Chương 8
Hắn lại mở mắt khi nghe tiếng chuông báo thức reo vang ở đâu đó trên lầu. Ngoài trời vẫn tối đen, và đồng hồ trên lò sưởi chỉ bốn rưỡi sáng.
Hắn chưa từng ngủ. Dù có cố đến đâu, hắn cũng không thể khiến mình thả lỏng. Tệ hơn nữa là hắn còn chẳng mệt mỏi chút nào. Hắn đã mơ màng, mà không hề thiếp đi. Hắn đã đảo đi đảo lại khoảnh khắc ngay trước lúc qua đời trong đầu, tự hỏi liệu mình đã có thể làm gì khác. Hắn không nghĩ ra được gì, và như vậy chỉ khiến tâm trạng hắn tồi tệ hơn.
Ống nước trong tường rền rĩ và cọt kẹt khi ai đó mở vòi sen trên kia. Theo tiếng nước chảy một tràng âu sầu khác lại tràn tới. Hắn sẽ không bao giờ tắm táp được nữa.
Mei là người đầu tiên đi xuống. Apollo đến chào cô, đuôi vẫy vẫy. Cô vừa ngáp sái quai hàm vừa gãi đầu chú chó. Cô không mặc âu phục như hôm trước nữa. Thay vào đó là quần tây đen và sơ mi trắng tinh dưới chiếc tạp dề giống cái Hugo đã đeo tối qua.
Nelson đã biến mất khỏi ghế. Wallace còn không nghe thấy tiếng ông cụ đi.
“Vì sao anh lại nằm trên sàn?” Mei hỏi.
“Vì sao chúng ta lại làm những việc chúng ta làm?” Wallace đờ đẫn nói. “Có ích gì đâu.”
“Ôi trời,” Mei nói. “Trời còn quá sớm để anh đau buồn nhân sinh mà. Ít ra để tôi tỉnh hơn rồi hẵng phiền phức vậy chứ.”
Hắn lại nhắm mắt.
Rồi mở ra khi cảm thấy có người bên cạnh.
Hugo đứng đó, nhìn xuống hắn, vẫn ăn mặc như hôm qua. Khác biệt duy nhất là mảnh khăn hồng rực buộc quanh đầu anh. Wallace còn không nghe thấy tiếng anh đi đến. Hắn lườm sợi cáp nối giữa hai người họ.
Hugo mỉm cười. “Chuyện gì đây nhỉ?”
“Sao anh bước đi lặng lẽ thế?” Wallace hỏi. “Anh nặng đâu như hơn tạ mà.”
“Không hề nhé,” Hugo phản đối, vừa cười khúc khích vừa vỗ vỗ bụng tròn. “Còn phải cố nhiều. Và anh không nghe thấy tôi đến vì anh không để ý thôi. Thôi nào. Dậy đi.”
“Tại sao chứ?” Hắn càng ôm chặt chân.
“Vì tôi muốn giới thiệu nhà bếp với anh.”
“Cái bếp thôi mà,” Wallace nói. “Khi đã thấy một cái, là thấy hết những cái còn lại rồi.”
“Cứ chiều ý tôi đi.”
“Tôi thật sự không thấy muốn làm điều ấy chút nào.”
Hugo gật đầu. “Tùy anh thôi. Apollo đâu.”
Móng vuốt lạo xạo cào lên sàn khi chú chó phóng xuyên qua tường kho. Nó đi lòng vòng quanh Hugo, hít ngửi bàn chân và cẳng chân anh. Khi đã kiểm tra xong, nó ngồi xuống cạnh Hugo, một bên tai cụp xuống.
“Bé ngoan,” Hugo nói. Anh hất cằm về phía Wallace. “Liếm đi.”
Wallace hốt hoảng, “Cái gì? Đợi đã, không được! Không được liếm! Không—”
Apollo hết sức điên cuồng liếm hắn. Lưỡi chó nhễu ướt mặt Wallace, rồi đến hai tay hắn khi hắn cố gắng bảo vệ mình khỏi việc chắc chắn là cấu thành hành vi loài chó tấn công người. Hắn thử đẩy con chó khỏi người, nhưng Apollo khá nặng. Hơi thở của nó thật khủng khiếp, và trong một khoảnh khắc, Wallace đã tự hỏi không biết hơi thở của chính mình thế nào vì hắn đã không đánh răng nhiều ngày rồi. Nhưng rồi mạch suy nghĩ ấy đứt đoạn một cách hoành tráng khi hắn mở miệng hét, chỉ để lưỡi chó quệt lên lưỡi mình.
“Á! Không! Tại sao! Tại sao chứ.”
“Apollo,” Hugo ôn tồn gọi.
Apollo lập tức lui bước, lại về ngồi cạnh Hugo, cúi xuống nhìn Wallace như thể hắn mới là tên khốn nạn trong tình huống này.
“Vào bếp chứ?” Hugo hỏi.
“Tôi sẽ phá sạch những gì anh yêu quý,” Wallace đe dọa.
“Câu đó có bao giờ dọa được ai không?” Giọng Hugo nghe có vẻ thật sự tò mò.
“Có. Lần nào cũng thành công.” Thật ra, hắn chưa từng dùng chính xác những từ ấy trước kia, nhưng người ta đã biết là phải sợ hắn. Những người làm việc cho hắn, những người không làm việc cho hắn. Đồng nghiệp. Thẩm phán. Vài đứa trẻ con, nhưng hạn chế nhắc đến chuyện ấy thì tốt hơn.
“Ồ,” Hugo nói. “Chà. Khi còn chưa làm vậy, anh nên đến xem mẻ bánh scone của tôi đi. Tôi tự hào về chúng lắm.”
“Bánh scone của anh ấy à?” Mei hét lên từ trong bếp. “Sao anh dám nói vậy!”
