← Quay lại trang sách

Chương 5

Wallace chưa bao giờ thích trà. Nếu bị gặng hỏi, hắn sẽ nói rằng hắn chưa bao giờ thật sự hiểu người ta hào hứng vì cái gì. Chỉ là lá khô ngâm nước nóng thôi mà.

Và việc hắn vẫn đang nhìn chằm chằm người đàn ông tên Hugo Freeman có lẽ còn khiến tình hình tệ hơn. To lớn là vậy, nhưng anh lại di chuyển đầy tao nhã, từng cử động đều khoan thai. Anh không vươn tay ra đỡ Wallace dậy, thay vào đó ra hiệu cho hắn tự đứng lên từ dưới đất. Wallace làm theo, dù hắn vẫn giữ khoảng cách. Dù Mei đã nói gì với hắn đi nữa, nếu Chúa Trời có tồn tại thật, ngài hẳn sẽ là người đàn ông này. Biết đâu được đấy, đây có thể là một trò lừa khác, một bài kiểm tra để xem xem hắn sẽ phản ứng ra sao. Lúc này hắn phải thật cẩn thận, đặc biệt là khi hắn chuẩn bị khăng khăng đòi người này trao lại sinh mệnh cho mình. Tệ hơn nữa là sợi cáp dường như kết nối hai người họ với nhau, kéo dài và thu ngắn lại tùy vào họ đứng cách nhau bao xa.

Apollo ngồi gần quầy, cạnh chân Hugo, ngẩng đầu âu yếm nhìn anh, đuôi khẽ đánh nhịp lên sàn. Mei đỡ Nelson đi về phía quầy, dù ông cụ càu nhàu rằng mình có thể tự đi được.

Wallace nhìn Hugo nhấc ấm trà bằng thiếc đang tỏa hơi nghi ngút lên từ khay trà. Anh đưa ấm lên mũi, hít sâu một hơi. Anh gật đầu và nói, “Lá trà đã ủ đủ lâu. Giờ hẳn là đã ngấm rồi.” Anh ngẩng mặt nhìn Wallace với vẻ gần như xin lỗi. “Đây là trà lá hữu cơ, và có vẻ như không phù hợp với những gì tôi biết về anh cho lắm, nhưng trước nay tôi chưa bao giờ nhìn sai người. Biết đâu mọi thứ anh thích đều là đồ hữu cơ thì sao. Và bạc hà nữa.”

“Tôi không thích đồ hữu cơ gì cả,” Wallace lầm bầm.

“Không sao,” Hugo vừa nói vừa bắt đầu rót trà. “Tôi nghĩ anh sẽ thích loại trà này thôi.” Có bốn tách trà, trên mỗi tách in họa tiết hoa khác nhau. Anh ra hiệu cho Wallace nhận lấy tách có hình hoa mọc hai bên và tràn vào trong lòng tách.

“Tôi chết rồi,” Wallace nói.

Hugo cười rạng rỡ với anh. “Đúng rồi. Đúng là vậy đấy.”

Wallace nghiến răng. “Đó không phải là điều— thôi quên đi. Tôi cầm tách lên thế quái nào được?”

Hugo bật cười. Đó là một âm thanh trầm thấp và âm vang, bắt nguồn từ trong ngực và tuôn trào khỏi miệng anh. “À. Tôi hiểu rồi. Và điều anh nói có thể hợp lý, ở bất kỳ nơi nào khác. Nhưng không phải ở đây. Không phải với những tách trà này. Thử đi. Tôi hứa là anh sẽ không phải thất vọng đâu.”

Không ai có thể hứa chắc được chuyện ấy. Thứ duy nhất hắn chạm vào được là Mei và mặt đất dưới chân hắn. Và Apollo, nhưng bớt nhắc đến vụ ấy thì tốt hơn. Việc cầm tách lên có cảm giác như một bài kiểm tra và hắn tin tưởng người đàn ông này cũng nhiều như tin vào khả năng mình đánh bay được anh vậy, mà với kích cỡ này, làm anh nhúc nhích là gần như không thể, chứ đừng nói đến đánh bay.

Hắn thở dài và đưa tay cầm lấy tách trà, những tưởng tay mình sẽ xuyên qua tách, sẵn sàng lườm Hugo như thể để nói thấy chưa?

Nhưng rồi hắn cảm thấy hơi ấm của trà, và sửng sốt khi ngón tay mình chạm lên bề mặt cái tách. Nó vẫn vững vàng.

