← Quay lại trang sách

Chương 4

Hắn tưởng tượng bên trong ngôi nhà trông cũng như bên ngoài, là một tổ hợp những yếu tố kiến trúc khả ố phù hợp để san phẳng hơn là cư ngụ.

Hắn đã không phải thất vọng.

Anh sáng mù mờ, tới từ những chụp đèn không đồng bộ bắt vít lên tường, và một ngọn nến khổng lồ quá đáng đặt trên một chiếc bàn nhỏ gần cửa. Cây cảnh đặt trong những giỏ mây treo thả từ trần vòm, và dù không có cây nào đang ra hoa nhưng mùi hương của chúng gần như nồng nặc, hòa vào mùi gia vị mạnh dường như đã ngấm vào mọi bước tường. Những dây leo thả mình xuống sàn, khẽ đu đưa trong gió nhẹ thổi vào từ cửa sổ để mở trên mặt tường đằng xa. Hắn vươn tay ra chạm vào một dây leo, tự nhiên da diết muốn cảm nhận những phiến lá kia trên da mình, nhưng đến giây cuối lại rụt tay về. Hắn ngửi được mùi đám cây, nên hắn biết chúng có ở đây kể cả khi mắt hắn gặp ảo giác. Và Mei có thể chạm vào hắn, thật ra hắn vẫn còn cảm nhận được những ngón tay của cô lưu luyến trên da mình, nhưng nhỡ đâu tất cả chỉ có vậy? Wallace chưa bao giờ là một người nhàn rỗi, hay như người ta nói, là thưởng trà ngắm hoa. Khi ấy, chính là nghi hoặc, nỗi nghi hoặc dâng lên trong hắn, trèo lên vai và ghì hắn xuống, những ngón tay bấu vào hắn như móng vuốt.

Một tá bàn đặt giữa căn phòng lớn, mặt bàn bóng láng như thể vừa được lau sạch. Những chiếc ghế xếp sát bên bàn đều cũ kỹ và mòn vẹt, dù không xập xệ. Chúng cũng cọc cạch, vài cái có mặt và lưng gỗ, những cái khác lại bọc đệm dày và bạc màu. Hắn còn thấy một cái ghế vành tròn ở trong góc. Hắn chưa từng thấy kiểu ghế ấy từ khi còn bé.

Hắn hầu như không nghe thấy tiếng Mei đóng cửa lại sau lưng. Hắn bị những bức tường trong phòng hấp dẫn, hai chân tự động đưa hắn về phía đó. Mặt tường phủ đầy ảnh chụp và áp phích, có vài cái được đóng khung, vài cái được ghim lên bằng đinh bấm. Chúng đang kể chuyện, hắn thầm nghĩ, nhưng là một câu chuyện hắn không theo nổi. Này là ảnh một thác nước, những tia nước bắt nắng tỏa vạn hoa cầu vồng. Này là hình chụp một hòn đảo giữa mặt biển xanh thẳm, cây cối dày đặc tới nỗi hắn không thấy được nền đất. Này là một mảng tranh tường khổng lồ hình kim tự tháp, vẽ nên bởi một bàn tay khéo léo nhưng non trẻ. Này là ảnh chụp một lâu đài trên vách đá, tường đá vỡ vụn và phủ đầy rêu phong. Này là một tấm áp phích đóng khung, in hình ngọn núi lửa vươn mình qua mây trắng, dung nham phun trào thành từng vòng cung nóng bỏng. Này là bức tranh vẽ một thị trấn giữa mùa đông khắc nghiệt, ánh đèn rực rỡ, gần như là long lanh, hắt lên từ mặt tuyết không chút tì vết. Thật lạ làm sao, chúng đều khiến họng Wallace nghẹn lại. Hắn chưa từng có thời gian đến thăm những nơi ấy, và giờ, hắn không bao giờ đi đâu được nữa.

