Chương 7
Dường như Apollo biết họ đang đi đâu. Móng vuốt của chú chó lách cách trên sàn khi nó tung tăng đi xuống hành lang, lúc lắc đuôi. Thi thoảng nó ngoái lại nhìn để đảm bảo rằng Hugo đang theo sau.
Hugo cúi người đi qua một khuôn cửa khác, và cả khi đã cúi, đầu anh trông vẫn gần chạm tới trần hành lang. Hai mặt tường phủ giấy dán tường, cũ kỹ nhưng sạch sẽ, những bông hoa nhí dập trên đó như bung nở khi họ đi ngang qua, dù Wallace nghĩ đó có lẽ là do ánh sáng gây ảo giác. Một cánh cửa nằm bên phải mở vào một văn phòng nhỏ, một chiếc bàn làm việc trên chất đầy giấy tờ cạnh chiếc máy tính cổ lỗ sĩ.
Một cánh cửa nằm bên trái đang đóng, nhưng có vẻ như đó là lối đi khác để vào bếp. Hắn nghe được tiếng Mei di chuyển trong đó cùng tiếng bát đĩa lách cách trong khi cô hát rống lên, theo một bài nhạc rock hẳn còn nhiều tuổi hơn cả cô. Nhưng vì Wallace không dám chắc cô bao nhiêu tuổi (hoặc cô là thứ gì, nếu hắn thú thật với bản thân), hắn quyết định bỏ qua vấn đề này mà không bình luận gì.
Một cánh cửa khác bên tay phải dẫn vào một phòng vệ sinh, tấm biển trên cửa ghi: CÁC CẬU, CÁC CÔ & CÁC BẠN PHI NHỊ NGUYÊN[1]. Tiếp theo là một cánh cầu thang, và nếu tim Wallace vẫn còn đập, hắn dám chắc rằng giờ nó sẽ chạy dồn dập.
Nhưng Hugo không để ý gì tới cầu thang, đi qua nó, tiến về phía cánh cửa ở cuối hành lang. Apollo không đợi anh mở cửa ra, thay vào đó đi xuyên qua luôn. Khi ấy Wallace biết rằng hắn vẫn chưa quen với việc đó, và dù tin chắc rằng mình có thể làm tương tự, hắn vẫn đợi Hugo mở cửa.
Cánh cửa mở ra bên ngoài và vào đêm đen.
Wallace lưỡng lự tới khi Hugo ra hiệu cho hắn đi qua. “Không sao đâu. Chỉ là sân sau thôi. Sẽ không có chuyện gì xảy ra với anh ngoài này đâu.”
Khí trời giờ còn lạnh lẽo hơn. Wallace run rẩy, và một lần nữa tự hỏi tại sao mình lại run rẩy. Hắn lờ mờ thấy được cái đuôi của Apollo ở đầu kia sân, nhưng phải mất một lúc mắt hắn mới điều tiết được. Khi Hugo gạt công tắc ở gần cửa, hắn khẽ thảng thốt.
Những dây đèn treo trên đầu họ bừng sáng. Họ đang đứng trên nơi kiểu như mảng thềm sau nhà. Trên sân bày nhiều bàn, ghế lật úp và gác lên trên bàn. Dây đèn được chăng trên lan can quanh thềm, và dưới rìa mái đua ra trên cao. Thêm nhiều chậu cây được treo thả, những bông hoa rực rỡ đã khép mình trước trời khuya.
“Đây,” Hugo nói. “Nhìn này.” Anh đi tới mép bậc thềm, gần một dọc cầu thang. Anh gạt một công tắc khác gắn trên cột gỗ, và thêm nhiều ngọn đèn sáng lên dưới thềm, soi sáng lớp đất khô, lẫn cát và những dãy...
“Cây trà đấy,” Hugo nói trước khi Wallace kịp hỏi. “Tôi đã cố tự trồng nhiều cây trà hết mức có thể, chỉ nhập những loại không sống được ở khí hậu này. Không gì bằng một tách trà pha từ những lá trà do chính tay mình trồng đâu.”
Wallace nhìn Apollo đang phi nước kiệu tới lui giữa những hàng cây, chỉ dừng lại trong chốc lát đề ngửi phiến lá. Hắn tự hỏi liệu chú chó có thật sự ngửi được mùi gì không. Hắn thì có, một mùi hương sâu lắng mang theo chút đất, thứ mùi khiến hắn bình tâm lại hơn là mình tưởng.
“Tôi không biết chúng mọc lên từ đất đấy,” Wallace thú nhận.
“Vậy anh nghĩ lá trà đến từ đâu?” Hugo hỏi, giọng thích thú.
“Tôi... chưa bao giờ thật sự nghĩ tới chuyện ấy, tôi nghĩ vậy. Tôi không có thời gian cho những việc như thế này.” Vừa nói dứt miệng, hắn đã nhận ra những lời này nghe ẩn ý thế nào. Thường thì hắn sẽ không ngẫm lại, nhưng đây là một khoảng thời gian quái lạ. “Không phải là chuyện trồng trà xấu xa hay gì, nhưng...”
“Cuộc đời cứ vuột khỏi tay anh,” Hugo đơn giản kết luận.
“Đúng thế,” Wallace lầm bầm. “Kiểu kiểu vậy.” Rồi, “Tại sao lại là trà?”
Hugo ra hiệu cho hắn xuống cầu thang. Những cây trà khá cao, cây to và trưởng thành nhất cao tới hông Wallace. Chúng hầu như còn chẳng chạm tới đùi Hugo. Khi đi qua hàng cây, gần như ở một góc trong đầu, hắn để ý thấy sợi cáp căng cứng giữa họ.
Hắn dừng lại khi Hugo cúi cuống, vươn tay ra chạm vào lá của một trong những cây cao nhất. Những phiến lá nhỏ, phẳng và xanh rì. Anh thoáng chạm lên một lá, những ngón tay mơn trớn phần đỉnh. “Đoán xem cây này bao nhiêu tuổi rồi.”
“Tôi không biết.” Hắn nhìn những cây khác xung quanh. “Sáu tháng? Một năm?”
Hugo cười khúc khích. “Lâu đời hơn một chút. Đây là một trong những cây đầu tiên tôi trồng. Sang tuần sau là nó được mười tuổi rồi.”
Wallace chớp mắt. “Sao cơ?”
“Không phải ai cũng có thể trồng trà,” Hugo nói. “Đa số cây trà không trưởng thành tới khi được khoảng ba bốn tuổi. Trước lúc đó anh có thể thu hoạch lá, nhưng vị và hương trà đều thiếu đi chút gì đó. Anh phải dành thời gian cho chúng và phải kiên nhẫn. Thu hoạch quá sớm là có nguy cơ làm chết cây và phải trồng lại từ đầu.”
“Đây có phải cái kiểu trò chuyện mà chúng ta nói một đằng nhưng hiểu một nẻo không?”
