trong bàn tay. Mũi bà đỏ bừng, và dù bà cố mỉm cười khi thấy hắn, nụ cười run run và trễ xuống trong khi vai bà rung lên.

Hắn nhớ mình đã nghĩ rằng chuyện này có cảm giác to tát đây, rằng đây là một khoảnh khắc lớn lao. Không thể là về việc hút thuốc được. Mẹ hắn sẽ không khóc vì một chuyện cỏn con như vậy. Thật ra, hắn mới chỉ thấy bà khóc một lần trước đây, khi tình cờ xem một bộ phim trong đó chú chó đã vượt qua chông gai (gai nhím) để đoàn tụ với chủ nhân của mình.

“Có chuyện gì vậy?” hắn hỏi, không chắc mình nên làm gì. Hắn hiểu an ủi người khác là gì nhưng chưa bao giờ thật sự thực hành việc ấy. Họ không phải là một gia đình thoải mái bày tỏ cảm xúc. Cùng lắm thì, cha hắn bắt tay hắn, và mẹ hắn siết vai hắn mỗi khi họ hài lòng về hắn. Hắn không lấy làm phiền. Cuộc sống của hắn là vậy.

Cha hắn nói, “Ông của con đã mất rồi.”

“Ồ,” Wallace thì thào, đột nhiên cảm thấy ngứa ngáy từ đầu tới chân.

“Con có hiểu chết là như thế nào không?”

Không, hắn không hiểu. Hắn biết đó là gì, biết từ ấy có nghĩa gì, nhưng đó là một điều u ám, một sự kiện xảy ra với những người khác ở xa tít tắp. Wallace chưa từng nghĩ rằng ai đó hắn biết sẽ chết, rằng một giây trước họ còn đây, mà giây sau đã đi rồi. Ông ngoại ở nơi cách hắn bốn tiếng chạy xe, và nhà ông luôn có mùi sữa lên men. Ông luôn thích làm đồ thủ công từ lon bia bỏ đi: những chiếc máy bay có cánh quạt thật sự quay được, những chú mèo nhỏ treo thả từ trần mái hiên nhà ông. Wallace yêu ông ngoại vì đó là điều hắn phải làm. Hắn không dám chắc rằng mình thích ông cho lắm, nhưng hắn giữ kín điều ấy trong lòng.

Và vì hắn là một đứa trẻ vật lộn với một khái niệm lớn lao hơn hắn nhiều, lời tiếp theo phát ra từ miệng hắn là “Có người đã giết ông ạ?” Ông ngoại thích kể mình đã chiến đấu vào thời chiến ra sao (chính xác là cuộc chiến nào thì Wallace không biết; hắn chưa bao giờ hỏi thêm được câu nào), sau đó thường là những từ ngữ khiến mẹ Wallace hò hét với cha mình trong khi bịt tai Wallace lại, và sau đó, bà sẽ dặn con trai duy nhất của mình là không bao giờ được lặp lại những gì hắn vừa nghe vì những lời đó phân biệt chủng tộc khủng khiếp. Nếu ai đó đã giết ông ngoại thì hắn có thể hiểu được. Việc ấy thật ra rất hợp lý đấy chứ.

“Không, Wallace à,” mẹ hắn nghẹn họng. “Không phải như vậy đâu. Là bệnh ung thư. Ông bị ốm, và ông không sống được thêm nữa. Ông đã... đã đi rồi.”

Và chính sự kiện này là thứ hắn đang tập trung nghĩ tới, ký ức cho phép hắn dấn bước xuyên qua bão tố trong đầu mình. Nhưng ngay cả khi làm vậy, hắn tự hỏi tại sao lại là ký ức cụ thể này, một khoảnh khắc trong quá khứ mà hắn đã không nghĩ tới lâu này. Một phần trong hắn - phần lặng im hay thì thầm ở sâu trong đầu mà hắn thường xuyên lờ đi - nhắc nhở hắn rằng đó chính là khoảnh khắc mình nhận ra cuộc đời là hữu hạn, và điều ấy khiến hắn sợ hãi hơn bất kỳ chuyện gì hắn từng trải qua trước đây. Nhưng thay vì xử lý chuyện ấy, thay vì phân tích qua từng cảm xúc trào dâng, hắn nén chúng xuống, nhét chúng vào một cái thùng và khóa chặt lại. Vờ như cái chết chẳng là gì, chẳng quan trọng, thì dễ dàng hơn. Ông ngoại từng sống trên đời, và rồi ông không còn nữa. Có nghĩa là chuyện ấy cũng có thể xảy ra với Wallace.