Lắc đầu, hắn đi tiếp, nhìn cái lò sưởi chiếm hết nửa mặt tường bên tay phải, những khúc củi xê dịch khi than hồng bắn ra những tia lửa. Nền lò sưởi làm bằng đá trắng, bệ lò sưởi bằng gỗ sồi. Trên bệ lò sưởi là những thứ đồ nhỏ linh tinh: một con sói tạc từ đá, một quả thông, một bông hồng khô, một cái giỏ đầy đá cuội trắng. Phía trên lò sưởi treo một chiếc đồng hồ, nhưng có vẻ như đã hỏng. Kim phút giật giật, nhưng không hề quay. Một chiếc ghế lưng cao đặt trước lò sưởi, một tấm chăn dày vắt trên tay vịn. Khung cảnh này trông thật... dễ chịu.

Wallace quay sang trái và thấy một bàn quầy có máy thu ngân và một tủ trưng bày trống không, đang tắt đèn, những tấm biển viết tay dán trên mặt kính quảng cáo một tá các loại bánh khác nhau. Chai lọ xếp dọc mặt tường sau quầy. Vài lọ chứa những phiến lá mỏng, những lọ khác chứa bột đủ màu. Những nhãn mác viết tay đặt trước mỗi lọ, mô tả thậm chí còn nhiều loại trà hơn.

Một tấm bảng phấn to treo trên tường trên đầu chỗ chai lọ, cạnh khung cửa đôi hai chiều, trên hai cánh đều có ô kính. Ai đó đã vẽ những hình hươu nai, sóc và chim nhỏ lên bảng bằng phấn xanh lục và lam, xung quanh một thực đơn như kéo dài bất tận. Trà xanh và trà thảo mộc, hồng trà và ô long. Bạch trà, hoàng trà, trà lên men. Sencha, hoa hồng, yerba, senna, rooibos, trà nấm chaga, trà hoa cúc. Râm bụt, essiac, matcha, moringa, phổ nhĩ, tầm ma, bồ công anh... và hắn nhớ đến nghĩa trang nơi Mei đã nhổ một bông bồ công anh khỏi mặt đất rồi thổi, một cụm mây trắng nho nhỏ trôi theo gió.

Những cái tên này đều được in lên quanh một thông điệp ở chính giữa bảng. Những dòng chữ, viết theo kiểu đầu nhọn và in nghiêng, ghi rằng:

Một tách còn người dưng

Hai tách là khách quý

Ba tách thành người thân.

Toàn bộ nơi này có cảm giác như một giấc mộng hoang đường. Quán trà này không thể là thực. Nó quá... sao đó, như thế nào đó mà Wallace không thể xác định được. Hắn dừng lại trước tủ kính, nhìn chằm chằm vào thông điệp trên bảng phấn, không thể rời mắt.

Không thể là thực, đấy là tới khi có con chó phóng ra từ một bên tường.

Hắn vừa ré lên vừa lảo đảo lùi lại, không tin nổi vào mắt mình. Một con chó, một chú chó săn đen thui khổng lồ có mảng lông trắng trước ngực trông na ná hình ngôi sao, hối hả chạy về phía hắn, sủa inh ỏi. Vừa điên cuồng vẫy đuồi, nó vừa chạy vòng quanh Mei, mông ngoáy qua lại trong khi cọ mình lên cô.

“Ai là em bé ngoan nào?” Mei xuýt xoa bằng tông giọng mà Wallace ghét cay ghét đắng. “Ai là em bé ngoan nhất quả đất nào? Phải chú mày không nhỉ? Tao nghĩ đúng là chú mày rồi.”

Chú chó, có vẻ như đồng ý rằng nó là em bé ngoan nhất quả đất, vui sướng sủa lên. Hai tai nó to và nhọn, dù tai trái rủ gập xuống. Nó lăn đùng xuống trước mặt Mei, nằm ngửa ra, chân quẫy đạp khi Mei quỳ xuống - dường như không thèm quan tâm việc mình đang mặc âu phục, khiến Wallace khiếp đảm - hai tay xoa bụng nó. Chú chó thè lưỡi ra khi nhìn sang Wallace. Nó lật sấp lại và đứng dậy, lắc mình.

Và rồi nhảy bổ lên Wallace.

Hắn gần như không kịp đưa tay lên trước khi con vật đâm sầm vào mình, khiến hắn ngã ngửa. Hắn đáp đất bằng lưng, cố che chắn mặt mình khỏi cái lưỡi ướt đẫm, điên cuồng liếm hết những mảng da trần mà nó lần ra được.

