← Quay lại trang sách

Chương 16

Suốt đêm hôm đó Alan im re.

Khi được bảo rằng hồn ma không cần phải ngủ nữa, cậu ta mỉm cười, miệng ngoác rộng đến nỗi khiến Wallace lạnh sống lưng.

“Cụ có chắc không đấy?” Wallace lầm bầm, nhìn Alan cảnh giác. Đó là ngày thứ ba họ tiếp đón vị khách mới, và Wallace vẫn không rõ mình thấy thế nào về thanh niên này. Từ khi bị Nelson gạt ngã ngửa ra, cậu ta đã... chà, không phải thay đổi, không hẳn vậy. Cậu ta đã bắt đầu theo dõi nhất cử nhất động của họ, và dù Alan không hỏi nhiều cho lắm, Wallace có cảm giác rằng cậu ta đang ghi nhớ mọi điều, không hẳn là một con thú hoang bị dồn vào góc tường đang chờ thời đánh trả, nhưng cũng gần như là vậy. Việc cậu ta chưa từng rời mắt khỏi Wallace khi hắn bắt đầu hạ ghế xuống vào mỗi sáng, sửa soạn sẵn sàng cho tiệm trà chào ngày mới, chắc chắn không làm hắn an tâm hơn chút nào. Mỗi khi Wallace cầm tiếp cái ghế khác, hắn cảm nhận được ánh mắt Alan dán lên mình. Ánh mắt ấy khiến hắn nổi da gà.

“Ta không tưởng tượng được thằng bé đó cảm thấy thế nào,” Nelson nói, thấp giọng phòng khi Alan cố nghe lỏm. “Ta biết nó có hơi gai góc—”

“Cụ cứ phóng đại lên đi. Thật đấy. Tôi thề mà. Đừng giảm tránh làm gì.”

“— nhưng có điều gì đó đặc biệt khủng khiếp trong cái chết mà nó đã trải qua.” Nelson lắc đầu. “Những nạn nhân bị giết hại gặp khó khăn nhiều hơn trong việc hiểu ra rằng cuộc đời mà họ quen thuộc đã kết thúc. Không giống như đối với ta và cậu đâu. Ta biết cậu thấy cái chết của mình là bất công, và đó là sự thật của cậu. Hãy nhìn nhận sự việc này từ góc nhìn của thằng bé mà xem. Nó không chết vì lựa chọn của chính mình, hay vì cơ thể nó ngừng hoạt động, mà vì ai đó cướp đi sinh mệnh khỏi tay nó. Đó là phạm pháp. Chúng ta phải xử sự một cách cẩn trọng, Hugo càng phải cẩn trọng hơn so với những người khác.”

Wallace thấy bồn chồn khi đặt cái ghế cuối cùng xuống, tai nghe tiếng Mei hát rống lên trong bếp. Hắn liếc qua ô kính và thoáng thấy Hugo đi qua đi lại. Họ đã không có dịp tiếp tục trò chuyện kể từ đêm gần nhất ngoài thềm, dù Walalce không rõ họ còn có thể nói gì hơn. Hugo cần phải tập trung tâm trí vào Alan, và Wallace đã chết rồi. Không có điều gì thay đổi được sự thật ấy. Nghĩ theo hướng ngược lại thì thật là lố bịch, hoặc Wallace tự nhủ là vậy. Khi đứng trước âm dương cách biệt thì những lời tỏ tình chẳng còn nghĩa lý gì hết.

Wallace chẳng bao giờ thích hỏi mấy câu nhỡ đâu.

Vấn đề trong việc này là Wallace đồng thời cũng là một kẻ dối trá, vì hắn càng ngày càng khó nghĩ nổi gì ngoài những cái nhỡ đâu.

Và thật nguy hiểm làm sao, cái tình trạng này. Vì Wallace đã ngồi thất thần trước lò sưởi cả đêm qua, hầu như không nghe thấy Nelson nói chuyện với Alan, bảo cậu ta rằng trước khi cậu ta thậm chí nghĩ đền chuyện làm những việc ông cụ và Wallace làm được, cậu ta phải tỉnh táo, phải tập trung lại. Wallace đang ở xa, xa mãi. Hắn thấy mình ở trong một thị trấn tí hon. Hắn đi lạc. Hắn phải dừng lại hỏi đường. Hắn tìm thấy một tấm biển nho nhỏ thú vị cạnh đường đất quảng cáo QUÁN TRÀ VÀ BÁNH BẾN ĐỒ CHARON. Hắn đi theo đường đó. Có lúc hắn lái xe. Lúc khác lại đi bộ. Dù sao đi nữa, đích đến của hắn không bao giờ thay đổi. Hắn tới ngôi nhà ở cuối đường đất, ngỡ ngàng vì một công trình như vậy có thể tồn tại mà không đổ sập. Hắn mở cửa bước vào.