Kỷ niệm này là khoảnh khắc mà Wallace Price quyết định - theo cách trẻ con thường làm, quả quyết và gan dạ rằng hắn sẽ không bao giờ để chuyện ấy xảy ra với mình. Cha mẹ hắn đau buồn khi ông ngoại mất đi. Wallace không thích phải đau buồn. Nên hắn không buồn. Chỉ đơn giản vậy thôi.

Hắn chậm rãi chớp mắt, dần dần nhìn ra cảnh vật xung quanh. Vẫn đang trong làng. Vẫn đi cùng cô gái kia.

Mei khom người trước mặt hắn, cà vạt đung đưa giữa hai chân. “Ổn cả chứ?”

Hắn không tin rằng mình mở miệng được, nên hắn gật đầu, dù đang ở trong trạng thái khác xa với ổn.

“Thế này là bình thường,” cô nói, nhịp nhịp ngón tay lên đầu gối. “Ai cũng bị vậy sau khi họ qua đời ấy mà. Và đừng ngạc nhiên nếu anh bị thêm vài lần nữa. Chuyện này khó tiếp thu mà.”

“Làm sao cô biết được?” hắn làu bàu. “Cô nói tôi là ca đầu tiên của cô mà.”

“Ca làm việc một mình đầu tiên,” cô chỉnh lời hắn. “Tôi đã dành hơn một trăm giờ huấn luyện trước khi có thể ra làm một mình, nên tôi từng thấy tình cảnh này rồi. Anh nghĩ mình đứng dậy nổi không?”

Không, hắn không nghĩ vậy. Hắn vẫn đứng dậy. Có chút lảo đảo, nhưng hắn vẫn đứng thẳng được chỉ bằng sức mạnh ý chí. Lưỡi câu kia vẫn ở đó trên ngực hắn, dây cáp vẫn mờ sáng. Trong khoảnh khắc, hắn tưởng hắn cảm thấy mình bị giật nhẹ, nhưng hắn không chắc nữa.

“Được rồi đây,” Mei nói. Cô vỗ ngực hắn. “Anh làm tốt lắm, Wallace ạ.”

Hắn lườm cô. “Tôi không phải trẻ con.”

“Ồ, tôi biết chứ. Làm việc với trẻ con dễ hơn, anh tin không. Người lớn mới là đám hay gây khó khăn.”

Hắn không biết trả lời thế nào, nên hắn không nói gì cả.

“Đi thôi,” cô nói. “Hugo đang đợi chúng ta đấy.”

Không bao lâu sau họ đã tới cuối làng. Dãy nhà kết thúc, và con đường trải dài trước mặt họ uốn mình xuyên qua khu rừng lá kim, mùi thông khiến Wallace nhớ tới Giáng Sinh, thời điểm cả thế giới như ngơi nghỉ và quên đi rằng cuộc đời có thể khắc nghiệt đến đâu, dù chỉ trong chốc lát.

Hắn chuẩn bị hỏi còn phải đi bao xa nữa thì họ đi tới một con đường đất ngoài làng. Một biển hiệu bằng gỗ đặt bên lề đường. Trong bóng đêm hắn không nhìn ra hàng chữ, cho tới khi đến gần hơn.

Những chữ cái được khắc lên mặt gỗ một cách hết sức cẩn thận.

BẾN ĐỒ CHARON

TIỆM TRÀ VÀ BÁNH

“Cha-rôn à?” hắn nói. Hắn chưa từng nghe thấy từ nào như vậy trước đây.

“Cây-rôn,” Mei nói, nhấn nhá thật chậm. “Đấy là một trò đùa nho nhỏ ấy mà. Hugo vui tính vậy đấy.”

“Tôi không hiểu.”

Mei thở dài. “Dĩ nhiên là không rồi. Đừng lo. Ngay khi chúng ta tới tiệm trà, anh sẽ...”

“Tiệm trà à,” Wallace lặp lại, săm soi tấm biển với vẻ khinh bỉ.

Mei khựng lại. “Ối chà. Anh bạn, anh có thù gì với trà à? Chuyện ấy sẽ không được chào đón lắm đâu.”