Nó vẫn vững vàng.

Hắn xuýt xoa khi giật tay lại, khiến trà sánh ra bên mép tách và đổ lên ngón tay hắn. Cảm giác bỏng rát thoáng bùng lên, nhưng rồi lại biến mất. Hắn nhìn xuống ngón tay mình. Chúng vẫn nhợt nhạt như mọi khi, trên da không chút tì vết.

“Những tách trà này đặc biệt,” Hugo nói. “Dành cho những người như anh.”

“Người như tôi,” Wallace đờ đẫn lặp lại, vẫn đang nhìn chằm chằm xuống ngón tay mình.

“Đúng vậy,” Hugo nói. Anh rót xong trà vào những tách còn lại và đặt ấm trở lại khay. “Những người đã rời khỏi một cuộc đời để chuẩn bị cho một cuộc đời khác. Bộ tách này là quà tặng khi tôi đảm nhận vị trí hiện nay.”

“Một Người lái đò,” Wallace nói.

Hugo gật đầu. “Phải.” Anh gõ gõ những chữ cái thêu trên ngực áo. Dường như anh không để ý thấy sợi cáp, ngón tay anh xuyên qua nó và biến mất. “Anh có biết Charon không?”

“Không.”

“Ông ấy là Người lái đò Hy Lạp, người chở những linh hồn tới cho Hades, qua sông Styx và Acheron chia cắt thế giới của người sống và người chết.” Hugo cười khúc khích. “Có hơi thiếu tinh tế, tôi biết, nhưng tôi đặt tên cho nơi này khi còn trẻ mà.”

“Khi còn trẻ,” Wallace lặp lại, “Anh vẫn trẻ mà.” Rồi, vì không biết liệu mình có đang xúc phạm một vị thần nào đó có vẻ như đang trông coi... một việc gì đó, hắn vội vã nói thêm, “Ít ra là trông anh có vẻ trẻ lắm. Ý tôi là, tôi không biết công việc này như thế nào, và—”

“Cảm ơn anh,” Hugo nói, miệng nhoẻn cười như thể thấy vẻ muộn phiền của Wallace thật thú vị.

“Ôi trời,” Nelson càu nhàu, cầm tách của mình lên và húp trà qua mép tách. “Giờ nó đã là ông già rồi. Có thể không già bằng ta, nhưng cũng gần tới rồi.”

“Cháu mới ba mươi mà,” Hugo tỉnh khô nói. Anh ra hiệu về phía tách trà trên bàn trước mặt Wallace. “Uống đi nào. Trà ngon nhất khi còn nóng đấy.”

Wallace săm soi tách trà. Có vài mẩu gì đó nổi lềnh bềnh phía trên. Hắn không chắc liệu mình có muốn uống không, nhưng Hugo đang sát sao theo dõi hắn. Nước trà có vẻ như không làm hại Mei hay Nelson, nên Wallace thật cẩn thận nâng tách, đưa lên sát mặt. Mùi bạc hà nồng nàn, và mắt Wallace tự động khép lại. Hắn nghe được tiếng chiếc đuôi của Apollo đập lên sàn, tiếng khung nhà vào vị trí, nhưng sàn và tường lùi ra xa, mái nhà bay lên trời, và hắn, hắn đang, đang—

Hắn mở mắt.

Hắn đang ở nhà.

Không phải ngôi nhà hiện giờ của hắn, không phải căn hộ cao ốc với nội thất nhập khẩu, mảng tường đỏ làm điểm nhấn mà hắn tính tới việc sơn lại và những khung cửa sổ cố định khổng lồ nhìn ra một thành phố đầy sắt thép cùng gương kính.

Đây là ngôi nhà thời thơ ấu của hắn, ngôi nhà có cầu thang cọt kẹt và bình nóng lạnh không bao giờ có đủ nước nóng. Hắn đứng ở ngưỡng cửa dẫn vào bếp, tiếng hát của Bing Crosby vang lên từ chiếc đài phát thanh cũ, nói với những người nghe được lời ông rằng chúc bạn một Giáng Sinh nho nhỏ vui tươi.

“Từ giờ tới đó,” mẹ hắn vừa ngân nga vừa xoay vòng ngang qua bếp, “chúng ta sẽ phải cố cho qua ngày thôi.”