“Cứu tôi với!” Hắn hét lên. “Nó đang cố giết tôi này!”

“Ờ,” Mei nói. “Đó hoàn toàn không phải việc nó đang làm đâu. Apollo không giết người. Nó yêu người.” Cô cau mày. “Yêu lắm luôn, có vẻ là vậy. Apollo, không được! Không được nhảy lên người ta.”

Và rồi Wallace nghe thấy tiếng khúc khích khô khốc, già cỗi, theo sau bởi một giọng trầm, khàn đục. “Không mấy khi thấy nó hào hứng đến vậy. Ta tự hỏi tại sao vậy nhỉ?”

Wallace chưa kịp chú ý tới giọng nói ấy thì con chó đã nhảy khỏi người hắn và phóng về phía cửa đôi sau quầy. Nhưng thay vì đẩy mở, nó chạy xuyên qua đó, hai cánh cửa vẫn bất động. Wallace ngồi dậy đúng lúc thấy chóp đuôi nó biến mất. Sợi cáp từ ngực hắn quấn vòng qua quầy, và hắn không thấy được nó dẫn tới đâu.

“Cái thứ quỷ gì vậy?” Hắn hỏi, nghe tiếng chó sủa ở đâu đó trong nhà.

“Đó là Apollo,” Mei nói.

“Nhưng— nó— nó đi xuyên tường.”

Mei nhún vai. “Chà, chắc chắn rồi. Giống như anh, nó đã chết rồi.”

“Cái gì cơ?”

“Cháu có một đối tượng nhanh trí đấy,” cái giọng khàn khàn kia lại cất lên, và Wallace quay đầu về phía lò sưởi. Hắn ré lên khi thấy một ông già đang thò đầu ra ở bên hông ghế lưng cao. Trông ông cụ già lụ khụ, lớp da tối màu nhăn nheo hết cỡ. Ông cười toe toét, bộ răng chắc khỏe phản chiếu ánh lửa. Cặp lông mày của ông to và rậm, bộ tóc afro[1] bạc trắng mọc trên đầu trông như một đám mây bông. Ông bập môi rồi lại khúc khích. “Làm tốt lắm, Mei. Ta biết cháu làm được mà.”

Mei đỏ mặt, di di mũi chân. “Cháu cảm ơn ạ. Ban đầu công việc có chút rắc rối, nhưng cháu đã giải quyết hết rồi.” Cô liếc Wallace, hắn vẫn đang lắp bắp về con chó ma tấn công tình dục và những ông cụ hiện ra từ hư không. “Cháu nghĩ là vậy.”

Ông già chống tay đứng dậy khỏi ghế. Ông thấp bé và có hơi gù. Nếu ông đi được quá một mét, Wallace sẽ thấy kinh ngạc. Ông mặc bộ đồ ngủ vải flannel và xỏ một đôi dép lê cũ. Một chiếc gậy tựa vào hông ghế. Ông cụ túm lấy gậy và lệt xệt tiến tới. Ông dừng lại cạnh Mei, nheo mắt nhìn Wallace trên sàn. Ông gõ gõ đầu gậy lên mắt cá chân Wallace. “À,” ông nói. “Ta thấy rồi.”

Wallace không hề muốn biết ông đã thấy gì. Lẽ ra hắn không bao giờ nên theo Mei vào trong quán trà.

Ông cụ nói, “Có hơi nhát, nhỉ?” Ông lại gõ gậy vào chân Wallace.

Wallace gạt phắt cây gậy ra. “Cụ có thôi đi không!”

Ông cụ không ngừng lại. Thật ra, ông còn gõ thêm lần nữa. “Đang thử chứng minh một việc mà thôi.”