Hugo bật cười. “Anh thấy tôi phải đối phó với thế lực nào chưa? Dậy đi nào, Wallace. Anh không muốn nằm đó khi chúng tôi mở cửa đâu. Người ta sẽ giẫm hết lên người anh, và chẳng ai muốn bị vậy. Nhất là anh.”
Anh xoay người, đi vòng qua quầy rồi đẩy cửa bật vào bếp, Apollo lon ton bám gót.
Wallace vô cùng nghiêm túc nghĩ tới chuyện ở yên tại chỗ.
Cuối cùng, hắn đứng dậy.
Nhưng chỉ vì hắn chọn đứng dậy thôi đấy.
✽Căn bếp lớn hơn nhiều so với hắn tưởng. Đó là một nhà bếp song song: ở một bên là hai lò nướng công nghiệp cùng bếp lò với tám mặt kim loại khác nhau, gần như đều đang được sử dụng. Bên kia là bồn rửa và chiếc tủ lạnh khổng lồ nhất Wallace từng thấy. Phía cuối bếp là một góc ăn uống nhỏ có chiếc bàn đặt gần khu cửa sổ lồi trông ra vườn trà.
Mei đi qua đi lại hai quầy bếp với cái trán dính bột, cau mày nhìn mấy cái nồi sôi sục trên bếp rồi càu nhàu, “Thế này có đúng không nhỉ?” Cô nhún vai và cúi người nhìn vào từng cái lò.
Trên một mặt tủ đặt chiếc đài phát thanh, và Wallace sững sờ khi nghe tiếng nhạc heavy metal tuôn ra từ loa, ầm ầm khủng khiếp và... bằng tiếng Đức? Mei còn làm thứ nhạc ấy khó nghe hơn khi hát theo bằng giọng ồm ồm gớm ghiếc. Nghe cứ như thể cô đang cố gắng triệu hồi Satan vậy. Wallace sẽ không ngạc nhiên nếu cô đang làm đúng điều ấy. Và ồ, suy nghĩ ấy mới khơi nguồn một mạch suy nghĩ mà hắn còn không muốn cân nhắc tới.
Hắn giật mình khi thấy Nelson ngồi vào một trong mấy cái ghế quanh bàn, hai tay chống trên gậy. Ông cụ đã... thay quần áo? Bộ đồ ngủ và dép bông thỏ đã biến mất. Giờ ông đang mặc một chiếc áo len dày màu xanh lam cùng quần tây màu be và giày có quai dán dính. Và ông cũng đang gầm gừ theo điệu nhạc như thuộc từng chữ một.
“Ông làm việc ấy thế nào vậy?” Wallace hỏi.
Tất cả mọi người khựng lại nhìn hắn chằm chằm, Hugo còn đang thắt dở tạp dề.
“Làm gì cơ?” Mei vừa hỏi vừa vươn tay vặn nhỏ đài.
“Tôi không nói chuyện với— Nelson, ông làm thế nào vậy?”
Nelson nhìn quanh như thể còn Nelson nào khác ở trong bếp. Khi đã thấy là chẳng có ai, ông cụ hỏi, “Ta ấy à?”
Có lẽ chìm xuyên qua sàn không tệ đến vậy. “Phải, cụ đấy. Cụ thay quần áo rồi kìa!”
Nelson cúi xuống nhìn bản thân. “Tại sao ta không được thay? Đồ ngủ là để mặc ban đêm. Cậu không biết điều ấy à?”
“Nhưng— cái này— chúng ta chết rồi mà.”
“Chấp nhận rồi kìa,” Mei nói. “Tuyệt.” Cô lại bắt đầu điên cuồng khuấy hết nồi này tới nồi khác.
“Thì?” Nelson nói. “Chết rồi đâu có nghĩa là ta không muốn mình trông bảnh hết cỡ.” Ông cụ giơ chân đi giày lên, lúc lắc. “Cậu thích không? Chúng là giày quai dính, vì dây giày là dành cho lũ vô dụng.”
Không, Wallace không thích chút nào. “Làm sao mà cụ thay đồ được?”
“Ồ!” Giọng Nelson tươi rói. “Chà, đó là điều bất ngờ mà chúng ta nhắc tới đêm qua sau khi cậu chìm xuống sàn đấy.”
“Sau khi gì cơ?” Hugo hỏi, chân mày nhướn cao.
Wallace lờ anh đi. “Tôi có thể làm vậy không?”
Nelson nhún vai. “Ta không biết nữa. Cậu có làm được không?” Ông cụ giơ gậy lên rồi gõ xuống sàn. Và cứ thế, ông đã mặc một bộ âu phục kẻ sọc, không khác gì bộ Wallace treo trong tủ nhà mình. Ông lại gõ, và giờ thì đang mặc quần bò với áo khoác dày mùa đông. Ông gõ lần nữa, và thay vào một bộ lễ phục, cái mũ chóp cao ngộ nghĩnh đội nghiêng trên đầu. Đầu gậy một lần nữa gõ xuống sàn và ông đổi về bộ quần áo ban đầu, đi giày dán dính và vân vân.
Wallace há hốc miệng nhìn ông.
Nelson dương dương tự đắc. “Hầu như chuyện gì ta cũng giỏi vô cùng.”
“Kìa ông,” Hugo cảnh cáo.
Nelson đảo mắt. “Suỵt, cái thằng này. Để ta vui vẻ chút chứ. Wallace, tới đây nào.”
Wallace bước đi. Hắn dừng lại trước Nelson, ông cụ nhìn hắn từ đầu tới chân vẻ săm soi. “Ừ hử. Phải rồi. Khá là vậy. Ta thấy rồi. Thế này... thật không may.” Ông nheo mắt nhìn bàn chân Wallace. “Xỏ ngón à. Cá nhân ta chưa bao giờ dùng được thứ này. Móng chân ta quá dài.”