Ngoài trời tuyết đang rơi, và những dây hoa giăng ngang đỉnh tủ và ngang bệ lò sưởi. Mẹ hắn bật cười một mình khi lò nướng kêu vang. Bà lấy cái găng cách nhiệt có in hình người tuyết từ trên mặt bếp. Bà mở cửa lò, bản lề kêu cót két, và lấy ra một khay kẹo que nhà làm. Đó là món đặc biệt của bà, một công thức bà học được từ mẹ mình, một bà cụ Ba Lan thấp bé chắc nịch hay gọi Wallace là pociecha[1]. Mùi bạc hà ngập tràn căn bếp.

Mẹ hắn ngẩng lên nhìn hắn đứng nơi khung cửa, hắn mười tuổi và đồng thời đã bốn mươi tuổi, mặc quần chạy bộ và đi dép xỏ ngón, nhưng cũng mặc bộ đồ ngủ vải flannel, đầu tóc tổ quạ, những ngón chân trần trụi trên nền nhà lạnh lẽo. “Xem này,” bà nói, khoe chỗ kẹo que với hắn. “Mẹ nghĩ đây là mẻ đẹp nhất từ trước tới nay. Chắc mamusia[2] sẽ tự hào lắm đây.”

Wallace không nghĩ vậy. Bà ngoại hắn là một người phụ nữ đáng sợ với miệng lưỡi sắc bén và những câu chửi thẳng thừng. Bà qua đời trong viện dưỡng lão. Wallace đã thấy vừa buồn vừa nhẹ nhõm, dù hắn giữ kín suy nghĩ ấy trong lòng.

Hắn bước một bước về phía mẹ, cùng lúc cảm nhận được hơi ấm từ nước trà lan tỏa khi trôi xuống họng và yên vị trong bụng hắn. Trà có vị như mùi kẹo que, và hương vị ấy quá choáng ngợp, quá mâu thuẫn, vì nó không thể nào là thực. Vậy nhưng hắn nếm được vị kẹo que của mẹ như thể bà thật sự đang ở đây, và hắn gọi, “Mẹ ơi?” nhưng bà không trả lời, thay vào đó ngân nga theo khi giai điệu từ Bing Crosby chuyển sang Ol’ Blue Eyes.

Hắn chậm rãi chớp mắt.

Hắn đang ở trong bếp, trong căn nhà thờ thơi ấu.

Hắn đang ở trong tiệm trà, rời xa khỏi mọi thứ mình quen thuộc.

Hắn nói, “Mẹ ơi, con—” và tim hắn nhói lên, cơn đau bén ngọt khiến hắn hừ thành tiếng. Mẹ hắn đã mất rồi. Phút trước bà còn ở đó, phút sau đã mất, cha hắn cộc cằn thông báo qua điện thoại, nói với hắn rằng việc ấy đã xảy ra chóng vánh, rằng tới khi họ phát hiện ra, thì đã quá muộn rồi. Đã di căn tới phổi, sau này một trong mấy người họ hàng kể với hắn là vậy. Bà đã không muốn Wallace biết, đặc biệt là khi họ đã không nói chuyện với nhau gần một năm rồi. Hắn đã vô cùng tức giận với bà vì điều ấy. Vì mọi chuyện.

Nước trà có vị như thế đó.

Ký ức.

Mái ấm.

Tuổi thơ.

Phản bội.

Đắng cay, ngọt ngào, và ấm áp.

Wallace chớp mặt, và nhận ra mình vẫn đang trong tiệm trà, cái tách run lên trong tay. Hắn đặt nó xuống quầy trước khi nước trà trào ra thêm.

Hugo nói, “Anh có thắc mắc, nhỉ.”

Bằng giọng run rẩy, Wallace trả lời, “Đó có lẽ là lời nói giảm nói tránh trầm trọng nhất mà miệng lưỡi loài người từng phát âm ra.”

“Anh ta thường hay cường điệu hóa vấn đề,” Mei nói với Hugo, như thể như vậy là giải thích được mọi chuyện.

Hugo nhấc tách trà của mình lên, trông cái tách như đồ chơi trẻ con trong tay anh. Anh nâng nó lên môi và nhấp một ngụm. Chân mày anh cau lại trong chốc lát rồi giãn ra. “Tôi sẽ trả lời hết mức có thể, nhưng tôi không biết hết mọi chuyện đâu.”

“Anh không biết ư?”

Hugo lắc đầu. “Dĩ nhiên là không rồi. Làm sao tôi biết hết được?”