“Cụ đang—” Và rồi Wallace nhận ra. Đây hẳn phải là Hugo, người mà Mei đưa hắn tới để gặp mặt. Người đàn ông không phải Chúa trời, nhưng là nhân vật cô gọi là Người lái đò. Wallace không biết mình đã trông đợi điều gì; có lẽ là một người đàn ông mặc áo choàng trắng với bộ râu dài thướt tha, vây quanh là ánh sáng chói lòa, cầm trượng gỗ thay vì gậy mây. Ông cụ này trông ít nhất phải hàng nghìn năm tuổi. Quanh ông là một bầu không khí, là gì đó mà Wallace không xác định được. Khá là... trấn an tinh thần? Hoặc gần với trấn an đến nỗi chút khác biệt chẳng quan trọng gì. Có lẽ đây là một phần của quy trình, cái mà Mei đã gọi là chuyển kiếp. Wallace không hiểu tại sao hắn phải bị đánh bằng gậy mây, nhưng nếu Hugo thấy việc này là cần thiết, thì có lẽ Wallace cứ nên chịu đánh đi thôi.

Ông cụ thu cây gậy về. “Giờ cậu đã hiểu chưa?”

Không, hắn thật sự không hiểu. “Tôi nghĩ là rồi.”

Hugo gật đầu. “Tốt. Dậy, dậy nào. Không nên nằm trên sàn thế. Ở đây gió máy. Không muốn cậu trúng gió ngủm đâu.” Ông cụ cười khành khạch như thể đó là câu nói hài hước nhất trên đời.

Wallace cũng cười, dù vô cùng gượng ép. “Ha ha, phải rồi. Nói vậy thật... là điên. Tôi hiểu rồi. Đùa. Cụ biết đùa.”

Mắt Hugo lấp lánh nước mắt không thèm che đậy. “Tiếng cười giúp ta thấy khá khẩm hơn, kể cả khi ta không cảm thấy muốn cười. Chúng ta không thể buồn khi đang cười được. Gần như là vậy.”

Wallace chậm rãi đứng dậy, cảnh giác nhìn hai người trước mặt hắn. Hắn phủi quần áo, thầm biết trông mình ngớ ngẩn đến thế nào. Hắn đứng thẳng dậy, ưỡn ngực căng vai. Khi còn sống, hắn từng là một người trông đáng gờm. Hắn đã chết không có nghĩa là hắn sẽ để mình bị nắm mũi dắt đi.

Hắn nói, “Tên tôi là Wallace—”

Ông cụ nói, “Một cậu chàng cao kều, phải không nào?”

Wallace chớp mắt. “Ờ, tôi... nghĩ vậy?”

Ông gật đầu. “Phòng khi cậu không biết thôi. Thời tiết trên ấy thế nào?”

Wallace nhìn xuống ông cụ. “Gì cơ.”

Mei lấy tay che miệng, nhưng Wallace đã kịp thấy nụ cười nở ra.

Ông cụ (Hugo? Chúa trời?) lệt xệt đi tới, lại gõ gậy lên chân Wallace trong khi đi vòng quanh anh. “Ừ hử. Được rồi. Ta thấy rồi. Thế thì. Phải rồi. Chúng ta có thể xử lý ca này, ta nghĩ vậy.” Hugo vươn tay lên véo sườn Wallace. Wallace kêu lên, đánh bật tay ông ta. Ông cụ vừa lắc đầu vừa đi hết một vòng, rồi lại về đứng cạnh Mei, tựa lên cây gậy. “Người ta giao cháu ca đầu hàng khủng đấy, Mei ạ.”

“Đúng vậy nhỉ? Nhưng cháu nghĩ anh ấy đang dần hiểu cháu rồi.” Cô cau mày liếc Wallace. “Có lẽ vậy.”

“Cô chẳng làm được cái gì cả,” Wallace cấm cảu.

Hugo gật đầu. “Ca này sẽ gây rắc rối cho ta đây. Cứ chờ mà xem.” Ông cười toe toét, những nếp nhăn quanh mắt sâu hoắm xuống. “Ta thích mấy đứa gây rối. Chúng thường là những kiểu người thú vị nhất đấy.”

Wallace xù lông. “Tên tôi là Wallace Price. Tôi là luật sư từ...

Hugo lờ hắn đi, nhìn Mei mỉm cười. “Chuyến đi thế nào, cháu yêu? Có hơi lạc đường, phải không?”

“Dạ,” Mei nói. “Thế giới rộng lớn hơn trong trí nhớ của cháu, đặc biệt là khi đi một mình.”