Wallace nhăn mặt. “Việc ấy nghe có vẻ không phải điều đáng để chia sẻ đâu.”
Nelson nhún vai. “Ở đây chúng ta không giấu nhau gì cả.”
“Chúng ta nên giấu thì hơn,” Hugo làu bàu, lấy một khay bánh sconce ra khỏi một trong mấy lò nướng. Chúng phồng và xốp, có ít nhân sô cô la đang chảy ra. Có lẽ Wallace đã để ý tới bánh trái nhiều hơn nếu tâm trí hắn không tuyệt đối bị sao lãng bởi việc hắn có thể thay đồ tùy hứng.
“Cụ làm việc ấy thế nào?” hắn hỏi.
Nelson chun mũi. “Cậu phải có mong muốn đủ mãnh liệt cơ.”
Wallace muốn thay quần áo hơn bất kỳ việc gì khác. Gần như là bất kỳ việc gì. “Đã xong. Còn gì nữa?”
“Có vậy thôi.”
“Cụ đang đùa tôi đấy à?”
“Ta nào dám,” Nelson cam đoan với hắn. “Hãy nghĩ tới trang phục cậu muốn mặc, cảm giác nó chạm vào da cậu như thế nào, mặc lên người cậu trông ra sao. Nhắm mắt lại đi.”
Wallace làm theo, cảm thấy hơi ngượng nghịu. Lần cuối Nelson bảo hắn làm này làm nọ, hắn đã nhảy tưng tưng theo vòng tròn. Bài hát kết thúc và một bài khác bắt đầu, bài này có vẻ còn gào thét nhiều hơn.
“Giờ thì, hãy hình dung một bộ trang phục trong đầu cậu. Bắt đầu bằng đồ gì đó đơn giản thôi. Quần âu và sơ mi chẳng hạn. Cậu không muốn thử với nhiều lớp đồ đâu, ít ra là chưa được. Sau này cậu sẽ làm được.”
“Được rồi,” Wallace thì thầm. “Quần tây và áo sơ mi. Quần tây áo sơ mi. Thấy rồi.”
“Cậu có thấy được bản thân mình không?”
Có. Hắn đang đứng trong phòng ngủ ở căn hộ của hắn, trước cái gương treo sau cửa. Tủ quần áo của hắn đang để mở. Trên đường phố dưới nhà, tiếng còi xe kêu vang, đàn ông và phụ nữ đội mũ bảo hộ lao động hò hét và cười nói. Một người hát rong chơi đàn cello ở góc phố. “Được. Tôi thấy được rồi.”
“Giờ thì, hãy biến nó thành thực đi.”
Wallace khổ sở hé một mắt. “Tôi nghĩ tôi sẽ cần nhiều chỉ dẫn hơn thế đấy.”
Hắn kêu lên khi cây gậy gõ lên ống chân mình. “Cậu đang mất tập trung.”
Hắn lại nhắm mắt và hít một hơi, chầm chậm thở ra. “Phải rồi. Tập trung vào. Quần tây áo sơ mi. Quần tây áo sơ mi.”
Và điều kỳ lạ nhất trần đời xảy ra.
Hắn cảm thấy da mình râm ran như thể có dòng điện công suất thấp bắt đầu chạy qua người hắn. Nó bắt đầu từ ngón chân, chạy lên cẳng chân và truyền vào ngực hắn. Lưỡi câu - luôn còn đó, và hắn đã dần quen với nó, việc này khiến hắn bực cả mình - khẽ xoắn vặn.
“Ôi trời,” Nelson nói trong khi Mei bắt đầu sặc sụa.
Wallace mở mắt ra. “Sao? Thành công không?”
“Ừm,” Nelson nói. Ông cụ hắng giọng. “Ta... nghĩ là có? Cậu có thường xuyên thấy mình mặc bộ này không? Không phải đánh giá gì đâu, dĩ nhiên là vậy. Cậu làm gì trong thời gian rảnh rỗi là việc riêng của cậu. Ta chỉ không biết liệu trang phục này có phù hợp với tiệm trà hay không thôi.”
“Sao—” Wallace nhìn xuống.
Hắn đã thay quần áo. Quần chạy bộ và áo phông và dép xỏ ngón đã biến mất.
Hắn bật ra một tiếng kêu tắc nghẹn khi thấy mình hiện đang mặc đồ bơi hai mảnh kẻ sọc chẳng che được gì mấy. Và không chỉ có quần bơi, không. Hắn cũng mặc cả áo bơi trên ngực, dây áo buộc quanh cổ hắn, đầu dây lủng lẳng thả sau lưng. Hắn đi chân đất, nhưng đó là vấn đề ít nghiêm trọng nhất. “Cái gì đây!” Hắn rít lên. “Cụ đã làm gì tôi thế này!”
Nelson hậm hực. “Việc này có liên quan gì đến ta. Do cậu cả đấy chứ?” Ông cụ nheo mắt nhìn Wallace. “Đây là trang phục cậu mặc lúc rảnh rỗi à? Trông có vẻ hơi... chật. Nhưng thôi, không đánh giá gì đâu.” Ông cụ nói dối, rõ ràng là vậy. Trong giọng ông là vô vàn phán xét.
Đây chính là lúc Wallace oán hận tại sao con người sau khi tiến hóa chỉ có hai tay. Hắn cố che đậy vùng giữa hai chân bằng một tay trong khi vô vọng áp tay kia lên ngực, như thể làm thế thật sự có tác dụng vậy.
Mei khẽ huýt sáo. “Anh mặc bộ đó đẹp hơn tôi tưởng đó. Thật ra tôi hơi ghen tị đấy. Mông anh xinh lắm.”
Hắn quay phắt lại, hai tay giờ đem che mông. Hắn lườm Mei. Cô mỉm cười ngọt ngào với hắn.
“Ông ơi,” Hugo nói.