Và ở đó, đứng sau quầy, là một người đàn ông buộc khăn màu chói lọi quanh đầu, trên mặt là nụ cười mỉm khẽ khàng.

Những việc xảy ra sau đó mỗi lúc một khác, dù cốt lõi thì đều như nhau. Đôi khi, người đàn ông sau quầy sẽ mỉm cười với hắn và nói, “Xin chào. Tôi đang đợi anh đấy. Tên tôi là Hugo, còn anh?” Những lúc khác, Hugo đã biết tên hắn từ trước (bằng cách nào thì không quan trọng; chút mơ mộng ngớ ngẩn cỏn con thì cần gì logic), và anh sẽ nói, “Wallace, tôi rất vui vì anh đã đến. Trông anh có vẻ cần đến chút trà bạc hà đấy.”

“Được,” Wallace sẽ trả lời. “Nghe tuyệt đấy. Cảm ơn anh.”

Và Hugo rót cho hắn một tách, rồi lại rót tách khác cho mình. Họ mang tách trà ra thềm sau nhà, tựa người lên lan can. Câu chuyện tưởng tượng này có những phiên bản khác mà trong đó họ không nói gì cả. Họ nhấp những ngụm trà và chỉ... đứng gần bên nhau vậy thôi.

Tuy vậy, còn có những phiên bản khác nữa.

Hugo sẽ nói, “Anh ở chơi bao lâu?”

Và Wallace sẽ trả lời, “Không biết nữa. Tôi chưa thật sự nghĩ tới chuyện ấy. Tôi còn không biết làm sao mình tới được đây. Tôi đi lạc mà. Kỳ quặc phết nhỉ?”

“Thật vậy.” Hugo liếc hắn, khẽ mỉm cười. “Có lẽ là số mệnh rồi. Có lẽ đây là nơi anh phải đến.”

Wallace sẽ không bao giờ biết phải nói gì với phiên bản này của anh, một Hugo trên vai không nặng gánh chết chóc này, và khi ấy Wallace có máu chảy trong huyết quản mình. Mặt hắn sẽ nóng ran lên, và hắn sẽ cúi đầu nhìn tách trà, khẽ lẩm bẩm rằng hắn không tin số mệnh lắm đâu.

Hugo bật cười. “Chẳng sao cả. Tôi sẽ tin vào đó đủ cho cả hai chúng ta. Uống trà của anh đi không nó nguội mất.”

Hắn giật mình khi Nelson búng ngón tay cách mặt mình vài phân. “Gì vậy?”

Nelson trông có vẻ khoái chí. “Cậu vừa đi đâu đấy?”

“Chẳng đâu cả,” Wallace nói, mặt nóng bừng.

“Ôi chà chà,” Nelson nói. “Có chuyện gì trong đầu mà cậu muốn đem ra thảo luận không?”

“Tôi không hiểu cụ đang nói gì cả.”

Nelson thở dài. “Ta không biết như thế nào thì tệ hơn. Rằng cậu tin là thế thật hay cậu không tin mà vẫn nói vậy?”

“Có quan trọng gì đâu.”

Nelson buồn bã mỉm cười. “Phải, ta cũng nghĩ là không.”

Ngày hôm ấy tiếp diễn như mọi khi, ngay cả khi trong tiệm trà có cảm giác căng thẳng hơn ngày thường. Chẳng phải là Alan đang đe dọa gì ai. Cậu ta không làm vậy. Thật ra, cậu ta hầu như chẳng nói năng gì. Thanh niên này đi loanh quanh trong tiệm như ngày hôm trước, nghe người ta nói chuyện, săm soi khách hàng. Có những lần cậu ta cúi xuống trước họ, chóp mũi chỉ cách mũi họ vài phân, hai tay chống lên mặt bàn. Không ai biết có gì không ổn, và thay vì trở nên tức giận hơn, trông Alan thật sung sướng, và không phải cái kiểu nhìn phát sợ hay đầy đe dọa. Đó là niềm vui sướng gần như con trẻ, nụ cười của cậu ta lần đầu tiên mang vẻ chân thật kể từ khi tới tiệm trà. Wallace có thể thấy con người có lẽ là cậu ta khi xưa, trước khi những quyết định đưa chàng trai trẻ này vào con hẻm ấy.