“Tôi không có thù gì với— tôi tưởng chúng ta đang đi gặp Chúa trời. Tại sao ông ta lại—”

Mei phá lên cười. “Cái gì cơ?”

“Hugo,” hắn nói, mặt đỏ bừng. “Hay gã nào đó?”

“Ôi chà, tôi nóng lòng muốn kể cho anh ấy rằng anh đã nói vậy ghê. Trời đất ơi. Lời ấy sẽ làm anh ấy choáng váng tại chỗ mất thôi.” Cô cau mày. “Thôi có khi tôi sẽ không kể đâu.”

“Tôi không hiểu có gì hài hước đến vậy.”

“Tôi biết,” cô nói. “Đó chính là điểm hài hước trong chuyện ấy. Hugo không phải Chúa trời, Wallace ạ. Anh ấy là Người lái đò. Tôi nói với anh rồi mà. Chúa là... khái niệm Chúa trời là do con người tạo ra. Cái chết có hơi phức tạp hơn vậy.”

“Cái gì cơ?” Wallace yếu ớt nói. Hắn tự hỏi liệu mình có khả năng đau tim đến lần thứ hai không, dù vốn hắn đã chết rồi. Và rồi hắn nhớ ra mình không thật sự cảm nhận được rằng tim mình đang đập nữa, và khát khao muốn cuộn tròn người lại bắt đầu xâm chiếm hắn lần nữa. Dù có theo thuyết bất khả tri hay không, hắn không ngờ mình lại nghe thấy người ta nói ra điều to tát nhường ấy một cách dễ dàng đến vậy.

“Ồ, không,” Mei nói, túm bàn tay hắn để đảm bảo rằng hắn vẫn đứng vững. “Chúng ta sẽ không nằm xuống ở đây đâu. Chỉ đi thêm một chút nữa thôi. Nằm trong tiệm sẽ dễ chịu hơn đấy.”

Hắn mặc cho mình bị kéo đi trên đường đất. Cây cối ở đây rậm rạp hơn, những cây thông lâu năm vươn lên bầu trời đầy sao như những ngón tay mọc từ mặt đất. Hắn không nhớ nổi lần cuối mình ở trong rừng là khi nào, vào ban đêm lại càng không. Hắn thích sắt thép và tiếng còi xe ầm ĩ hơn, những âm thanh của một thành phố không bao giờ ngủ. Còn tiếng ồn có nghĩa là hắn không đơn độc, dù ở đâu đi nữa. Còn ở đây, sự tĩnh lặng quá ngột ngạt, nuốt chửng mọi thứ.

Họ vòng qua khúc quanh, và giữa những thân cây hắn thấy được ánh sáng ấm áp, như ngọn đèn vẫy gọi hắn. Hắn hầu như không cảm thấy chân mình chạm đất nữa. Hắn nghĩ có khi mình đang trôi lơ lửng nhưng không ép nổi bản thân cúi đầu xuống nhìn.

Càng đến gần, lưỡi câu càng giật lấy ngực hắn. Không hẳn là khó chịu, nhưng hắn cũng không lờ nó đi được. Sợi cáp vẫn theo con đường chạy tới.

Hắn sắp sửa hỏi Mei về lưỡi câu thì có gì đó di chuyên trên đường phía trước họ. Hắn rúm người lại, hình dung trong đầu một sinh vật khủng khiếp với răng nanh nhọn hoắt và đôi mắt sáng lập lòe bò ra từ cánh rừng tăm tối. Thay vào đó, một người phụ nữ xuất hiện, vội vã đi tới trên đường. Càng tới gần, càng thêm nhiều chi tiết hiện ra. Trông bà như ở tuổi trung niên, miệng mím lại thành một đường thẳng trong khi siết chặt áo khoác quanh người. Dưới mắt bà có bọng, hai quầng thâm trông như bị xăm lên mặt. Wallace không biết tại sao hắn trông đợi sự có mặt của mình được thừa nhận theo một cách nào đó, nhưng bà đi qua mà không liếc lấy một cái về phía họ, mái tóc vàng tung bay sau lưng khi bà vội vã đi trên đường.

“Đó là ai vậy?” Wallace hỏi.

“Đừng để ý tới bà ấy,” Mei nói. Mặt cô trông có vẻ mỏi mệt, nhưng cô lắc đầu và vẻ mặt ấy tan biến. “Đi thôi. Tôi không muốn để anh ấy đợi lâu hơn khoảng thời gian chúng ta đã bắt anh ấy đợi đâu.”