Nelson cau mày. “Có phải ta đâu. Thật lòng ta chẳng trông mong rằng việc này sẽ thành công. Ta mất vài tháng mới tìm ra cách thay quần áo. Làm sao ta biết cậu ta sẽ làm được ngay lần thử đầu tiên kia chứ? Cậu ta giỏi làm ma phết đấy.” Ông cụ nhăn mặt, nhìn Wallace chằm chằm. “Có lẽ là hơi giỏi quá.”
Wallace tự hỏi việc hắn đứng trong căn bếp của một ngôi nhà nghiêng ngả ở nơi khỉ ho cò gáy mà không mặc gì ngoài đồ tắm nói lên điều gì về cuộc đời (và cái chết) của hắn.
“Không sao đâu,” Hugo dịu dàng nói trong khi Wallace nhìn quanh tìm thứ gì đó để che đậy cơ thể mình, chỉ để nhận ra rằng hắn thật sự không chạm được vào thứ gì cả. “Không phải lúc nào cũng thành công trong lần đầu tiên mà. Anh chỉ bị rối băng chút thôi.”
“Rối băng ư,” Wallace cằn nhằn. “Thứ này đang kẹt vào— tôi khắc phục chuyện này thế nào đây?”
“Ta không rõ cậu khắc phục được không nữa,” Nelson nói, giọng đầy nghiêm trọng. “Có thể cậu sẽ bị kẹt trong tình trạng này tới hết thời gian ở đây. Và sau đó nữa.”
Hugo thở dài. “Sẽ không như vậy đâu. Ông tôi đang đùa anh đấy. Anh phải thấy lần đầu tiên ông thay được quần áo kìa. Kết quả là mặc nguyên bộ Thỏ Phục Sinh.”
“Có cả giỏ và trứng nhựa cơ,” Nelson xác nhận. “Kỳ quái lắm, cái bộ đồ đó. Mấy quả trứng nhồi đầy súp lơ, thứ ấy thật gớm ghiếc, dĩ nhiên rồi.”
“Cụ đã biết là chuyện này sẽ xảy ra à,” Hắn gắt lên.
“Dĩ nhiên là ta không biết rồi,” Nelson trả lời. “Ta tưởng cậu sẽ đứng đó nhăn nhúm mặt mày hết ba mươi phút rồi bỏ cuộc.” Ông cụ khúc khích. “Kết quả này giải trí hơn nhiều. Ta rất mừng là cậu đã tới đây. Cậu rõ là biết cách làm nơi này sống dậy.” Ông cười nhăn nhở. “Hiểu không? Sống dậy ấy? Nói vậy thật hài hước vì cậu có sống đâu. Ôi, cái trò chơi chữ này. Ta yêu mi muốn chết.”
Wallace phải tự dặn lòng rằng từ góc độ luật pháp, việc hành hung người già bị phản đối (và phạm pháp), ngay cả khi người già đó xứng đáng bị hành hung. “Đổi quần áo của tôi lại đi!”
Nhưng trước khi Nelson kịp mở miệng— và không nghi ngờ gì là sẽ khiến mọi chuyện tồi tệ hơn, Wallace thầm nghĩ— Hugo đã nói, “Wallace, nhìn tôi này.”
Hắn nhìn anh. Hắn cảm thấy gần như không thể không làm vậy. Sợi cáp rung lên giữa họ.
Hugo gật đầu. “Không sao đâu. Chỉ vướng mắc chút thôi. Vẫn thường xảy ra mà. Có gì để buồn bực đâu.”
“Anh có phải người đang mặc bikini đâu,” Wallace nhắc nhở.
Hugo mỉm cười. “Phải, tôi nghĩ là không. Tuy vậy, cũng đâu đến nỗi nào. Chân anh đủ đẹp mà.”
Wallace rên rỉ trong khi Mei lại bắt đầu sặc lên sặc xuống.
Hugo giơ tay về phía ngực Wallace, ngón tay và bàn tay chỉ cách da Wallace vài phân. Lưỡi câu khẽ rung lên. Wallace hít sâu một hơi. Cơn giận của hắn, cùng cảm giác nhục nhã, đang dần phai nhạt. Hắn không thấy vui vẻ gì, không hẳn là vậy, nhưng hắn đang bình tĩnh lại. “Anh đang làm gì vậy?”
“Giúp anh,” Hugo nói, những nếp nhăn nhíu lại trên trán anh. “Nhắm mắt lại đi.”
Hắn làm theo.
Và kỳ lạ làm sao, hắn nghĩ mình cảm nhận được hơi ấm từ tay Hugo, dù việc ấy lẽ ra là không thể. Wallace chạm được vào chú chó, hắn chạm được vào Nelson và Mei (nhất là cô nàng), nhưng hắn không thể chạm vào Hugo. Dường như có những điều luật bất di bất dịch, những điều luật mà hắn mới chỉ bắt đầu biết đến dù chúng lố bịch đến vậy. Cảm giác râm ran kia quay về, chạy khắp trên da hắn. “Vạn vật sinh ra từ đất,” Hugo khẽ nói. “Năng lượng. Sự sống. Cái chết. Tất cả mọi thứ. Chúng ta sống dậy rồi chết đi và lại sống dậy lần nữa. Chúng ta đều bước đi trên những con đường khác biệt, nhưng cái chết chẳng thiên vị ai. Nó tới với tất cả mọi người. Chính cách tiếp nhận cái chết mới là điều khiến cho ta là chính mình. Tập trung vào, Wallace ạ. Tôi sẽ cho anh thấy mình nên nhìn đi đâu. Anh sẽ hiểu thôi. Tất cả những gì anh cần là một chút— đây rồi. Thấy chưa?”
Wallace mở mắt, nhìn xuống.
Dép xỏ ngón. Quần chạy bộ. Áo phông cũ mèm. Đúng như khi trước.