Hugo nhún vai. “Tôi đang nói về cây trà, Wallace ạ. Anh có suy tư gì à?”
Wallace không chắc là hắn tin lời anh. “Tôi có nhiêu suy tư lắm.”
Hugo nói, “Vào mùa thu, vài cây sẽ nở hoa, những bông hoa tí hon có nhụy vàng và cánh trắng. Hương hoa khó tả lắm. Nó hòa vào mùi rừng thông, khắp thế gian chẳng có mùi hương nào giống như vậy. Đó là thời điểm yêu thích trong năm của tôi. Còn anh thì sao?”
“Anh quan tâm làm gì?”
“Chỉ là một câu hỏi thôi, Wallace ạ.”
Wallace nhìn anh chằm chằm.
Hugo từ bỏ. “Có đôi khi, tôi trò chuyện với đám cây. Nghe quái dị thật, tôi biết, nhưng nhiều nghiên cứu đã được tiến hành và chỉ ra rằng cây cối có phản ứng với những lời khích lệ. Kết luận này chưa được xác nhận, và không hẳn vì từ ngữ mà vì những rung động trong thanh âm. Tôi đang tính chuyện sớm lắp đặt dàn loa, để bật nhạc cho lũ cây nghe. Anh đã bao giờ trò chuyện với cây cối chưa?”
“Chưa,” hắn nói, bị những dãy xanh rì, cùng lớp đất sẫm màu giữ chúng đứng thẳng, làm cho phân tâm. Mỗi cây được trồng cách nhau một mét hay mét rưỡi, lá cây bóng lên dưới ánh sao, tỏa mùi hăng hắc, tới mức khiến Wallace chun mũi. Thứ mùi đó không khó chịu (thật ra là ngược lại), chỉ là có chút ngợp. “Việc ấy thật ngớ ngẩn.”
Hugo mỉm cười. “Có chút ngớ ngẩn thật. Nhưng tôi vẫn làm vậy. Có mất gì đâu, đúng không?” Anh lại cúi xuống nhìn cây trà trước mặt. “Anh phải cẩn thận khi thu hoạch lá trà. Nếu hái quá mạnh tay, cuối cùng anh có thể làm chết cái cây. Phải mất một thời gian dài tôi mới biết làm đúng cách. Khó mà kể hết với anh tôi đã phải nhổ và vứt đi bao nhiêu cây vì sự nóng vội của chính mình.”
“Cây cối là vật sống,” Wallace nói.
“Đúng vậy. Không sống như tôi và anh, nhưng theo kiểu riêng của chúng.”
“Vậy có ma cây không?”
Hugo nhìn hắn chằm chằm, miệng há hốc.
Wallace cau mày với anh. “Đừng nhìn tôi như vậy. Anh bảo tôi hỏi anh mà.”
Hugo khép miệng và lắc đầu. “Không, không có— tôi chưa bao giờ nghĩ về chúng theo hướng này. Thật kỳ lạ.” Anh nheo mắt nhìn Wallace. “Tôi thích mạch suy nghĩ của anh đấy.”
Wallace ngoảnh mặt đi.
“Không,” Hugo nói. “Tôi không nghĩ là ma cây có tồn tại, dù nếu có thì sẽ tuyệt vời lắm đấy. Phải, chúng là vật sống. Và có lẽ chúng phản ứng với những lời khích lệ. Hoặc có lẽ không và đó là một câu chuyện nho nhỏ chúng ta thích kể cho nhau nghe để khiến thế giới này trông huyền bí hơn nó vốn có. Nhưng cây cối không có linh hồn, ít ra là không có linh hồn mà tôi thấy được. Đó là sự khác biệt giữa chúng ta và chúng. Chúng chết, và thế là hết. Chúng ta chết và—”
“Cuối cùng đến một tiệm trà ở nơi khỉ ho cò gáy trái với ý mình,” Wallace cay cú nói.
Hugo thở dài. “Thử nói chuyện khác nào. Anh có thích cuộc sống không?”
Sững sờ, Wallace nói, “Dĩ nhiên là thích rồi.” Nét mặt hắn đanh lại. “Từng thích. Dĩ nhiên là tôi từng thích cuộc sống rồi.” Lời ấy nghe đầy dối trá, ngay cả với bản thân hắn.
Hugo vừa lau tay vào tạp dề vừa chậm rãi đứng dậy. “Anh thích gì ở cuộc sống?” Anh tiếp tục đi dọc hàng cây.
Trái với những gì hắn nghĩ, Wallace đi theo anh. “Không phải ai cũng thích được sống à?”
“Đa số là vậy, tôi nghĩ thế,” Hugo nói. “Tôi không nói thay được cho tất cả mọi người. Nhưng anh không phải là đa số, và không có ai khác ở đây cả, đó là lý do tại sao tôi đang hỏi anh.”
“Vậy anh thích gì trong đó?” Wallace hỏi, quăng ngược câu hỏi về phía anh. Hắn thấy e sợ, và mỗi lúc một thêm khó chịu.
“Nhiều thứ lắm,” Hugo ung dung nói. “Cây cối, chẳng hạn. Mặt đất dưới chân tôi. Ngôi nhà này. Ở đây khác lắm, và không chỉ vì bản thân tôi hay những việc tôi làm. Có thời gian dài, tôi không thở được. Tôi cảm thấy... ngột ngạt. Bị đè nén. Như thể trên vai tôi là cả một gánh nặng và tôi không biết làm sao để rũ bỏ nó.” Anh lại nhìn Wallace. “Anh có biết cảm giác đó như thế nào không?”
Hắn biết, nhưng hắn sẽ không thú nhận ở đây. Không phải bây giờ. Không bao giờ. “Anh không phải là bác sĩ tâm lý của tôi.”
Hugo lắc đầu. “Không, không phải. Không hẳn là đủ điều kiện để làm việc như vậy, tuy rằng thi thoảng tôi có đảm nhận vai trò đó. Đó là một phần của công việc thôi.”
“Công việc à,” Wallace lặp lại.
“Bán trà,” Hugo nói. “Người ta vào quán, và có vài người không biết họ đang tìm kiếm điều gì. Tôi cố gắng làm quen với họ, để biết được con người họ như thế nào trước khi quyết định loại trà nào sẽ hợp với họ. Đó là một quá trình khám phá. Tôi thường chọn đúng, dù không phải lúc nào cũng vậy.”
“Bạc hà à,” Wallace nói.
“Bạc hà,” Hugo tán thành. “Tôi đoán có đúng không?”
“Anh còn chưa từng gặp tôi.”
Anh nhún vai. “Đôi khi tôi có linh cảm.”
“Linh cảm à.” Hắn chẳng thèm ngăn sự khinh bỉ toát ra từ lời mình nói. “Chắc anh phải biết nói vậy nghe có vẻ thế nào chứ.”