Hắn không biết mình đã trông đợi điều gì sau khi đọc biển hiệu. Hắn chưa từng thật sự bước vào chỗ nào có thể gọi là tiệm trà trước kia. Hắn mua cà phê sáng từ xe đẩy trước tòa nhà văn phòng. Hắn không phải dân chơi. Hắn không búi tóc hay có gu thời trang đầy châm biếm, mặc kệ bộ trang phục hiện tại của hắn. Cặp kính hắn hay đeo khi đọc theo chủ nghĩa thực dụng, dù đắt tiền. Hắn lạc lõng ở một nơi có thể được mô tả là tiệm trà. Thật là một ý tưởng lố bịch.

Đó là lý do tại sao hắn ngạc nhiên khi họ tới tận cửa tiệm và thấy rằng trông nó như một ngôi nhà. Ừ thì trông nó không giống bất kỳ ngôi nhà nào hắn từng thấy trước đây, nhưng vẫn là một ngôi nhà. Một mái hiên ốp gỗ chạy vòng quanh mặt tiền, những khung cửa sổ cao rộng xếp hai bên một cánh cửa xanh lá tươi tắn, ánh sáng hấp háy tỏa ra từ trong nhà như thể người ta đã thắp nến lên. Một ống khói bằng gạch dựng trên mái nhà, chút khói uốn lượn bay lên từ miệng ống.

Nhưng đến đó là hết điểm tương đồng với bất kỳ ngôi nhà nào Walalce từng thấy. Một phần sự khác biệt là do sợi cáp kéo từ lưỡi câu trên ngực hắn lên bậc thang, biến mất sau cánh cửa. Qua cánh cửa.

Bản thân ngôi nhà trông như thể nó được bắt đầu xây theo một kiểu, rồi được nửa đường thì đám thợ quyết định xây theo một hướng hoàn toàn khác. Lời tử tế nhất Wallace có thể nghĩ ra để mô tả nó là trông như một đứa trẻ đã chồng hết khối phòng này tới khối phòng khác lên nhau, tạo ra một tòa tháp chông chênh. Ngôi nhà trông như thể ngay cả ngọn gió nhẹ nhất cũng xô đổ được nó. Bản thân ống khói không xiêu vẹo, mà xoắn vặn thì đúng hơn, những hàng gạch chìa ra ở những góc độ không thế chìa nổi. Tầng một ngôi nhà trông có vẻ vững vàng, nhưng tầng hai lệch hẳn về một bên, tầng ba lệch về bên đối diện, tầng bốn thì ở chính giữa, tạo thành một tháp canh có rèm che ở nhiều khung cửa. Wallace nghĩ mình thấy một trong những tấm rèm lay động như thể ai đó đang lén nhìn ra, nhưng đó có thế là do ảo giác.

Mặt ngoài của ngôi nhà được ốp ván gỗ.

Nhưng cũng có gạch trần.

Và... gạch bùn?

Một mặt nhà có vẻ được dựng nên từ những khúc gỗ, như thể ngày xưa từng là chòi gỗ. Công trình trông như thứ bước ra từ truyện cổ tích, một ngôi nhà kỳ lạ ẩn mình giữa rừng sâu. Có lẽ trong nhà sẽ là một người tiều phu tốt bụng, hay một mụ phù thủy muốn nướng Wallace trong lò, làm da hắn toác ra và cháy xém. Wallace không biết là nhân vật nào thì tệ hơn. Hắn đã nghe quá nhiều câu chuyện về những việc khủng khiếp xảy ra trong những ngôi nhà như thế này, tất cả đều nhằm mục đích dạy cho người ta một Bài Học Đắt Giá. Suy nghĩ này chẳng khiến hắn thấy an tâm hơn chút nào cả.

“Nơi này là cái chỗ gì vậy?” Wallace hỏi khi họ dừng lại gần hiên nhà. Một chiếc xe máy nhỏ màu xanh lục đỗ cạnh một bồn hoa, những bông hoa vàng lục đỏ trắng nở rực rỡ, nhưng màu sắc đã trầm xuống trong bóng đêm.

“Đỉnh của chóp, phải không nào?” Mei nói. “Bên trong còn điên rồ hơn. Dân tứ xứ đổ về đây để chiêm ngưỡng nơi này đấy. Tiệm trà chúng tôi khá nổi tiếng như lẽ dĩ nhiên.”