“Anh làm việc này thế nào vậy?” Hắn hỏi, kéo kéo áo.
“Tôi có làm gì đâu,” Hugo nói. “Anh làm đấy chứ. Tôi chỉ giúp anh tìm ra phương hướng thôi. Vui hơn chưa nào?”
Hơn nhiều chứ. Hắn chưa từng nghĩ rằng mình sẽ nhẹ nhõm đến vậy khi thấy đôi xỏ ngón này một lần nữa. “Tôi nghĩ là rồi.”
Hugo gật đầu. “Anh sẽ tìm ra cách thôi. Tôi tin anh.” Anh lùi lại một bước. “Đấy là nếu anh ở lại đây lâu dài.” Một biểu cảm kỳ lạ thoáng qua mặt anh, nhưng nó đã biến mất trước khi Wallace kịp lý giải. “Tôi tin chắc rằng dù mai sau có ra sao, anh cũng sẽ không phải lo lắng về những việc này đâu.”
Lời ấy nghe thật quỷ quái. “Người-người ta không mặc quần áo ở... Thiên đường à? Hay kiếp sau? Tôi gọi nơi đó là gì mới được?”
Nelson bật cười. “Ồ, ta tin là kiểu gì cậu cũng sẽ khám phá ra thôi. Biết đâu được đấy, có khi lại là một vương quốc khỏa thân khổng lồ cũng nên.”
“Thế à, thế thì gọi là Địa ngục rồi,” Wallace lầm bầm.
“Anh thấy chỗ bánh scone này thế nào?” Hugo hỏi, hất cằm về phía khay bánh trong lò.
Wallace thở dài. “Tôi không ăn bánh được, phải không?”
“Phải.”
“Vậy thì tại sao tôi lại quan tâm trông chúng ra sao?” Hắn sẽ không thú nhận rằng mình ngửi thấy mùi bánh, nồng đậm và ấm áp, vì mùi hương ấy khiến hắn thấy cô đơn. Thật kỳ lạ khi bánh scone có thể tác động đến hắn như vậy, gần như khiến hắn vươn tay ra và thất bại trong việc chạm vào thứ hắn không bao giờ ăn được.
Hugo nhìn xuống khay bánh rồi lại nhìn Wallace. “Vì trông chúng ngon quá. Không phải lúc nào vấn đề cũng là ta có thể ăn hay không, mà là công sức ta bỏ vào trong đó.”
Wallace giơ hai tay lên. “Nói thế chẳng— anh biết sao không? Được thôi. Trông chúng giống bánh scone đấy.”
“Cảm ơn anh,” Hugo nghiêm túc nói. “Nói vậy thật quý hóa quá.”
Wallace rên rỉ.
✽Vào đúng bảy giờ rưỡi, Bến Đò Charon mở cửa tiếp khách.
Wallace nhìn Hugo mở khóa cửa trước, lật biển trên cửa sổ từ ĐÓNG CỬA sang MỞ CỬA XIN MỜI VÀO! Hắn không biết có gì để trông mong nữa. Tiệm trà tách biệt hẳn khỏi thị trấn, và hắn nghĩ nếu có khách hàng, họ sẽ chậm rãi và lẻ tẻ bước vào từ sáng đến tối.
Vậy nên, cứ tưởng tượng nỗi kinh ngạc của hắn khi thấy khách khứa đợi sẵn ở ngoài mà xem. Ngay khi ổ khóa trong cửa lách cách xoay, cánh cửa mở ra, và dòng người ùa vào.
Vài người xếp hàng ở quầy, chào Hugo như thể họ đã quen biết anh từ lâu. Những người khác ngồi vào bàn, vừa dụi mắt cho tỉnh vừa ngáp dài. Họ mặc trang phục đi làm hoặc đồng phục dành cho chỗ làm của mình. Có những thanh niên đội beanie, cặp sách đeo trên vai. Hắn sửng sốt khi không có ai lập tức lôi laptop ra hay cúi đầu nhìn điện thoại.
“Không có WIFI,” Mei trả lời khi hắn hỏi. Cô đang hối hả trong bếp với vẻ thong thả được trui rèn mà ra. “Khi người ta đến đây, Hugo muốn họ nói chuyện với nhau thay vì dán mắt vào màn hình.”
“Dĩ nhiên anh ta sẽ muốn vậy rồi,” Wallace nói. “Đó là một trò của đám dân chơi, phải không?”
Mei chậm rãi quay lại nhìn hắn chằm chằm. “Xin hãy để tôi chứng kiến thời khắc anh nói điều ấy với Hugo. Tôi muốn thấy vẻ mặt anh ấy khi anh gọi anh ấy là dân chơi. Tôi cần hình ảnh ấy như cần thở vậy.”
Hugo nhập đơn vào máy thu ngân cũ kỹ của mình, nụ cười trên mặt chưa từng buông xuống khi anh bỏ bánh vào những túi giấy nhỏ hay mang ấm trà ra những bàn đang đợi. Wallace ở trong bếp, theo dõi anh qua ô kính trên cửa. Hắn đã định ra phòng ngoài, nhưng rồi lại ở yên chỗ này. Hắn tự nhủ rằng đó là vì hắn không muốn làm vướng chân ai.
Dù hắn cũng không thể làm vậy.
Nelson quay lại cái ghế đặt trước lò sưởi. Wallace để ý rằng không ai từng thử ngồi vào ghế đó, dù họ không thấy được rằng ghế đã có người ngồi. Apollo chạy vòng quanh từ bàn này sang bàn khác, đuôi ngoáy tít dù người ta lờ nó đi.
Tới lúc gần chín giờ cửa lại mở lần nữa. Một người phụ nữ bước vào. Bà ta mặc áo khoác dày, đằng trước cài cúc đến tận cổ. Bà nhợt nhạt và yếu ớt, dưới mắt có quầng thâm. Bà không đi tới quầy; thay vào đó, bà tới ngồi vào một bàn trống gần lò sưởi.