“Thường là vậy,” Hugo nói. “Đó là cái đẹp của nó. Nhưng giờ cháu về nhà rồi, nên đừng lo. Mong là cháu sẽ không bị sai đi làm việc tiếp ngay lập tức.”

Mei vừa gật đầu vừa vươn vai, sống lưng kêu răng rắc. “Không đâu bằng ở nhà mà.”

Wallace thử lại. “Người ta bảo tôi là tôi chết vì đau tim. Tôi muốn đệ đơn khiếu nại, vì—”

“Cậu ta thích nghi tốt với việc mình đã chết đấy,” ông nói, săm soi Wallace từ đầu tới chân. “Thường thì họ la hét, quát tháo và đe dọa. Ta thích nhất là khi họ dọa nạt chúng ta.”

“Ồ, anh ấy cũng có lúc nọ lúc kia,” Mei nói. “Nhưng tổng thể mà nói, thì không tệ lắm đâu ạ. Đoán xem cháu tìm thấy anh ấy ở đâu nào?”

Hugo săm soi Wallace từ đầu đến chân. Rồi, “Ở nơi cậu ta chết. Không, đợi đã. Ở nhà, cố nghĩ xem tại sao cậu ta không làm được việc gì nên hồn.”

“Ở đám tang của anh ấy đấy,” Mei nói, và Wallace thấy bực mình vì giọng cô nghe hoan hỉ đến vậy.

“Không,” Hugo thì thào. “Thật ư?”

“Ngồi trên ghế băng và vân vân.”

“Úi chà,” Hugo nói. “Thế thì thật là mất mặt.”

“Tôi đang đứng ở ngay đây này,” Wallace gắt lên.

“Dĩ nhiên là cậu đang đứng đây rồi,” Hugo nói, không chút ác ý. “Nhưng cảm ơn vì đã tuyên bố vậy nhé.”

“Nghe này, Hugo, Mei nói cụ có thể giúp tôi. Cô ta nói mình phải dẫn tôi tới chỗ cụ vì cụ là Người lái đò, và cụ phải làm... việc gì đó. Thú thực là tôi không tập trung nghe đoạn đó cho lắm, nhưng chuyện đó chẳng liên quan. Tôi không biết các người đang làm phi vụ chợ đen gì ở đây, và tôi không biết ai thuyết phục các người làm vậy nhưng tôi thật sự không muốn chết nếu có thể. Tôi còn quá nhiều việc để làm, và cái việc này phiền phức đến khủng khiếp. Tôi còn có khách hàng. Tôi còn một vụ kiện đến cuối tuần là phải xong mà không thể trì hoãn được!” Hắn rên rỉ, suy nghĩ quay cuồng trong đầu. “Và tôi phải ra tòa vào thứ Sáu để dự một phiên tòa không thể bỏ lỡ được. Các người có biết tôi là ai không? Vì nếu có, thì các người sẽ biết tôi không có thời gian cho việc này. Tôi có nhiều trách nhiệm, đúng vậy, nhiều trách nhiệm rất đỗi quan trọng mà tôi không thể lờ đi được.”

“Dĩ nhiên ta biết cậu là ai,” Hugo tỉnh queo nói. “Cậu là Wallace mà.”

Cảm giác nhẹ nhõm hơn bất cứ sự nhẹ nhõm nào hắn từng cảm thấy trước kia tràn qua người hắn. Hắn đã tìm đến đúng người rồi. Mei, dù là ai— hay là cái gì đi nữa, có vẻ như chỉ là hạng tiểu tốt thôi. Một tay sai le ve. Hugo mới ở vị trí nắm quyền. Lúc nào, lúc nào cũng phải nói chuyện với quản lý để đạt được kết quả. “Tốt rồi. Vậy cụ sẽ hiểu rằng tình trạng này hoàn toàn không ổn. Nên nếu cụ có thể làm bất kỳ việc gì cần làm để giải quyết việc này, tôi sẽ vô cùng cảm kích.” Và rồi, chỉ vì hắn không thể tuyệt đối chắc chắn rằng ông cụ này không phải Chúa Trời, hắn nói thêm, “Xin cụ đấy. Cảm ơn cụ. Thưa ngài.”