“Tôi biết. Nhưng đây chỉ là trà thôi mà. Đâu phải thứ gi để ta căng thẳng đến vậy.”
Wallace thấy muốn gào lên. “Anh có linh cảm bảo anh pha trà bạc hà à.”
“Đúng vậy.” Anh dừng lại trước một cái cây khác, khom lưng nhặt lá rụng trên đất. Một cách vô cùng cẩn thận anh nhét chúng vào một cái túi trên tạp dề, như thể sợ rằng mình sẽ làm nát lá. “Linh cảm ấy có sai không?”
“Không,” Wallace phụng phịu nói. “Không sai.” Hắn tưởng Hugo sẽ đòi hắn giải thích, rằng hương vị bạc hà có ý nghĩa gì.
Anh không làm vậy. “Tốt rồi. Tôi cho rằng mình khá chính xác, nhưng như tôi vừa nói, không phải lúc nào cũng vậy. Tôi cố gắng cẩn thận khi phán đoán. Chúng ta không muốn trông mặt mà bắt hình dong mà.”
Wallace không tài nào hiểu nổi lời đó có nghĩa là gì. Cả thế giới đều lộn nhào, và lưỡi câu trong ngực hắn lại lôi kéo hắn. Hắn muốn giựt nó ra, mặc kệ hậu quả là gì. “Tôi thích được sống. Tôi muốn được sống một lần nữa.
“Kübler-Ross.”
“Sao cơ?”
“Có một người phụ nữ tên là Elisabeth Kübler-Ross. Anh đã từng nghe qua chưa?”
“Chưa.”
“Bà ấy là một bác sĩ tâm lý—”
“Ôi trời ơi.”
“Một bác sĩ tâm lý nghiên cứu về cái chết và những trải nghiệm mấp mé cửa tử. Anh biết mà, bay lên khỏi cơ thể mình về phía ánh sáng trắng chói chang, dù tôi nghĩ cái chết có chút phức tạp hơn như vậy. Có rất nhiều thứ mà tôi không hiểu.” Anh xoa cằm. “Không phải chuyện gì tôi cũng biết đâu, dù tôi làm công việc này. Tôi nghĩ không ai biết hết được mọi chuyện, dù có là nhân vật nào đi nữa. Nhưng như vậy không có nghĩa là tôi không thể thưởng thức những bí ẩn của cuộc sống. Kübler-Ross nói về những chuyện như sự siêu việt của bản ngã và những giới hạn thời-không. Phức tạp lắm. Và tôi thật sự không phải người phức tạp.”
“Anh không phức tạp ư?” Wallace hỏi, giọng khó tin.
“Coi chừng đấy, Wallace,” Hugo cảnh cáo, nhoẻn miệng. “Lời đó nghe gần giống như tán thưởng tôi đấy.”
“Không phải đâu nhé.”
Hugo lờ hắn đi. “Bà ấy nổi tiếng vì nhiều điều, nhưng tôi nghĩ thành tựu lớn nhất của bà là Mô hình Kübler-Ross. Anh có biết đó là thứ gì không?”
Wallace lắc đầu.
“Có lẽ anh biết nó đấy, dù không phải dưới cái tên kía. Đó là năm giai đoạn đau buồn.”
Wallace muốn trở lại trong nhà. Một lần nữa Hugo đứng lên, quay sang đối mặt với anh. Miệng Wallace khô khốc, và hắn nuốt khan cùng một tiếng ực rõ rệt khi ngước lên nhìn Hugo sừng sững trước mặt mình. Anh không tiến đến gần, nhưng anh là tất cả những gì Wallace thấy được. Anh như một cây trà, đứng cố định tại chỗ, chưa đủ trưởng thành để thu hoạch. Sợi cáp nảy lên giữa hai người họ.
Hugo nói, “Tôi đã làm việc này đủ lâu để thấy rằng bà ấy nói đúng đến thế nào. Chối bỏ. Giận dữ. Mặc cả. Trầm uất. Chấp nhận. Không phải lúc nào cũng theo trình tự ấy, và không phải lúc nào cũng qua đủ từng bước. Lấy anh làm ví dụ. Có vẻ như anh đã lập tức bỏ qua giai đoạn chối bỏ. Anh thuộc nằm lòng phần giận dữ, trong đó có xen lẫn chút mặc cả. Có lẽ là nhiều hơn một chút.”
Wallace cứng người. “Việc ấy nghe chẳng giống như dành cho người chết. Đau buồn là cho những người bị bỏ lại phía sau. Tôi không thể tiếc thương chính mình được.”
Hugo chậm rãi lắc đầu. “Dĩ nhiên là có thể chứ. Lúc nào chúng ta chẳng đau buồn về những điều nhỏ nhặt và lớn lao, dù ta còn sống hay đã chết. Mọi người lúc nào cũng buồn bã đôi chút. Phải, Kübler-Ross đang bàn về người sống, nhưng mô hình ấy cũng phù hợp với những người như anh. Có khi còn hợp hơn. Tôi vẫn thường tự hỏi bà ấy sẽ ra sao, sau khi qua đời. Liệu bà ấy có tự mình trải qua mọi bước không, hay vẫn còn những điều ngạc nhiên để bà khám phá. Anh nghĩ sao?”
“Tôi hoàn toàn không hiểu anh đang nói về chuyện gì.”
“Được thôi,” Hugo nói.
“Được thôi ư?”
“Dĩ nhiên rồi. Anh có thích cây cối không?”
Wallace nhin anh chằm chằm. “Chúng là cây cối mà thôi.”
“Suỵt,” Hugo nói. “Đừng để chúng nghe thấy anh nói vậy. Chúng nhạy cảm lắm.”
“Anh điên nặng rồi.”
“Tôi thích nghĩ rằng mình lập dị hơn.” Nụ cười của anh trở lại trên môi. “Ít nhất thì đó là điều người trong trấn nghĩ về tôi. Vài người còn tin rằng nơi này bị ma ám đấy.” Anh bật cười một mình. Wallace chưa bao giờ là người để ý tới âm thanh người khác tạo ra khi cười, nhưng việc gì cũng có lần đầu tiên. Trong trường hợp của Hugo đó là một tiếng cười tròn trịa, trầm thấp và sâu lắng.
“Anh không khó chịu với việc ấy ư?”
Hugo nghiêng đầu. “Không đâu. Tại sao chứ? Họ nói đúng mà. Anh là hồn ma đây. Ông tôi và Apollo cũng vậy. Và anh không phải con ma đầu tiên, cũng không phải con cuối cùng. Bến Đò Charon lúc nào cũng bị ma ám, dù không giống như người ta tưởng. Chúng tôi không có ai rung lắc xích sắt hay làm om sòm lên đâu.” Anh cau mày. “Chà, hầu hết thời gian thì là vậy. Ông có thể hơi xấu tính khi thanh tra an toàn vệ sinh tới đây, nhưng thường chúng tôi cố gắng tránh biểu hiện đặc trưng của một ngôi nhà ma ám. Không thì sẽ ảnh hưởng tới việc làm ăn mất.”