Wallace cau mày sau ô kính. Mất một lúc hắn mới nhớ ra bà ta. Hắn đã thấy bà đêm hôm trước khi Mei dẫn hắn tới Bến Đò Charon. Khi ấy bà đang vội vã rời khỏi tiệm trà.
“Ai kia?” Wallace hỏi.
“Ai cơ?” Mei đi tới bên cửa, kiễng chân lên nhìn qua ô kính cạnh hắn.
“Người phụ nữ ngồi gần Nelson ấy. Đêm qua bà ta có ở đây khi chúng ta tới nơi. Bà ta lướt qua ngay sát chúng ta ấy.”
Mei thở dài rồi thả gót xuống. “Đó là Nancy. Chết tiệt, bà ấy tới sớm quá. Thường bà ấy tới vào buổi chiều cơ. Hẳn là một đêm không ngon giấc rồi.” Cô nàng lau tay lên tạp dề. “Tôi sẽ phải ra đằng trước đứng thu ngân. Anh sẽ ở yên đây chứ?”
“Tại sao cô phải—” Hắn lùi lại khi Mei đẩy cửa đi ra. Hắn nhìn cô tới chỗ Hugo, thì thầm vào tai anh. Anh nhìn người phụ nữ ngồi ở bàn rồi gật đầu. Hugo đi vòng qua quầy, lấy một ấm trà khác và duy nhất một chiếc tách, đặt lên khay. Anh bưng chúng tới chỗ người phụ nữ. Bà không đếm xỉa gì đến anh khi anh đặt khay lên bàn. Bà tiếp tục nhìn ra ngoài cửa sổ trong khi siết chặt chiếc túi xách đặt trên đùi.
Hugo ngồi vào ghế trống ở bên kia bàn. Anh không nói gì. Anh rót trà vào cốc, hơi nóng nghi ngút bốc lên. Anh đặt ấm trà xuống khay rồi nâng tách lên và đặt nó lên bàn trước mặt người phụ nữ.
Bà mặc kệ cái tách, mặc kệ cả anh.
Hugo chẳng có vẻ gì là nản lòng. Anh đan hai tay lại trên bàn và chờ đợi.
Wallace tự hỏi liệu người phụ nữ này có phải một con ma khác, một linh hồn như hắn. Nhưng rồi một người đàn ông tới bàn đó, đặt tay lên vai Hugo và thì thầm. Ông ta gật đầu với người phụ nữ rồi bước ra cửa chính.
Họ cứ ngồi như vậy gần một tiếng đồng hồ. Người phụ nữ chưa từng uống tách trà được mời, và bà ta chưa từng mở miệng. Hugo cũng vậy. Cứ như thể họ chỉ đơn giản là tồn tại trong cùng một không gian mà thôi.
Khi dòng người ở quầy đã ngớt, Mei trở vào trong bếp. “Họ đang làm gì đấy?”
Mei lắc đầu. “Không phải— tôi nghĩ tôi không có quyền kể chuyện này.”
Wallace cười khẩy. “Ở đây chẳng có ai thật sự nói được điều gì rõ ràng à?”
“Có chứ,” Mei nói, mở một cánh tủ bếp và lấy ra một hộp nhựa đầy gói đường cùng kem lẻ. “Anh chỉ đang không nghe được điều anh muốn nghe thôi. Tôi biết việc này có thể khó hiểu, nhưng không phải chuyện gì cũng xoay quanh anh, Wallace ạ. Anh có câu chuyện riêng của mình. Bà ấy có câu chuyện của bà ấy. Nếu anh phải được biết chuyện ấy, thì anh sẽ biết thôi.”
Hắn cảm thấy như bị quở trách ra trò. Và tệ hơn nữa, hắn nghĩ cô nàng nói có lý.
Mei thở dài. “Anh được phép đặt câu hỏi mà. Thật ra, anh hỏi vậy là tốt lắm. Nhưng việc của bà ấy là giữa bà ấy và Hugo.” Cô bê cái hộp về phía cửa. Wallace tránh đường cho cô. Trước khi qua cửa, cô nàng ngừng bước, ngước lên nhìn hắn. Cô lưỡng lự một hồi. Rồi, “Hugo có lẽ sẽ cho anh thông tin chi tiết nếu anh hỏi, nhưng hãy biết rằng bà ấy đến đây là có lý do của bà ấy. Anh biết anh là ca đầu tiên tôi thực hiện một mình chứ?”
Wallace gật đầu.
Mei cắn cắn môi dưới. “Hugo có một Thần Chết khác trước tôi. Anh ta đã làm việc cùng Hugo từ khi anh ấy bắt đầu làm Người lái đò. Đã có nhiều chuyện... rắc rối xảy ra, và không chỉ liên quan tới Cameron. Thần Chết kia đã ép người vào lúc lẽ ra không nên ép, và đã phạm sai lầm. Tôi không biết anh ta, nhưng tôi đã nghe chuyện.” Cô vén tóc mái khỏi trán. “Chúng tôi ở đây để dìu dắt, để giúp đỡ Hugo và những người mình dẫn tới đây. Nhưng Thần Chết đầu tiên của anh ấy quên mất chuyện đó. Anh ta tưởng mình giỏi hơn Hugo. Và chuyện đã kết thúc không mấy tốt đẹp. Quản Lý đã phải nhúng tay vào.”
Wallace từng nghe qua cái tên đó trước đây. Nelson đã gọi gã là một thằng cha xấu tính. “Quản Lý à?”
“Tốt nhất là anh không nên biết ông ta,” Mei vội vã nói. “Ông ta là sếp của chúng tôi. Ông ta là người phân tôi tới chỗ Hugo và huấn luyện tôi trong việc gặt hái linh hồn. Ông ta không ở đây thì... tốt hơn. Chúng tôi không muốn ông ta chú ý đến mình đâu.”