Quá sốt ruột, nên Wallace cáu kinh, “Thế thì tôi sẽ đơn giản hóa chuyện này hết mức có thể. Tại sao tôi lại ở đây? Tất cả những việc này là nhằm mục đích?”

Mei bật cười. “Anh gọi đấy là đơn giản à? Được lắm, anh bạn. Tôi thấy ấn tượng đấy.”

“Anh ở đây vì anh đã chết,” Hugo nói. “Về phần câu hỏi kia, tôi không biết liệu mình có thể trả lời cho anh không, ít ra là không ở quy mô như ý anh. Tôi nghĩ là chẳng ai trả lời được một cách đầy đủ cả.”

“Vậy thì anh làm được cái tích sự gì?” hắn hạch hỏi.

Hugo gật đầu. “Câu này thì tôi trả lời được. Tôi là Người lái đò.”

“Cháu có bảo với anh ta rồi,” Mei thì thầm với Nelson.

“Khó mà ghi nhớ được thông tin ngay sau khi chết,” Nelson thì thầm lại. “Chúng ta sẽ cho cậu ta thêm chút thời gian vậy.”

“Và Người lái đò làm những gì?” Wallace hỏi. “Anh là người duy nhất à?”

Hugo lắc đầu. “Có nhiều Người lái đò. Những người... chà. Những người được trao cho một công việc. Giúp những người giống như anh. Giải thích những gì anh cảm nhận vào lúc này.”

“Tôi đã có bác sĩ tâm lý rồi,” Wallace cáu kỉnh. “Ông ta làm việc tôi trả tiền cho ông ta để làm, và tôi không có gì để phàn nàn cả.”

“Thật à,” Mei nói, “Không phân nàn gì à. Không một tiếng nào luôn.”

“Mei,” Hugo lại cảnh cáo.

“Được rồi, được rồi,” cô lầm bầm. Cô uống trà của mình. Mắt cô hơi trợn lên rồi cô uống hết chỗ trà bằng ba ngụm lớn.

“Ôi quỷ thần ơi, trà ngon quá.” Cô ngẩng lên nhìn Wallace. “Hờ. Tôi không ngờ anh lại như vậy đấy. Chúc mừng anh.”

Wallace không biết cô ta lại lảm nhảm cái gì và cũng không thèm hỏi. Lưỡi câu trên ngực hắn có cảm giác nặng nề hơn, và dù nó nhẹ nhàng giần giật, hắn bắt đầu thấy khó chịu trước cảm giác ấy. “Tôi đang ở trên núi.”

“Đúng vậy,” Hugo công nhận.

“Gần thành phố không có núi.”

“Không có.”

“Tức là chúng tôi đã đi khá xa.”

“Phải rồi.”

“Anh là Người lái đò cho tất cả mọi người ư?” Wallace hỏi. “Sao có thể thế được? Lúc nào mà chẳng có người chết. Hàng trăm. Hàng nghìn người. Lẽ ra ở đây phải có nhiều người hơn. Tại sao ngoài cửa chẳng có hàng người nào?”

“Phần lớn những người trong thành phố tới chỗ cô lái đò trong thành phố,” Hugo nói, và Wallace thấy bất an khi anh dường như đang cẩn thận lựa lời đến vậy. “Đôi khi, họ bị chuyển tiếp tới tôi.”

“Quá tải à.”

“Kiểu kiểu vậy,” Hugo nói. “Thành thật mà nói, không phải lúc nào tôi cũng biết tại sao người như anh được gửi tới chỗ tôi. Nhưng việc của tôi không phải là đặt câu hỏi tại sao. Anh đang ở đây, và đó là tất cả những gì quan trọng.”

Wallace há hốc miệng nhìn anh. “Anh không hỏi tại sao ư? Tại sao lại không chứ?” Những câu hỏi tại sao trong nhiều vấn đề là chuyên môn của Wallace. Chúng dẫn tới sự thật mà vài người cố gắng giấu giếm. Hắn nhìn Mei, cô cười toe toét với hắn. Bên này chẳng giúp được gì. Tuy vậy, vẫn còn Nelson. Nelson cũng cùng hội cùng thuyền với hắn. Có lẽ ông cụ giúp được gì đó. “Nelson, cụ—”

“Ồ không,” Nelson nói, nhìn xuống cổ tay trống không của mình. “Nhìn đồng hồ mà xem. Ta tin là lẽ ra ta đang phải ngồi trên ghế trước lò sưởi kìa.” Ông cụ lệt xệt đi về phía lò sưởi, cả người tựa lên gậy. Apollo bám theo ông, dù chú chó ngoái lại liếc Hugo như thể để đảm bảo rằng anh vẫn đang đứng yên ở chỗ cũ.