“Họ vẫn còn ở đây,” Wallace nói. “Nelson. Apollo ấy.”
Hugo bước vòng qua anh, quay về theo hướng ngôi nhà. Anh lướt ngón tay trên ngọn của những cây cao nhất. Chúng uốn mình theo tay anh rồi bật thẳng lại. “Đúng vậy.”
Wallace đi theo anh. “Tại sao?”
“Tôi không nói thay được cho ông tôi,” Hugo nói. “Anh phải hỏi ông thôi.”
“Tôi đã hỏi rồi.”
Hugo ngoái đầu lại, trên mặt là vẻ ngạc nhiên. “Ông tôi nói gì?”
“Nói rằng đó không phải việc của tôi.”
“Nghe hợp lý đấy. Ông cụ bướng bỉnh thế đó.”
“Còn Apollo thì sao?”
Chú chó sủa lên khi nghe thấy tên mình, tiếng sủa ồm ồm và gãy gọn. Nó tung tăng chạy tới men theo một trong mấy hàng cây bên tay trái họ. Chẳng có chút bụi hay đất nào bay lên khi chân nó chạm đất. Nó dừng lại ở gần hiên, ưỡn lưng, mũi và ria mép giật giật trong khi nhìn về phía khu rừng tối om. Hắn không nhìn được ra xa lắm, và chợt nhận ra màn đêm ở đây khác với ở thành phố đến thế nào, nó gần như sống dậy, có tri giác, bóng đêm vươn mình, vươn mình tới.
“Tôi nghĩ tôi cũng không thể trả lời câu hỏi đó,” Hugo nói. Trước khi Wallace kịp đáp lời, anh thêm vào, “Không phải vì tôi không muốn, mà vì tôi không biết chính xác do đâu. Loài chó không— chúng không giống như chúng ta. Chúng... thuần khiết theo kiểu không như chúng ta. Trước nay tôi chưa từng tiếp nhận chú chó nào khác tới đây, cần giúp đỡ để siêu thoát. Tôi đã nghe chuyện về những Người lái đò với công việc dẫn dắt một số sinh vật nhất định, nhưng đó không phải là việc tôi làm. Nhưng tôi rất sẵn lòng làm việc ấy. Động vật không phức tạp như con người đâu.”
“Vậy thì tại sao nó—” Wallace khựng lại. Rồi, “Nó là chó của anh à.”
Hugo dừng bước trước bậc thang. Apollo da diết ngước nhìn anh, trên mặt là nụ cười ngốc nghếch, đã quên béng mất bất kỳ thứ gì thu hút nó trong rừng cây. Hugo chìa tay về phía mõm của chú chó. Nó hít ngửi những ngón tay anh. “Đã từng,” anh khẽ trả lời. “Và vẫn là vậy. Apollo từng là chó hỗ trợ. Hoặc ít ra là từng cố gắng làm chó hỗ trợ. Trược gần hết các bài huấn luyện, nhưng chẳng sao cả. Tôi vẫn yêu nó vậy thôi.”
“Chó hỗ trợ ư?” Wallace hỏi. “Kiểu như để...” Hắn không biết phải nói tiếp thế nào.
“Ồ, có lẽ không như anh nghĩ đâu,” Hugo nói. “Tôi không phải là cựu binh. Tôi không có PTSD[2].” Anh nhún vai. “Khi tôi còn bé, cuộc sống từng khá khó khăn. Nhiều ngày liền tôi hầu như không thể rời giường. Trầm cảm, lo âu, một đống chẩn đoán mà tôi không biết phải giải quyết như thế nào. Hết bác sĩ tới thuốc thang rồi làm thế này này, Hugo, làm thế kia nhé, Hugo, chỉ cần cháu để cho bản thân thấy vui là cháu sẽ vui vẻ hơn thôi, Hugo ạ.” Anh cười khúc khích. “Khi ấy tôi là một con người khác. Tôi không biết những điều tôi biết ngày nay, dẫu rằng khoản thời gian ấy sẽ luôn là một phần trong tôi.” Anh gật đầu về phía Apollo. “Một ngày nọ, tôi nghe thấy tiếng sủa anh ách nhỏ tí ngoài cửa sổ phòng mình. Trời đang mưa và có cảm giác như đã mưa hàng tuần liền. Suýt nữa thì tôi lờ âm thanh mình nghe thấy đi, chỉ muốn trùm chăn lên đầu và chặn cả thế giới ở ngoài chăn. Nhưng có gì đó đã khiến tôi đứng dậy và ra ngoài. Tôi tìm thấy chú chó này run rẩy dưới bụi cây bên nhà, gầy gò đến nỗi tôi đếm được từng chiếc xương sườn dưới da. Tôi bế nó lên và mang nó vào nhà. Tôi hong khô người nó và cho nó ăn. Nó chẳng bao giờ rời đi. Thật kỳ lạ, phải không?”
“Tôi không rõ nữa.”
“Không rõ cũng không sao cả,” Hugo nói. “Chúng ta không biết, và sẽ chẳng bao giờ biết rất nhiều điều. Tôi không biết tại sao Apollo lại tới đây, hay từ đâu mà tới. Tôi nghĩ nó có thể trở thành một chú chó hỗ trợ cừ khôi. Trông có vẻ đủ thông minh. Và nó từng— vẫn thông minh thật. Nhưng không thành công cho lắm. Chó nhà tôi bị đủ mọi thứ làm cho sao lãng, nhưng ai mà trách nó được? Chắc chắn không phải tôi rồi vì Apollo đã cố gắng hết sức, và đó là điều quan trọng nhất. Hóa ra nó lại là một... một mảnh ghép mà tôi không biết mình đang thiếu. Nó không phải là câu trả lời cho mọi vấn đề, nhưng là một xuất phát điểm. Nó đã sống một cuộc đời êm đẹp. Không dài như tôi mong muốn, nhưng vẫn là êm đẹp.”
“Nhưng nó đang ở đây.”
“Phải,” Hugo công nhận.
“Bị mắc kẹt ở đây,” Wallace nói, hai tay siết lại thành nắm đấm.
Hugo lắc đầu. “Không. Apollo có quyền lựa chọn chứ. Tôi đã cố dẫn nó đến cánh cửa trên cầu thang hết lần này đến lần khác. Tôi bảo nó rằng nó có thể đi đầu thai chuyển kiếp. Rằng tôi sẽ không bao giờ quên nó và sẽ luôn luôn trân trọng khoảng thời gian chúng tôi ở bên nhau. Nhưng nó đã chọn rồi. Ông cũng đã chọn rồi.” Anh ngoái lại nhìn Wallace. “Anh cũng có quyền lựa chọn, Wallace ạ?”