Tóc gáy hắn dựng đứng lên. “Ông ta làm gì?”
“Quản lý,” Mei nói như thể lời ấy giải thích cho tất cả. “Đừng lo về chuyện đấy. Chẳng liên quan gì đến anh đâu, và tôi nghĩ anh sẽ không bao giờ phải gặp ông ta đâu.” Và rồi, cô hạ giọng, “Ít ra thì tôi hy vọng rằng sẽ không như vậy.” Cô đẩy cửa bước ra.
Wallace lại ngó ra ngoài khung kính, vừa lúc để thấy người phụ nữ - Nancy - trông như thể bà chuẩn bị nói. Bà mở miệng, rồi lại ngậm miệng. Môi bà mím lại thành một đường mỏng manh, tái mét. Bà đột ngột đứng dậy, cái ghế ken két trượt trên sàn. Âm thanh trong tiệm trà lặng xuống khi mọi người quay sang nhìn bà, nhưng bà chỉ nhìn Hugo. Wallace rụt người lại trước vẻ mặt cuồng nộ của bà. Mắt bà gần như thành một màu đen kịt. Hắn nghĩ bà sắp giơ tay đánh Hugo tới nơi. Bà không làm vậy, thay vào đó bước vòng qua bàn và đi về phía cửa.
Bà chỉ dừng bước khi Hugo nói. “Tôi sẽ ở đây. Luôn ở đây. Bất kỳ khi nào bà sẵn sàng, tôi sẽ ở đây.”
Vai bà rũ xuống khi ra khỏi Bến Đò Charon.
Hugo nhìn bà rời đi qua cửa sổ. Mei tới bàn, đặt tay lên vai anh. Cô khẽ lên tiếng, nói những lời Wallace không nghe ra được. Hugo thở dài, lắc đầu rồi thu dọn tách trà và đặt nó lại vào khay. Mei lùi lại khi anh đứng dậy, cầm khay lên bằng một tay và đi về bếp.
Wallace vội vã lùi lại, không muốn bị bắt quả tang là đang nhìn trộm. Hắn giả vờ săm soi máy móc khi cửa bật mở và Hugo vào bếp. Âm thanh trong Bến Đò Charon lại rộn ràng trở lại.
“Anh không cần phải ở yên trong này đâu,” Hugo nói.
Wallace ngượng nghịu nhún vai. “Tôi không muốn làm vướng chân ai.” Hắn biết lời này nghe ngớ ngẩn đến thế nào. Hắn hoàn toàn không biết làm thế nào để nói thành lời những gì hắn thật sự muốn nói, rằng hắn không muốn người ta đi qua đi lại quanh (hay, lạy trời, đi xuyên qua) hắn như thể hắn không hề có mặt ở đó.
Hugo đặt cái khay gần bồn rửa. “Khi còn ở đây nơi này là nhà anh cũng như là nhà chúng tôi vậy. Tôi không muốn anh cảm thấy tù túng.”
“Vậy nhưng là thế thật mà,” Wallace nhắc nhở anh, hất cằm về phía sợi cáp. “Nhớ không? Đêm qua lộn xộn ra trò còn gì.”
“Tôi nhớ mà,” Hugo nói. Anh cúi nhìn nước trà trong tách, lắc đầu. “Nhưng khi anh ở đây, anh có thể đi bất kỳ đâu anh muốn trong địa phận này. Tôi không muốn anh cảm thấy rằng mình không được đi lại.”
“Tại sao anh lại quan tâm liệu tôi có thấy tù túng hay không?”
Hugo liếc hắn. “Tại sao tôi lại không quan tâm chứ?”
Anh thật khiến người ta sốt hết cả ruột. “Tôi không hiểu nổi anh.”
“Anh có biết tôi đâu.” Lời này không mang ác ý, chỉ là khẳng định sự thật. Hugo giơ tay lên trước khi Wallace kịp cãi lại. “Tôi biết nói vậy nghe chối tai. Tôi không có ý xấc xược gì, tôi thề đấy.” Anh buông tay, cúi đầu nhìn khay. Trà đã nguội lạnh, nước sẫm lại. “Rất dễ để mặc cho bản thân nghĩ quẩn và sa ngã. Và tôi đã sa ngã suốt một thời gian dài. Tôi đã cố không để mình như vậy, nhưng tôi vẫn ngã. Mọi chuyện không phải lúc nào cũng như bây giờ. Đã từng không có một Bến Đò Charon thường trực ở đây. Tôi không phải lúc nào cũng là Người lái đò. Tôi từng phạm sai lầm.”
“Thật u?” Wallace không biết tại sao giọng mình nghe nghi hoặc đến vậy.
Hugo chậm rãi chớp mắt. “Dĩ nhiên rồi. Dù tôi còn đảm nhiệm chức vị nào khác hay làm công việc gì, tôi vẫn là con người. Lúc nào mà tôi chẳng có sai sót. Người phụ nữ ngồi đối diện tôi, Nancy, bà ấy...” Anh lắc đầu. “Tôi cố gắng làm một Người lái đò tốt nhất có thể vì tôi biết người ta trông cậy vào tôi. Tôi nghĩ đó là tất cả những gì bất kỳ ai có thể đòi hỏi ở mình. Tôi đã học được bài học từ sai lầm, ngay cả khi tôi tiếp tục mắc phải những lỗi mới.”
“Tôi không biết liệu lời anh nói có khiến tôi dễ chịu hơn không nữa,” Wallace nói.
Hugo bật cười. “Tôi không hứa trước được là mình sẽ không làm hỏng chuyện theo cách nào đó, nhưng tôi muốn đảm bảo khoảng thời gian anh ở đây được yên tĩnh và bình lặng. Sau tất cả mọi chuyện, anh xứng đáng được như vậy.”