“Hờ,” Hugo nói. “Ăn nói lộn xộn thế.”

“Anh ấy thường nói kiểu ấy,” Mei ồn ào thì thầm. “Có thể bởi vì anh ấy là luật sư.”

Ông cụ soi Wallace từ đầu tới chân. “Gọi ta là Hugo kìa. Cháu có nghe thấy không?”

“Có ạ,” Mei nói. “Có lẽ chúng ta nên—”

“Hugo Freeman, rất hân hạnh được phục vụ cậu.” Ông cúi người thấp hết mức có thể.

Mei thở dài. “Hoặc chúng ta có thể làm theo cách này vậy.”

Hugo cười khẩy. “Học cách vui vẻ một chút đi nào. Không phải lúc nào ta cũng phải tăm tối và ủ dột đâu. Giờ thì, chúng ta nói đến đâu rồi nhỉ? À, phải rồi. Ta là Hugo, và cậu đang bực bội vì mình đã chết, nhưng không phải vì bạn bè hay gia đình hay mấy chuyện vớ vẩn khác giống vậy, mà vì cậu còn việc phải giải quyết, và chuyện này thật phiền phức cho cậu.”

Ông ngừng lại, đăm chiêu. “Phiền phức đến khủng khiếp.”

Wallace nhẹ cả người. Hắn tưởng mình sẽ phải cãi vã vất vả hơn. Hắn hài lòng vì không phải dùng đến biện pháp đe đọa kiện tụng. “Chính xác. Chính xác là vậy.”

Hugo nhún vai. “Được thôi.”

“Thật không?” Hắn có thể quay lại văn phòng muộn nhất là vào chiều mai, có khi là ngày kia tùy vào việc cần bao lâu để đi về nhà. Hắn sẽ phải yêu cầu Mei đưa hắn về vì hắn không có ví tiền ở đây. Cùng lắm thì hắn sẽ gọi điện tới văn phòng và bảo thư ký mua vé máy bay cho hắn. Ừ thì, hắn không có bằng lái xe ở đây, nhưng chuyện vặt vãnh như vậy sẽ không cản được Wallace Price đâu. Biện pháp cuối cùng là hắn có thể bắt buýt, nhưng nếu có thể thì hắn muốn tránh làm vậy. Hắn có khối lượng công việc của gần một tuần để xử lý, nhưng đó là cái giá rất nhỏ để trả. Hắn sẽ phải tìm cách để giải thích toàn bộ vụ đám tang/quan tài để mở, nhưng hắn sẽ tìm ra thôi. Naomi sẽ thất vọng rằng cô ta không được hưởng gì từ tài sản của hắn, nhưng kệ mẹ cô ta. Ở đám tang cô ta xấu tính quá.

“Được rồi,” hắn nói. “Tôi sẵn sàng rồi, Chúng ta làm việc này như thế nào? Cụ có... tụng kinh hay gì không? Hiến tế một con dê?” Hắn nhăn mặt. “Tôi thật sự hy vọng rằng cụ không phải hiến tế dê. Tôi bị buồn nôn khi thấy máu.”

“May cho cậu đấy,” Hugo nói. “Bọn ta vừa hết dê rồi.”

Wallace thõng người. “Tuyệt vời. Tôi đã sẵn sàng để sống lại rồi. Tôi đã học được bài học rồi. Tôi hứa sẽ đối xử tốt hơn với người ta vân vân và vân vân.”

“Ta đang thấy sung sướng vô ngần đây.” Hugo nói. “Giơ hai tay lên trời.”

Wallace làm đúng như vậy.

“Giờ nhảy lên nhảy xuống.”

Wallace nhảy, sợi cáp tung lên hạ xuống trên sàn.

“Lặp lại lời ta: Tôi muốn sống.”

“Tôi muốn sống.”

Hugo thở dài. “Cậu phải thành tâm cơ. Phải thật sự để ta nghe thấy điều ấy. Phải khiến ta tin cậu.”

“Tôi muốn sống!” Wallace vừa hô to vừa nhảy lên nhảy xuống, tay giơ lên trên đầu. “Tôi muốn sống! Tôi muốn sống!”