Phản ứng này rõ ràng không khiến Wallace thấy vui vẻ hơn chút nào. “Ai đó phải cho tôi câu trả lời đi trước khi tôi...” Hắn không biết phải nói tiếp ra sao.

Hugo đưa tay gãi gáy. “Nghe này, Wallace— tôi gọi anh là Wallace được chứ?” Rồi, không đợi câu trả lời, “Wallace, cái chết... phức tạp lắm. Tôi còn không tưởng tượng được những gì đang diễn ra trong đầu anh ngay lúc này. Việc này khác nhau đối với từng người. Không ai giống ai, dù là khi còn sống hay đã chết. Anh muốn kể lể và nổi cơn tam bành và đe dọa. Tôi hiểu mà. Anh muốn mặc cả, muốn thỏa thuận. Tôi cũng hiểu. Và anh có thể nói bất kỳ điều gì anh muốn ở đây, nếu làm vậy khiến anh thấy thoải mái hơn. Sẽ không có ai phán xét anh đâu.”

“Ít nhất là có cũng sẽ không nói ra,” Nelson nói từ trên ghế.

“Anh bị đau tim,” Hugo khẽ nói. “Việc ấy xảy ra đột ngột. Anh chẳng làm được gì để ngăn việc ấy lại đâu. Đó không phải là lỗi của anh.”

“Tôi biết,” Wallace cấm cảu. “Tôi có làm gì nên tội đâu.” Hắn khựng lại. “Đợi đã, làm sao anh biết tôi...” Hắn không thể nói cho hết câu.

“Tôi biết vài việc,” Hugo nói. “Hoặc, đúng hơn là, tôi được cho thấy vài sự việc. Đôi khi chúng... mơ hồ. Chỉ có bóng dáng thôi. Có đôi khi thì rõ mồn một, dù hiếm khi như vậy. Tôi đã thấy rõ chuyện của anh.”

“Tôi mong là thế,” Wallace cứng nhắc nói. “Như vậy khiến chuyện này dễ dàng hơn, vì tôi không biết mình có thể trình bày rõ ràng hơn tới mức nào nữa. Đưa tôi về đi.”

“Tôi không làm được.”

“Vậy thì tìm cho tôi ai đó làm được đi.”

“Tôi cũng không làm vậy được. Cuộc đời không diễn ra như vậy, Wallace ạ. Nước sông chỉ chảy xuôi dòng mà thôi.”

Wallace gật đầu, điên cuồng suy tính. Rõ ràng là không ai nghe hắn nói. Hắn sẽ không tìm được sự trợ giúp nào ở đây. “Vậy thì tôi chúc anh một ngày tốt lành, và yêu cầu anh đưa tôi về lại thành phố. Nếu anh không giúp được tôi, tôi sẽ tự mình tìm cách vậy.” Hắn không biết chính xác mình sẽ làm thế nào, nhưng làm gì cũng tốt hơn là ở đây và chẳng nghe được gì ngoài ba con người đần độn này nói vòng vo.

Hugo lắc đầu. “Anh không đi được.”

Wallace nheo mắt. “Anh đang nói là tôi bị giam giữ ở đây ư? Giữ tôi lại dù tôi không muốn ư? Đó là bắt cóc. Tôi sẽ đảm bảo rằng các người bị khởi kiện vì việc này, đừng nghĩ là tôi không dám.”

Hugo nói. “Anh đang đứng đấy.”

“Sao cơ?”

Hugo hất cằm về phía sàn. “Anh có cảm nhận được sàn nhà dưới chân mình không?”

Wallace co duỗi ngón chân. Qua đôi dép xỏ ngón mỏng tang, rẻ tiền, hắn cảm nhận được sàn gỗ áp dưới lòng bàn chân mình. “Có.”

Hugo cầm một cái thìa lên khỏi khay và đặt xuống quầy. “Nhặt cái thìa này lên đi.”

“Tại sao?”

“Vì tôi nhờ anh. Xin anh đấy.”

Wallace không muốn. Hắn chẳng thấy được nghĩa lý gì trong việc này. Nhưng thay vì cự cãi, hắn bước trở lại bên quầy. Hắn nhìn chằm chằm cái thìa. Một vật bé nhỏ biết bao. Cán thìa được chạm khắc hình những bông hoa. Hắn đưa tay xuống nhặt nó lên. Tay hắn run rẩy khi những ngón tay khép lại quanh cán thìa, và hắn nhấc nó lên.