Wallace ngoảnh mặt đi. “Anh có biết tôi đâu.”
“Đúng thế,” Hugo nói. “Nhưng đó là lý do tại sao chúng ta làm việc đang làm đây. Tôi đang tìm hiểu anh để biết giúp anh như thế nào là tốt nhất.”
“Tôi không cần anh giúp đỡ.”
“Tôi biết là anh nghĩ vậy,” Hugo nói. “Nhưng vẫn hy vọng anh nhận ra rằng mình không phải trải qua chuyện này một mình. Tôi hỏi anh một câu được không?”
“Nếu tôi từ chối thì sao?”
“Thì anh từ chối thôi. Tôi sẽ không ép anh làm việc anh chưa sẵn sàng làm.”
Hắn không biết mình còn gì để mất không nữa. “Được thôi. Hỏi đi.”
“Anh đã sống một cuộc đời tươi đẹp chứ?”
Wallace ngẩng phắt đầu dậy. “Sao cơ?”
“Đời anh,” Hugo hỏi. “Tươi đẹp không?”
“Định nghĩa tươi đẹp đi.”
“Anh đang lảng tránh câu hỏi đấy.”
Đúng vậy, và hắn ghét việc Hugo nhìn ra điều ấy dễ dàng đến thế nào. Việc ấy khiến da hắn ngứa ran. Hắn cảm thây mình bị phơi bày, tiết lộ những thứ hắn nghĩ mình sẽ không bao giờ sẵn sàng tiết lộ. Không phải là hắn đang che giấu điều gì: hắn quả thật chưa từng nghĩ về cuộc sống theo cách đó. Hắn thức dậy. Hắn đi làm. Hắn ở chỗ làm. Hắn làm việc, và hắn làm tốt việc của mình. Đôi khi hắn thua kiện. Đa phần thì không. Văn phòng của hắn thành công đến vậy là có lý do. Đời này còn gì ngoài thành công đâu? Không gì cả, thật đấy.
Được thôi, hắn không có bạn bè. Không có gia đình. Hắn không có cộng sự, không ai để khóc thương hắn khi hắn nằm trong cỗ quan tài đắt đỏ giữa một nhà thờ lố bịch, nhưng những điều ấy không thể là thước đo duy nhất cho một cuộc đời trọn vẹn. Vấn đề chỉ là góc nhìn mà thôi. Hắn đã làm những việc quan trọng, và đến cuối cùng, không ai có thể đòi hỏi gì hơn ở hắn.
Hắn trả lời, “Tôi đã từng sống.”
“Phải,” Hugo nói, tay vẫn cầm tách trà. “Đó không phải là câu trả lời cho câu hỏi của tôi.”
Wallace cau mày. “Anh có phải bác sĩ tâm lý của tôi đâu.”
“Anh cũng từng nói vậy,” anh nâng tách và đổ trà vào bồn rừa. Trông anh như đau lòng khi phải làm vậy. Chất lỏng sẫm màu tung tóe lên thành bồn tới khi Hugo mở vòi nước và dội trôi cặn trà.
“Anh... anh cũng cư xử thế này với những người khác ư?”
Hugo đóng vòi nước và nhẹ nhàng đặt tách trà xuống bồn. “Mỗi người mỗi khác, Wallace ạ. Không chỉ có một cách duy nhất để làm việc này, không có bộ luật đồng nhất bất di bất dịch nào áp dụng được với mọi con người bước qua cửa nhà tôi giống anh. Như vậy sẽ vô lý lắm vì anh không giống bất kỳ ai khác, cũng như họ chẳng phải là anh.” Anh nhìn ra cửa sổ trên bồn rửa. “Tôi không biết anh là ai hay là con người thế nào. Nhưng tôi đang tìm hiểu. Tôi biết anh sợ, và anh hoàn toàn có quyền cảm thấy vậy.”
“Rõ ràng là sợ rồi,” Wallace nói. “Làm sao không sợ cho được?”
Hugo khẽ mỉm cười khi quay sang phía Wallace. “Đó có lẽ là lời trung thực nhất anh từng nói kể từ lúc tới đây. Anh xem. Anh đang tiến bộ đấy thôi. Tốt quá rồi.”
Lời ngợi khen ấy lẽ ra không nên khiến hắn ấm lòng đến mức này. Hắn thấy mình không xứng, đặc biệt là khi hắn không muốn được khen ngợi như vậy. “Mei kể rắng anh từng làm việc với Thần Chết khác trước cô ấy.”
Nụ cười của Hugo tan biến và nét mặt anh đanh lại. “Đúng vậy. Nhưng chủ đề đó bị cấm ở đây. Chuyện ấy chẳng liên quan gì đến anh hết.”
Wallace lùi lại, và lần đầu tiên trong đời hắn muốn xin lỗi. Thật lạ kỳ, cái cảm giác ấy, và còn tệ hơn khi nói lời xin lỗi dường như lại khó khăn đến vậy. Hắn cau mày và cố gắng mở miệng. “Tôi... xin lỗi?”
Hugo sụm xuống, tay chống lên mặt bếp trước bồn rửa. “Anh không cần xin lỗi. Lẽ ra tôi không nên nói như vậy. Nếu tôi đặt câu hỏi với anh, anh cũng có thể hỏi lại tôi mới phải. Có một số chuyện tôi không muốn thảo luận, ít ra là chưa phải lúc này.”
“Vậy nếu tôi cảm thấy tương tự thì anh hiểu được rồi đấy.”
Hugo kinh ngạc ngẩng đầu. Nụ cười kia đã trở lại. “Tôi... đúng rồi. Được thôi. Tôi hiểu được việc ấy. Cũng công bằng thôi.”
Nói rồi, anh quay người và rời khỏi bếp, để lại Wallace nhìn chằm chằm bóng lưng anh.