“Đây rồi!” Hugo thốt lên. “Ta thấy được có gì đó đang xảy ra rồi. Nó đang tới thật này. Tiếp tục đi! Nhảy theo vòng tròn nào!”

“Tôi muốn sống!” Wallace vừa rống lên vừa nhảy theo vòng tròn. “Tôi muốn sống! Tôi muốn sống!”

“Và dừng lại. Dù có làm gì đi nữa, cũng đừng động đậy.”

Wallace đông cứng lại, trong khi hai tay giơ cao trên đầu, một bên chân nâng lên, dép xỏ ngón lủng lẳng trên bàn chân hắn. Hắn cảm nhận được rằng việc này đang có tác dụng. Hắn không biết tại sao, nhưng hắn cảm nhận được. Chẳng mấy chốc, tất cả sẽ kết thúc và hắn sẽ được sống lại.

Mắt Hugo trợn trừng. “Đứng yên như vậy tới khi ta bảo thôi. Thậm chí đừng chớp mắt nữa.”

Wallace không chớp mắt. Hắn đứng đúng như vậy. Hắn sẽ làm bất kỳ điều gì để khiến mọi thứ tốt đẹp trở lại.

Hugo gật đầu. “Tốt. Giờ, ta muốn cậu lại nói theo ta: tôi là một thằng ngốc.”

“Tôi là một thằng ngốc.”

“Và tôi đã chết rồi.”

“Và tôi đã chết rồi.”

“Và chẳng có cách nào để tôi sống lại vì thế giới này không vận hành như vậy.”

“Và chẳng có... sao cơ.”

Hugo cúi gập người, khò khè cười ra những tiếng chói tai. “Ôi. Ôi trời. Cậu nên nhìn vẻ mặt cậu đi. Thật là vô giá!”

Mi dưới mắt phải của Wallace giật giật khi hắn chậm rãi buông tay, đặt chân xuống lại sàn. “Sao cơ.”

“Cậu đã chết rồi,” Hugo kêu lên. “Cậu không sống lại được đâu. Chẳng có ai làm vậy được cả. Thật đấy.” Ông huých khuỷu tay vào mạn sườn Mei. “Cháu thấy chứ? Thật là một gã khờ. Ông thích cậu ta đấy. Thật tiếc khi phải tiễn cậu ta đi. Cậu ta hài hước đáo để.”

Mei liếc về phía hai cánh cửa. “Ông sẽ khiến chúng ta gặp rắc rối mất thôi, Nelson ơi.”

“Xì. Cái chết không phải lúc nào cũng buồn. Chúng ta phải học cách cười vào chính mình trước khi chúng ta—”

“Nelson à,” Wallace chậm rãi nói.

Ông cụ nhìn hắn. “Ừ?”

“Cô ta gọi cụ là Nelson.”

“Đấy là vì đó là tên ta.”

“Không phải Hugo.”

Nelson xua tay. “Hugo là cháu trai của ta.” Ông nheo mắt. “Và nếu biết điều thì cậu sẽ không kể với nó chuyện chúng ta vừa làm đâu.”

Wallace há hốc mồm nhìn ông. “Cụ... cụ nói thật đấy hả?”

“Thật như lên cơn đau tim vậy.” Nelson trả lời và Mei phát sặc. “Ối. Lỡ miệng rồi?”

Wallace tập tễnh bước một bước về phía ông cụ - để làm gì, hắn cũng không biết nữa. Hắn không nghĩ được gì, không thốt ra nổi một lời. Chân nọ đá chân kia, hắn bổ nhào về phía elson, mắt trợn trừng, âm thanh như tiếng cửa kẽo kẹt thốt ra từ họng hắn.

Nhưng hắn không đâm vào Nelson, vì Nelson đã biến mất, khiến Wallace thô bạo đáp đất, mặt úp xuống sàn.

Hắn ngẩng đầu lên đúng lúc để thấy Nelson hiện ra trong nháy mắt cách đó vài bước, ở gần lò sưởi. Ông cụ lúc lắc ngón tay với Wallace.