“Lựa chọn ấy à?” Wallace gắt lên. “Nếu tôi bỏ đi, tôi sẽ biến thành một trong những... những thứ kia. Nếu tôi bước một chân ra khỏi nơi này, tôi sẽ tan thành cát bụi. Và đừng để tôi nhắc tới thứ lố bịch trên ngực tôi đây.” Hắn cúi đầu nhìn sợi cáp căng ra giữa họ. Nó lóe lên. “Đây là thứ gì?”
“Mei gọi nó là dây tơ hồng.”
Wallace chớp mắt. “Nó không mang màu đỏ. Cũng không phải là tơ.”
“Tôi biết chứ,” Hugo nói. “Nhưng gọi thế khá hợp, tôi nghĩ vậy. Mei nói... cô bé giải thích thế nào nhỉ? À, phải rồi. Trong truyền thuyết ở Trung Quốc, các vị thần thượng cổ buộc một sợi chỉ đỏ quanh cổ chân của những người có duyên kỳ ngộ, được định sẵn là sẽ tương trợ nhau. Đó là một suy nghĩ thật đẹp, phải không?”
“Không,” Wallace thẳng thừng trả lời. “Đó là gông cùm. Là xiềng xích.”
“Hoặc là dây neo,” Hugo nói, không chút ác ý. “Dù tôi biết đối với anh lúc này sợi cáp trông chẳng có vẻ gì là vậy. Nó giữ cho anh tỉnh táo khi đang ở đây. Nó giúp tôi tìm anh nếu anh lỡ đi lạc.”
Nghe vậy rõ ràng chẳng khiến hắn thấy vui vẻ hơn chút nào. “Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi giựt nó ra?”
Hugo trông có vẻ u ám. “Anh sẽ bay đi đấy.”
Wallace choáng váng. “Sao cơ?”
“Nếu anh cố giựt nó ra khi đang ở trên đất của tiệm trà, anh sẽ... bay lên. Và tôi không biết anh có bao giờ dừng bay không. Nhưng nếu anh gỡ nó ra bên ngoài tiệm, anh sẽ bắt đầu đánh mất nhân tính, bay biến từng chút một tới khi tất cả những gì còn lại chỉ là một cái xác rỗng.”
Wallace lắp bắp. “Như vậy... như vậy chẳng hợp lý gì cả! Thằng quái nào đặt ra những luật này?”
Hugo nhún vai. “Vũ trụ, tôi nghĩ vậy. Đấy không phải chuyện gì xấu, Wallace ạ. Thứ này giúp tôi giúp anh. Và khi anh ở đây, tất cả những gì tôi có thể làm là cho anh thấy những phương án, những lựa chọn bày ra trước mắt anh. Để đảm bảo anh hiểu rằng anh chẳng còn gì để sợ cả.”
Mắt Wallace cay xè. Hắn chớp mắt lia lịa, không thể nhìn vào mắt Hugo. “Anh không thể nói thế được. Anh không hiểu chuyện này như thế nào đâu. Chẳng công bằng chút nào.”
“Cái gì không công bằng?”
“Chuyện này!” Wallace kêu lên, loạn xã khua tay ra xung quanh. “Tất cả. Toàn bộ chuyện này. Tôi có thiết gì đâu. Tôi có muốn bị thế này đầu. Tôi còn việc để làm. Tôi còn trách nhiệm. Tôi còn một cuộc đời. Sao anh có thể nói rằng tôi có lựa chọn trong khi cuối cùng vẫn là trở thành như Cameron hay đi qua cái cửa chết tiệt của anh?”
“Xem ra từ bấy đến giờ phần chối bỏ vẫn tồn tại trong anh rồi.”
Wallace lườm anh. “Tôi không ưa anh.” Lời này thật trẻ con và xấu tính, nhưng Wallace không thèm quan tâm.
Hugo không cắn câu. “Chẳng sao hết. Chúng ta sẽ đến đích thôi. Tôi sẽ không ép anh làm bất cứ việc gì anh không muốn làm. Tôi ở đây để dìu dắt anh. Tất cả những gì tôi yêu cầu là anh hãy để tôi thử.”
Wallace nuốt khan qua cục nghẹn trong cổ. “Tại sao anh quan tâm nhiều thế? Tại sao anh làm việc này? Làm thế nào mà anh làm được? Mục đích của toàn bộ việc này là gì?”
Hugo cười toe toét. “Hỏi vậy là có khởi đầu rồi. Có vẻ như vẫn còn hy vọng cho anh đấy.”
Nói rồi, anh bước lên cầu thang dẫn lên hiên, Apollo tung tăng chạy bên cạnh. Anh dừng lại ở cửa, ngoái lại nhìn Wallace vẫn đang đứng giữa những tán cây trà. “Anh vào chứ?”
Wallace cúi đầu và lê bước lên bậc thang.
✽Hugo ngáp dài khi đóng cửa lại sau lưng họ. Anh chớp mắt vẻ buồn ngủ, xoa xoa cằm. Wallace có thể nghe thấy tiếng đồng hồ ở đầu nhà đánh nhịp tích tắc. Trước khi hắn chạy khỏi tiệm trà, thời gian dường như đã lạc lối, hết vấp váp rồi lại ngưng trệ. Tiếng đồng hồ nghe như thể vấn đề đã được giải quyết. Thời gian đã bình thường trở lại. Wallace không hiểu như vậy có nghĩa là gì.
“Đã muộn rồi,” Hugo nói với hắn. “Ở đây chúng tôi dậy sớm lắm. Phải nướng bánh, và cần thời gian để ngâm trà.”
Wallace thấy ngại ngùng, lưỡng lự. Hắn không biết tiếp theo việc gì sẽ phải diễn ra. “Được thôi. Hãy đưa tôi về phòng mình, và tôi sẽ để anh yên.”
“Phòng anh ư?”
Wallace nghiến răng. “Hoặc đưa tôi cái chăn rồi tôi ngủ trên sàn cũng được.”
“Anh không cần ngủ đâu.”
Wallace giật mình. “Gì cơ?”
Hugo kỳ quái nhìn hắn chằm chằm. “Từ lúc qua đời anh có từng ngủ chưa?”
Chà... chưa. Hắn chưa từng ngủ. Nhưng hắn chưa từng có thời gian. Hắn quá mải miết cố gắng lý giải mớ lăng nhăng này. Suy nghĩ về việc ngủ chưa từng xuất hiện trong đầu hắn, ngay cả khi tình hình trở nên có chút mơ hồ và hắn thấy mình có mặt ở đám tang của chính mình. Và rồi Mei xuất hiện và lôi hắn tới chỗ này. Vậy nên, chưa. Hắn chưa từng ngủ. “Tôi có nhiều việc phải làm.”
“Dĩ nhiên rồi. Anh có mệt không?”