Hắn giật cánh tay khỏi tay cô khi cô định đi về phía hiên. “Tôi không vào đâu.”

Cô ngoái đầu lại. “Tại sao không?”

Hắn khua tay về phía ngôi nhà. “Trông nó không an toàn. Rõ ràng là không tuân thủ luật xây dựng. Bất cứ lúc nào nhà này cũng sẽ sụp.”

“Làm sao mà anh biết vậy?”

Hắn nhìn cô chằm chằm. “Chúng ta đang thấy cùng một thứ, phải không? Tôi sẽ không để mình bị kẹt bên trong khi nó sụp đâu. Đây là một vụ kiện chỉ chực chờ ra tòa. Và tôi biết rõ việc kiện tụng nhé.”

“Hờ,” Mei nói, lại ngẩng lên nhìn ngôi nhà. Cô ngửa đầu hết cỡ ra sau. “Nhưng...”

“Nhưng?”

“Anh chết rồi mà,” cô nói. “Kể cả nó có sụp thật, thì cũng đâu quan trọng gì.”

“Việc đó...” Hắn không biết việc đó thế nào nữa.

“Vả lại, ngôi nhà đã thế này suốt thời gian tôi sống ở đây rồi. Nó vẫn chưa sụp. Tôi cũng không nghĩ hôm nay sẽ là ngày nó sụp đâu.”

Hắn há hốc miệng nhìn cô. “Cô sống ở đây ư?”

“Đúng thế,” cô nói. “Đây là nhà của chúng tôi, vậy nên có khi anh nên tỏ thái độ tôn trọng chút đi? Và đừng lo về ngôi nhà. Nếu lúc nào cũng lo lắng về mấy điều nhỏ nhặt, chúng ta có nguy cơ bỏ lỡ những điều to tát hơn đấy.”

“Đã có ai nói với cô rằng mấy lời cô nói y như lời nhắn trong bánh quy may mắn chưa?” Wallace làu bàu.

“Chưa,” Mei nói. “Vì nói vậy khá là kỳ thị sắc tộc, vì tôi là người châu Á, vân vân.”

Wallace tái mặt. “Tôi... đấy không phải— ý tôi không phải là—”

Cô nhìn hắn chằm chằm hồi lâu, mặc cho hắn lắp bắp chán rồi mới nói, “Được thôi. Thì anh không có ý đó. Vậy thì tốt rồi. Tôi biết với anh từ đầu đến cuối chuyện này đều mới mẻ, nhưng có khi hãy suy nghĩ trước khi mở miệng, nhé? Đặc biệt là khi anh đang nói chuyện với một người đã chứng kiến toàn bộ cuộc đời anh.”

Nếu nói vậy là để an ủi hắn, thì cô lầm to rồi. “Cô đã làm gì cơ?”

Cô gõ gõ bên đầu mình. “Thần Chết nè, nhớ không? Biết gần như mọi điều về anh đấy. Đó là công việc của tôi mà.”

Và vì những lý do Wallace không giải thích nổi, hắn đưa tay lên che hai núm vú. “Ối trời ơi.”

Mei nheo mắt nhìn hắn. “Tôi tưởng chuyện ấy khá là rõ ràng.”

“Chẳng có chuyện gì trong tình cảnh này là rõ ràng cả!”

“Ồ. Chà. Một lần nữa thì, đây là lần đầu tiên tôi làm việc một mình, nên là. Tôi mong là càng đưa nhiều người đi thì tôi sẽ càng giỏi hơn. Nhưng anh sẽ mãi là lần đầu của tôi.” Cô mỉm cười, và nụ cười ấy thật quỷ quyệt. “Anh đã bóc tem tôi, nhỉ?”

Và giờ hắn đang che háng mình. Hắn không biết tại sao mình lại ra nông nỗi này. Hắn oán trách mọi thứ trừ bản thân.

Cô bước hai bậc một lên hiên nhà, dừng lại trước cửa. Những chậu cây treo thả từ trên trần, dây leo rủ xuống. Một tấm biển bày trong cửa kính ghi rằng ĐÓNG CỬA ĐỂ PHỤC VỤ SỰ KIỆN RIÊNG TƯ. Bản thân cánh cửa có một nắm đấm gõ cửa hình chiếc lá bằng kim loại đã nhiều tuổi. Mei nâng nắm đấm lên, gõ nó lên cánh cửa xanh lục ba lần.