Wallace lật người lại, nhìn chằm chằm lên trần nhà. Ngực hắn phập phồng (thật khó chịu, cái việc ấy, vì tới lúc này phổi hắn không còn thật sự cần thiết nữa), và da hắn giật giật. “Ông đã chết rồi.”

“Chết ngắc,” Nelson nói. “Nhẹ cả người, thật đấy. Cơ thể già nua này đã xập xệ, và dù có cố đến đâu, ta cũng không thể khiến nó hoạt động như ta muốn nữa. Đôi khi, cái chết là một điều may mắn, cả khi chúng ta không ngay lập tức nhận ra là vậy.”

Đúng lúc ấy, một giọng nói khác vang lên, trầm và ấm, từng chữ nghe như thể chúng đầy sức nặng, và có ai đó giật mạnh lưỡi câu trên ngực Wallace. Việc ấy lẽ ra phải gây đau đớn. Hắn không thấy đau.

Hắn thấy gần như nhẹ nhõm.

“Ông ơi, ông lại đang gây rối đấy à?”

Wallace quay đầu về phía giọng nói.

Một người đàn ông to cao bước vào qua khung cửa hai cánh.

Wallace chậm rãi chớp mắt.

Người đàn ông khẽ mỉm cười, hàm răng trắng đến sửng sốt. Hai chiếc răng cửa bị khểnh, nhưng chúng duyên dáng một cách kỳ lạ. Trông anh vừa to lại vừa cao, phải cúi xuống để đầu không va vào khung cửa hình như dẫn vào bếp. Anh không béo, không cơ bắp, anh chỉ khổng lồ như thể chưa bao giờ ngừng phát triển. Da anh màu nâu sậm, màu mắt gần hạt dẻ với những vân xanh lục đan xen trong đó. Tóc anh giống tóc ông cụ, xoăn tít thành kiểu afro ngắn, dù mang màu đen. Trông anh khá trẻ, dù có lẽ không trẻ bằng Mei. Anh mặc quần bò và áo sơ mi không cài cúc cổ dưới tấm tạp dề có dòng chữ BẾN ĐÒ CHARON thêu ở đằng trước. Ván sàn kẽo kẹt theo từng bước chân của anh.

Anh đặt cái khay đang bưng lên quầy, trên đó một ấm trà lách cách va vào những chén trà ngoại cỡ. Ấm trà tỏa mùi bạc hà. Anh đi vòng qua quầy. Wallace thấy chú chó Apollo luồn lách giữa và rồi xuyên qua hai chân anh. Người đàn ông bật cười với chú chó. “Tao thấy được rồi. Thật kỳ lạ, phải không?”

Nó sủa lên tán thành.

Wallace trân trối nhìn khi người kia lại gần. Hắn không biết tại sao mình lại chú ý đến hai bàn tay của người đàn ông, khổng lồ như cả người anh, lòng bàn tay sáng màu hơn mu bàn tay, móng tay như những vầng trăng khuyết. Anh xoa xoa hai tay rồi khom lưng xuống gần Wallace, giữ chút khoảng cách với hắn như thể anh nghĩ Wallace đang e dè mình. Chỉ tới lúc ấy Wallace mới để ý rằng sợi cáp gắn lên ngực hắn dẫn tới người đàn ông, dù có vẻ như anh chẳng có lưỡi câu nào. Sợi cáp xuyên vào trong lồng ngực anh, ngay vị trí hẳn là trái tim anh.

“Xin chào,” người đàn ông nói. “Wallace, phải không? Wallace Price?”

Wallace gật đầu, không tìm ra nổi thanh âm của mình.

Nụ cười của anh càng tươi hơn, và Wallace có cảm giác như lưỡi câu trên ngực hắn đang cháy rực lên. “Tên tôi là Hugo Freeman. Tôi là Người lái đò. Tôi tin là anh có nhiều thắc mắc. Tôi sẽ cố hết sức để giải đáp tất cả. Nhưng không việc gì phải vội. Anh có muốn dùng trà không?”

Chú thích:

[1] Afro: kiểu tóc đặc trưng của người dân Châu Phi, khi họ không tết hay xử lý tóc mà để xõa tóc xoăn tự nhiên, khiến tóc bồng lên như quả cầu quanh đầu.