Hắn không mệt, như vậy khá là lạ. Lẽ ra hắn nên kiệt sức mới phải. Sau mọi chuyện đã xảy ra, hắn tưởng mình phải cạn kiệt và di chuyển một cách lờ đờ. Nhưng không. Hắn chưa từng thấy tỉnh táo hơn lúc này. “Không,” hắn lầm bầm. “Chẳng hợp lý chút nào.”
“Anh chết rồi,” Hugo nhắc nhở hắn. “Tôi nghĩ anh sẽ thấy rằng giấc ngủ là điều anh ít phải nghĩ đến nhất từ giờ trở đi. Trong suốt những năm làm Người lái đò, tôi chưa từng gặp con ma nào đi ngủ. Đó sẽ là một chuyện mới lạ đấy. Tôi nghĩ là anh có thể thử. Rồi hãy kể tôi nghe xem việc đó diễn ra như thế nào.”
“Thế thì tôi phải làm gì?” Wallace hạch sách. “Đứng đây và đợi anh ngủ dậy à?”
“Anh có thể làm vậy,” Hugo nói. “Nhưng còn nhiều chỗ êm ái hơn cho anh ngồi đợi.”
Wallace cau mày nhìn anh. “Anh chẳng hài hước chút nào.”
“Chỉ hơi hơi thôi,” Hugo nói. “Anh có thể làm bất cứ việc gì mình muôn, miễn là không rời khỏi khu đất của tiệm trà. Tôi không muốn phải đuổi theo anh lần nữa đâu.”
“Làm gì tôi muốn cũng được?”
“Dĩ nhiên rồi.”
Lần đầu tiên kể từ khi hắn tới tiệm trà, Wallace mỉm cười.
✽“Mei.”
“Đ-đi.”
“Mei.”
“M-giờ chồi.”
“Mei. Mei. Mei.”
Cô ngồi dậy trên giường, chăn rơi xuống hông. Cô đang mặc một chiếc áo phông ngoại cỡ, trên có in chân dung Frederick Nietzsche. Cô lúc lắc đầu rồi tập trung nhìn Wallace, người đang đứng trong góc phòng mình. “Gì? Cái gì thế? Có chuyện gì? Chúng ta bị tấn công à?”
“Không,” Wallace nói. “Cô đang làm gì thế?”
Cô nhìn hắn chằm chằm. “Tôi đang cố ngủ đây.”
“Ồ, thật à? Việc ngủ của cô thế nào rồi?”
Cô bắt đầu cau mày. “Không thuận lợi lắm.”
“Cô có biết tôi sẽ không bao giờ ngủ được nửa không?”
“Có,” cô chậm rãi trả lời.
Hắn gật đâu. “Tốt.” Hắn quay người và đi xuyên qua tường phòng cô.
✽“Hùuuuu!” Hắn rên rỉ ồn ào hết mức có thể “Hùuuuu!” Hắn đi lên đi xuống hành lang tầng trệt, thấy hơi khó chịu vì hình như mình không thể giậm chân dù có cố đến đâu đi nữa. Hắn đập tay lên tường, nhưng tay hắn cứ mấp mé xuyên qua. Đó là lý do tại sao giờ hắn thấy mình rống lên mọi kiểu âm thanh ma quái bản thân từng nghe qua trong phim kinh dị. Hắn thất vọng vì mình không có sợi xích nào để rung lắc loảng xoảng. “Tôi chếêêêt rồi. Chếêêêt rồi! Khổ cái thân tôiiiiii.”
“Anh có im đi không!” Mei hét lên từ trong phòng.
“Giỏi thì bắt tôi im đi!” Hắn rống lên đáp trả, và rồi ra sức gấp đôi.
✽
Wallace cứ thế làm trò thêm mười sáu phút rồi mới ăn gậy vào đầu.
“Ối!” Hắn kêu lên, xoa xoa gáy. Hắn quay ngoắt lại và thấy Nelson đứng trước mặt mình, cau mày. “Cụ đánh tôi làm gì?”
“Cậu có cư xử cho đàng hoàng không? Nếu không, tôi có thể đánh cậu nữa đấy.”
Hắn vươn tay về phía cây gậy của Nelson, định bụng giựt nó khỏi tay ông cụ và quẳng đi, nhưng chỉ túm được không khí, lảo đảo bước một bước về phía Nelson vừa đứng trước khi ông cụ biến mất.
Mắt Wallace trợn trừng trong khi hắn nháo nhác nhìn quanh tiệm trà vắng tanh. “Ừm,” hắn gọi. “Xin chào? Cụ... cụ đi đâu rồi?”
“Hù,” một giọng nói thì thầm vào tai hắn.
Wallace không hét mà rít lên. Hắn suýt bổ nhào khi quay người lại. Nelson đứng sau lưng hắn, một bên lông mày trắng phau rậm rạp nhướn lên. “Cụ làm trò ấy thế nào vậy?”
“Ta là ma,” Nelson tỉnh queo nói. “Hầu như cái gì ta cũng làm được.” Ông cụ giơ cây gậy như thể định đánh Wallace lần nữa. Hắn thối lui. “Ngoan hơn rồi đấy. Láo nháo đủ rồi. Cậu có thể không thích ở đây, nhưng như vậy không có nghĩa là cậu có thể làm những người còn lại khổ sở vì điều ấy. Hoặc là cậu ngậm miệng lại, hoặc là đi theo ta.”
“Việc gì tôi phải theo cụ kia chứ?”
“Ô, ta biết đâu được,” Nelson nói. “Có lẽ vì ta là hồn ma con người duy nhất ở đây ngoài cậu ra? Có lẽ vì ta đã chết lâu hơn cậu rất nhiều, và vì thế nên biết nhiều hơn cậu nhiều? Hoặc có khi, chỉ là có khi, vì ta cũng không ngủ và có người thức cùng sẽ tốt hơn? Chọn một lý do đi, chàng trai, hoặc không chọn cái nào cả, miễn là cậu ngưng cái trò làm loạn trời đánh này trước khi ta cho cậu ăn gậy lần nữa.”
“Tại sao cụ lại muốn giúp tôi kia chứ?”
Cặp lông mày của cụ Nelson nhướn lên giữa trán. “Cậu nghĩ ta làm thế này là vì cậu à?” Ông cụ cười khẩy. “Không đâu. Ta đang giúp cháu mình thôi. Và đừng có quên điều ấy.” Ông huých Wallace qua một bên và lệt xệt đi dọc hành lang về mặt trước nhà, cặp tai trên đôi dép thỏ vẫy lung tung. “Vì cậu ấy à,” ông lầm bầm. “Phì.”
Wallace nhìn chằm chằm bóng lưng ông cụ. Hắn nghĩ tới chuyện ngay lập tức tiếp tục việc đang làm dở, nhưng lời đe dọa cho ăn gậy nghe không vui vẻ chút nào. Hắn vội vàng đi theo ông.