“Tốt,” Hugo nói. “Giờ đặt nó xuống.”

Khẽ càu nhàu, hắn làm theo lời anh. “Giờ thì sao?”

Hugo nhìn hắn. “Anh là một hồn ma, Wallace ạ. Anh đã chết rồi. Nhặt cái thìa lên lại đi.”

Hắn đảo mắt, định bụng làm đúng như vậy. Có điều lần này, tay hắn xuyên thẳng qua cái thìa. Không chỉ có vậy, tay hắn xuyên vào trong quầy. Có thứ cảm giác râm ran châm chích lạ lùng lan tỏa trên da thịt, và hắn thảng thốt rồi rụt tay lại như thể bị bỏng. Những ngón tay của hắn vẫn còn nguyên, cảm giác râm ran đã dần tan biến. Hắn thử lại lần nữa. Rồi lần nữa. Rồi một lần nữa. Mỗi lần tay hắn đều xuyên qua cái thìa và vào trong quầy.

Hugo vươn tay về phía tay Wallace, nhưng dừng lại ở phía trên, đặt hờ lên mà không tới gần hơn. “Lần đầu tiên, anh làm được là vì anh đã luôn có khả năng ấy. Anh cho rằng mình sẽ làm được vì với anh việc ấy luôn là như vậy. Nhưng rồi tôi nhắc anh rằng anh đã qua đời, và anh không chạm vào cái thìa được nữa. Mong đợi của anh đã thay đổi. Lẽ ra anh nên buông bỏ mong đợi của mình.” Anh gõ gõ lên thái dương. “Mọi việc nằm ở cái đầu và cách anh tập trung sử dụng nó.”

Wallace bắt đầu hoảng loạn, họng nghẹn lại, tay run rẩy. “Như vậy chẳng có lý chút nào!”

“Đó là bởi vì cả đời anh đã được định hình để suy nghĩ theo một chiều. Giờ mọi chuyện đã khác rồi.”

“Đấy là anh nói vậy.” Hắn lại đưa tay lấy thìa nhưng giật nảy lên khi nó lại đi xuyên qua lần nữa. Tay hắn vướng vào tách trà, khiến cái tách đổ nhào. Nước trà tràn ra mặt quầy. Hắn lảo đảo lùi lại, mắt trợn trừng, răng nghiến chặt. “Tôi... tôi không ở đây được. Tôi muốn về nhà. Đưa tôi về nhà đi.”

Hugo vừa cau mày vừa vòng qua quầy, sàn gỗ cọt kẹt dưới sức nặng đáng kể của anh. “Wallace, anh phải bình tĩnh lại, được không? Hít thở nào.”

“Đừng có bảo tôi bình tĩnh lại!” Wallace hét lên. “Và nếu tôi chết rồi, tại sao anh lại bảo tôi hít thở? Việc đó là bất khả thi.”

“Anh ta có lý đấy,” Mei lên tiếng khi đã uống hết tách trà thứ hai.

Hugo cứ tiến một bước về phía hắn, là Wallace lùi một bước đáp trả. Nelson ngó qua thành ghế, một tay đặt trên đầu Apollo. Chiếc đuôi chó đập đập, điểm từng giây như máy đánh nhịp.

“Lùi lại,” hắn gắt lên với Hugo.

Hugo giơ hai tay lên vẻ xoa dịu. “Tôi sẽ không làm hại anh đâu.”

“Tôi không tin anh. Đừng tới gần tôi. Tôi sẽ đi, và anh không làm được gì để cản tôi đâu.”

“Ôi không,” Mei thì thầm. Cô đặt tách trà xuống và nhìn Wallace chằm chằm. “Đó tuyệt đối không phải là một ý hay đâu. Wallace, anh không được—”

“Đừng hòng cấm đoán tôi!” hắn quát cô, và bóng đèn của một trong mấy cái đèn tường kêu xèo xèo và tắt lịm, rồi chụp thủy tinh vỡ tan tành. Đầu Wallace quay ngoắt về phía đó.

“Thôi xong,” Nelson thì thầm.

Wallace xoay người bỏ chạy.

Chú thích:

[1] Pociecha (tiếng Ba Lan): niềm an ủi bé nhỏ.

[2] Mamusia (tiếng Ba Lan): mẹ.