“Tại sao cô lại gõ cửa?” hắn hỏi. “Cô sống ở đây kia mà?”

Mei quay lại nhìn hắn. “Ồ, đúng vậy, nhưng tối nay thì khác. Đây là cách tiến hành việc này. Sẵn sàng chưa?”

Chưa. Hắn chưa sẵn sàng. “Có khi chúng ta nên quay lại sau.”

Cô mỉm cười như đang khoái chí, và dù có đánh chết hắn, Wallace cũng không thấy được có gì hài hước ở đây. “Lúc này hay lúc khác thì cũng vậy cả thôi. Bước đầu tiên là quan trọng nhất, Wallace ạ. Anh làm được mà. Tôi biết thật khó để tin tưởng, đặc biệt là khi đối mặt với những điều ta chưa biết. Nhưng tôi tin anh. Hay anh tin tôi một chút đi được không?”

“Tôi còn không biết cô.”

Cô khẽ ngâm nga vài tiếng. “Chắc chắn là không rồi. Nhưng chỉ có một cách để thay đổi chuyện ấy, phải không nào?”

Hắn nhìn cô chằm chằm. “Cô thật sự đang dốc sức giành điểm mười kia, phải không?”

Cô bật cười. “Lúc nào mà chẳng vậy.” Cô đặt tay lên nắm đấm cửa. “Ta đi chứ?”

Wallace nhìn lại ra đường. Trên đường tối đen. Bóng đêm đang vươn mình về phía hắn. Bầu trời là một cánh đồng đầy sao, nhiều sao hơn bất kỳ lúc nào hắn từng thấy trong đời. Hắn thấy mình thật nhỏ bé, tầm thường. Và lạc lối. Ôi, hắn lạc lối biết bao.

“Bước đầu tiên,” hắn thì thầm với chính mình.

Hắn lại quay về phía ngôi nhà. Hắn hít một hơi thật sâu và ưỡn ngực. Hắn lờ đi tiếng lạch bạch ngớ ngẩn mà đôi dép xỏ ngón vỗ ra khi hắn bước lên bậc thềm. Hắn làm được mà. Hắn là Wallace Phineas Price. Người ta co rúm lại khi nghe tên hắn. Họ đứng trước hắn với vẻ kinh sợ. Hắn lạnh lùng và toan tính. Hắn là con cá mập dưới biển sâu, không ngừng lượn quanh. Hắn...

... vấp một cái khi bậc trên cùng xệ xuống, khiến hắn chúi đầu về phía trước.

“À phải,” Mei nói. “Cẩn thận bậc cuối cùng. Xin lỗi nhé. Vốn đang định bảo Hugo sửa lại bậc thang đó. Không muốn cắt ngang giây phút huy hoàng của anh hay bất kỳ giây phút gì đang diễn ra ấy mà. Tại trông có vẻ quan trọng lắm.”

“Tôi ghét cả thế giới này,” Wallace nói qua kẽ răng nghiến chặt.

Mei đẩy mở cánh cửa của TIỆM TRÀ VÀ BÁNH BẾN ĐÒ CHARON. Bản lề cửa kêu kẽo kẹt, và ánh sáng ấm áp tràn ra, theo đó là hương gia vị cùng lá thơm nồng nàn: gừng và quế, bạc hà và bạch đậu khấu. Hắn không biết làm thế nào mà mình phân biệt được chúng, vậy nhưng hắn vẫn làm được. Ở đây không giống như ở văn phòng, nơi thân thuộc với hắn còn hơn cả nhà của chính mình, hôi mùi nước tẩy rửa và khí điều hòa, toàn sắt thép và không có chút tùy hứng nào, và dù có ghét cái mùi đó, hắn cũng đã quen với nó rồi. Đó là mùi an toàn. Đó là mùi thực tại. Đó là mùi mà hắn biết. Đó là tất cả những gì hắn biết, hắn hoảng hốt nhận ra. Điều ấy nói lên được gì về hắn đây?

Sợi cáp gắn với lưỡi câu lại rung lên lần nữa, dường như đang gọi hắn tiến về phía trước.

Hắn muốn chạy xa hết mức chân mình có thể chạy.

Thay vào đó, khi chẳng còn gì để mất, Wallace theo Mei vào cửa.