Nelson trở về cái ghế bên lò sưởi, vừa càu nhàu vừa ngồi xuống. Apollo đang nằm nghiêng trước lò sưởi, ngực chậm rãi phập phồng. Ai đó đã dọn mảnh thủy tinh từ bóng đèn bị vỡ trước đó, và ánh sáng từ đèn tường được chỉnh xuống lim dim.
“Kéo ghế lại đây,” Nelson nói mà không nhìn hắn.
Wallace thở dài, nhưng làm theo lời ông cụ.
Ít nhất là cố làm theo.
Hắn đi tới cái bàn gần mình nhất và vươn tay về phía một trong mấy cái ghế lật úp. Hắn cau mày khi tay mình xuyên qua chân ghế. Hắn vừa thở phì phò qua lỗ mũi vừa thử lại mà kết quả vẫn vậy. Rồi hắn lại thử. Thử lại. Thử lại lần nữa.
Wallace nghe thấy tiếng Nelson bật cười, nhưng hắn lờ ông cụ đi. Nếu Nelson ngồi được vào ghế, vậy thì đó là điều Wallace cũng có thể làm. Hắn chỉ cần tìm ra cách thôi.
Một lúc sau hắn càng trở nên sốt ruột khi mình vẫn không thể chạm vào ghế.
“Đó là chấp nhận.”
“Sao cơ?”
“Cậu đã chấp nhận rằng mình đã chết,” Nelson nói. “Chí ít phần nào là vậy. Cậu nghĩ cậu không tương tác được với thế giới vật chất nữa vì lý do ấy. Trí óc đang đánh lừa cậu đấy?”
Wallace cười khẩy. “Không phải đó là việc tất cả các người muốn tôi làm sao? Chấp nhận rằng tôi đã chết ấy?”
Hắn không thích nụ cười đang dần hiện lên trên mặt Nelson. “Tới đây nào.”
Wallace làm theo.
Nelson ra hiệu cho hắn ngồi trên sàn trước mặt ông cụ. Wallace thở dài, nhưng hắn không còn lựa chọn nào khác.
Hắn ngồi xuống sàn, khoanh chân lại, hai tay ngọ nguậy trên đầu gối. Apollo ngẩng đầu nhìn hắn. Đuôi nó đập đập. Chú chó xoay mình về phía Wallace, nằm ngửa ra, bốn chân quẫy đạp vào không trung. Khi Wallace không đón nhận lời mời gãi bụng hiển nhiên này, nó rên rỉ đầy đáng thương.
“Không,” Wallace nói. “Chó hư.”
Apollo trả lời hắn bằng một cú rắm, một âm thanh giòn tan dài dặc.
“Ôi trời ơi,” Wallace lẩm bẩm, không biết mình sẽ đào đâu ra ý chí để trải qua đêm nay.
“Bé ngoan đâu nhỉ?” Nelson trìu mến gọi. Apollo thiếu chút nữa đã xô ngã Wallace trong lúc lắc mông đón nhận lời khen ngợi kia.
“Cụ có giúp tôi hay không nào?”
“Hỏi xin cho tử tế,” Nelson nói, ngả người lên ghế. “Chúng ta chết rồi không có nghĩa là chúng ta không cần dùng đến phép tắc lễ nghĩa nữa.”
“Xin cụ đấy,” Wallace nói, răng nghiến chặt.
“Xin cái gì?”
Wallace ước gì họ đều còn sống để hắn có thể bóp chết Nelson. “Xin cụ hãy giúp tôi.”
“Ngoan hơn rồi đấy,” Nelson nói. “Sàn nhà thế nào? Êm ái không?”
“Không.”
“Nhưng cậu đang ngồi lên đó. Cậu mong đợi việc này. Sàn nhà luôn ở đó. Cậu không nghĩ đến nó. Trừ rằng giờ cậu đang làm vậy, phải không?”
Thật vậy. Hắn đang nghĩ ngợi khá nhiều tới chuyện này.
Vậy nên đột nhiên hắn thấy mình đang chìm xuyên qua sàn.
Hắn quơ quào tìm chỗ bám víu, cố gắng với lấy thứ gì đó để giữ cho mình không lún sâu hơn. Tới khi Nelson giơ gậy ra, vừa giơ vừa cười khùng khục, hắn đã chìm tới ngực. Wallace túm lấy đầu gậy như thể đó là cọng rơm cứu mạng và kéo mình lên, chỉ để gần như ngay lập tức bắt đầu chìm xuống lần nữa.
“Đừng nghĩ tới cái sàn nữa,” Nelson bảo hắn.
“Tôi không thể ngừng được!” Thật ra, đó là tất cả những gì hắn nghĩ được tới. Còn tệ hơn nữa, hắn tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu hắn hoàn toàn rơi xuyên qua sàn, chỉ để đáp xuống mặt đất phía dưới và rồi xuyên qua cả đất.
Nhưng trước khi hắn chìm xuống tâm Trái đất chỉ để bỏ mạng (có lẽ là vậy) trong lõi dung nham, Nelson đã hỏi, “Lúc chết cậu có đau đớn không?”
Hắn chớp mắt, tay siết chặt đầu gậy. “Sao cơ?”
“Khi cậu chết ấy,” Nelson nói. “Có đau không?”
“Tôi... có đôi chút. Chuyện xảy ra nhanh lắm. Phút trước tôi còn đó, phút sau đã không còn. Tôi đã không hiểu chuyện gì đang xảy ra tôi không thấy chuyện ấy có liên quan gì tới—”
“Và khi cậu còn đó và rồi không còn nữa, điều đầu tiên hiện ra trong đầu cậu là gì?”
“Là chuyện ấy không thể là thực được. Là hẳn phải sai sót ở đâu đó. Thậm chí có khi chỉ là một giấc mơ tồi tệ mà thôi.”
Nelson gật đầu như thể đó là câu trả lời ông cụ mong đợi. “Điều gì khiến cậu nhận ra không phải mình đang mơ?”
Hắn lưỡng lự, tay siết chặt hơn trên gậy. “Điều gì đó mà tôi nhớ ra. Tôi đã nghe nói hoặc đọc được điều ấy. Rằng ta không thể thật sự thấy rõ mặt mình trong mơ.”
“À,” Nelson nói. “Và cậu đã nhìn rõ mặt mình.”
“Rõ như ban ngày,” Wallace nói. “Tôi có thể thấy vết hằn trên sống mũi vì đeo kính đọc sách, râu lún phún mọc trên cằm và má tôi. Đó là lần đầu tiên tôi bắt đầu nghĩ rằng có khi đây không phải là mơ.” Đó là một suy nghĩ thoáng qua, suy nghĩ mà hắn đã cố sức xua đuổi. “Và rồi...” Hắn khó nhọc nuốt khan. “Ở đám tang. Mei... tôi chưa từng thấy cô ta trước kia.”
“Chính xác,” Nelson nói. “Trí óc là một thứ kỳ lạ. Khi chúng ta mơ, tiềm thức của chúng ta không có khả năng tạo dựng những khuôn mặt mới từ hư không. Bất kỳ ai ta thấy trong mơ đều là người ta từng thấy trước kia, dù chỉ là đi ngang qua họ. Và khi ta tỉnh, mọi thứ rõ ràng vì chính mắt ta nhìn thấy chúng. Hoặc chính tai ta nghe, chính mũi ta ngửi. Khi ta chết rồi thì không giống vậy. Ta phải bắt đầu từ số không. Ta phải học cách đánh lừa bản thân tin vào những điều không mong đợi. Và nhìn mà xem. Cậu đã tin rồi đấy. Đấy là bước đầu tiên.”
Wallace cúi đầu nhìn. Một lần nữa hắn lại ngồi trên sàn. Sàn nhà có cảm giác vững vàng dưới thân hắn. Trước khi kịp nghĩ tới chuyện chìm xuống lần nữa, hắn nói, “Cụ vừa làm tôi phân tâm à.”
“Có tác dụng mà, phải không?” Ông cụ thu gậy về và tựa nó lên ghế. “Có ta là phước đời nhà cậu đấy.”
“Thế ạ?” Vậy nhưng hắn vẫn nghi ngờ việc ấy.
“Tất nhiên rồi,” Nelson nói. “Khi ta chết, ta phải tự mình tìm hiểu hết những việc này. Hugo không hài lòng với ta nhưng cũng hạn chế mấy lời cự nự đến tối thiểu. Dù sao thì nghĩa tử là nghĩa tận mà. Cũng phải mất thời gian. Việc này giống như học đi một lần nữa ấy.” Ông cụ khúc khích. “Ta cũng va vấp nhiều. Đánh vỡ vài tách trà, làm Hugo âu sầu. Nó thích mấy cái tách lắm.”
“Hình như anh ta có đam mê không lành mạnh cho lắm với trà thì phải,” Wallace lẩm bẩm.
“Nó thừa hưởng cái đó từ ta đấy,” Nelson nói, và suýt nữa thì Wallace thấy chột dạ. Suýt thôi. “Những gì nó biết đều là do ta dạy. Nó cần phải tập trung tư tưởng, và việc trồng trả cho nó sự tập trung ấy.”
“Tại sao cụ lại giúp tôi?”
Nelson nghiêng đầu. “Tại sao không nhi? Đó là việc nên làm mà.”
Wallace hoang mang. “Nhưng tôi sẽ không đáp lễ cụ cái gì cả. Tôi không làm được. Trong tình trạng này thì không.”
Nelson thở dài. “Đó quả là một cách nhìn đời quái lạ. Ta không giúp cậu vì mong đợi cậu cho ta thứ gì cả. Thật tình, Wallace ạ. Lần cuối cậu làm điều gì đó mà không trông chờ được đáp lễ là khi nào?”
Năm 1997. Wallace có một đống xu lóc xóc trong túi khiến hắn khó chịu. Một người đàn ông vô gia cư đang ăn xin ở góc phố gần văn phòng hắn. Hắn thả xu vào cốc của ông ta. Tổng cộng là bảy mươi bốn cent. Người đàn ông cảm ơn hắn. Mười phút sau, Wallace đã quên rằng ông ta tồn tại, mãi cho tới lúc này.
Hắn nói, “Tôi không biết nữa.”
“Hừ,” Nelson nói. “Thế thì đúng là... là thế đó. Cậu đã dẫn trước ta ở một điểm rồi.”
“Thật ư?”
Nelson hất cằm về phía cái đèn trên tường. “Làm chập cái bóng đèn đó. Làm vỡ bóng. Ta mất rất lâu mới gom góp được từng ấy năng lượng.”
“Tôi có định làm vậy đâu,” Wallace thú nhận. “Tôi không— tôi đã nổi giận.”
“Ta cũng thấy vậy.” Ông cụ lại cau mày. “Tốt nhất là cậu nên hết sức tránh tức giận. Làm vậy có thể gây ra đủ kiểu tình huống mà ta tốt nhất nên tránh gặp phải nếu có thể.”
Wallace nhắm mắt lại. “Tôi có cảm giác việc ấy nói dễ hơn làm đấy.”
“Phải,” Nelson đồng tình. “Nhưng cậu sẽ làm được thôi. Ít ra là sẽ được nếu cậu quyết định không đi qua cánh cửa kia.”
Mắt Wallace bật mở. “Tôi không muốn—”
Nelson giơ hai tay lên. “Có bảo cậu kiểu gì cũng phải bước qua đâu. Đến đúng thời điểm rồi cậu sẽ biết. Từ giờ tới lúc đó, ta sẽ giúp cậu hết sức mình. Và không, ta không mong đợi cậu đáp trả gì hết. Nhưng ta phải nói là thật vui khi có ai đó để trò chuyện đêm khuya thế này. Giúp giết thời gian ấy mà.”
“Nhiều năm rồi,” Wallace nói. “Cụ nói là cụ đã chết nhiều năm rồi.”
“Đúng vậy.”
Dạ dày Wallace quặn thắt một cách kỳ dị. Cảm giác ấy không giống lưỡi câu trên ngực hắn, dù thứ kia nóng bỏng hơn. “Đêm nào cụ cũng ngồi một mình ở đây ư?”
“Hầu như mọi đêm thôi,” Nelson nhẹ nhàng sửa lời hắn. “Thi thoảng có người như cậu tới đây, dù họ thường không ở lâu. Khoảng thời gian chuyển tiếp mà. Một chân còn đây, chân khác đã bước tiếp rồi.”
Wallace quay mặt về phía lò sưởi. Lửa đã gần tắt. “Tôi không muốn nói về chuyện đấy nữa.”
“À,” Nelson nói. “Dĩ nhiên là không rồi. Cậu muốn nói chuyện gì?”
Nhưng Wallace không trả lời. Hắn nằm xuống sàn và cuộn tròn người lại, hai tay khoanh trước ngực, đầu gối ép sát lên bụng. Lưỡi câu trên ngực hắn rung lên, và hắn ghét việc ấy. Hắn nhắm mắt lại, ước gì mình có thể trở về quá khứ khi mọi chuyện còn có lý. Suy nghĩ ấy làm hắn đau lòng hơn đã tưởng.
“Được thôi,” Nelson khẽ nói. “Chúng ta cũng có thể làm vậy. Cứ thong thả, Wallace ạ. Mọi người vẫn sẽ ở đây khi cậu sẵn sàng. Phải không nào, Apollo?”
Apollo gâu một tiếng, đuôi đánh nhịp lên sàn.
Chú thích:
[1] Phi nhị nguyên: từ gốc “Non-binary”.
[2] Post-traumatic stress disorder: chứng rối loạn stress hậu sang chấn.