“Cứ như hồi cháu còn bé vậy,” Alan nói với Nelson. “Cụ biết cái hồi mình nghĩ muốn trở thành siêu anh hùng không? Như kiểu bắn tia laser từ mắt, hay bay được ấy. Cháu đã luôn muốn năng lực tàng hình.”

“Tại sao?” Nelson hỏi.

Alan nhún vai. “Vì nếu người ta không thấy được mình, họ sẽ không biết mình đang làm gì và mình có thể thoát được mọi tội lỗi.”

Và vào ngày thứ ba Alan tới đây, Nancy quay lại Bến Đò Charon.

Bà bước qua cửa như vẫn thường làm, miệng mím chặt, hai quầng thâm dưới mắt như hai vết bầm. Bà tới chiếc bàn mọi khi và ngồi xuống mà không nói gì với ai, dù vài vị khách trong tiệm trà gật đầu chào bà.

Hugo trở lại trong bếp, và trước khi cánh cửa kịp ngừng đung đưa, chúng đã lại mở ra khi Mei ra ngoài, đứng ở chỗ thu ngân.

“Người phụ nữ tội nghiệp,” Nelson thì thầm từ trên ghế. “Vẫn không ngủ được. Ta không biết bà ấy còn chịu được bao lâu nữa. Ước gì chúng ta có thể giúp bà ấy nhiều hơn.”

“Miễn là không dính dáng gì tới Desdemona,” Wallace nói. “Tôi không tin nổi là bà ấy—”

“Ai kia?”

Họ quay ra nhìn Alan. Cậu ta đứng giữa tiệm trà cạnh một bàn đầy những người ở tầm tuổi mình. Cậu ta đã lượn lờ quanh mấy thanh niên đó từ khi họ tới đây. Giờ cậu ta đã ngừng bước, mắt dán lên cái bàn cạnh cửa số và người phụ nữ ngồi ở đó.

Cậu ta dợm bước về phía bà. Wallace di chuyển trước cả khi hắn nhận ra điều ấy. Alan chớp mắt khi Wallace xuất hiện trước mặt mình, tay hắn ấn lên ngực cậu ta. Cậu ta nhìn xuống, cau mày, và Wallace thu tay lại. “Chú đang làm gì vậy?”

“Để bà ấy yên đi,” Wallace cứng nhắc nói. “Tôi không quan tâm cậu làm gì với bất kỳ ai khác ở đây, nhưng hãy tránh xa bà ấy ra.”

Mắt Alan nheo lại. “Tại sao?” Cậu ta nhìn qua vai Wallace rồi lại nhìn hắn. “Bà ấy cũng có thấy được tôi đâu. Ai quan tâm kia chú?” Cậu ta bắt đầu bước vòng qua Wallace nhưng ngừng lại khi bị hắn túm lấy cổ tay.

“Bà ấy không phải người chúng ta có thể đụng đến.”

Alan hất tay hắn ra. “Chú cũng cảm nhận được, phải không? Bà cô kia như... ngọn đèn chỉ lối vậy. Cháy bừng bừng. Tôi nếm ra được luôn. Bà ta bị sao vậy?”

Suýt nữa thì Wallace gắt lên rằng đó không phải việc của cậu. Hắn chỉnh đốn lại đường hướng vào phút cuối, dù việc hùa theo chút nhân tính của Alan nghe khôi hài tới mức lố bịch. “Bà ấy đang đau buồn. Con gái mất vì bệnh. Chuyện ấy. tệ lắm. Chi tiết thế nào không quan trọng. Bà ấy tới đây vì không biết phải đi đâu khác. Hugo ngồi với bà ấy, và chúng tôi để yên cho họ ngồi.”

Hắn vui mừng kinh ngạc khi Alan chậm rãi gật đầu. “Bà ấy đang lạc lối à.”

“Phải,” Wallace nói. “Và bà ấy có tìm được lối đi cho mình không không phụ thuộc vào chúng ta. Tôi đếch quan tâm cậu tới gần ai khác nhưng hãy để bà ấy yên. Ngay cả khi không ai nghe thấy chúng ta, cậu không muốn sơ sảy khiến cuộc đời bà ấy tệ hơn đâu.”

“Tệ hơn à,” Alan lặp lại. “Chú nghĩ tôi là người có thể khiến cuộc đời tệ hơn ư.” Cậu ta nghiêng đầu. “Hugo có kể cho bà ta nghe toàn bộ việc này không? Có phải đó là lý do bà cô kia đến đây, vì bà ta biết Hugo giúp con gái mình siêu thoát?”

“Không,” Wallace nói. “Anh ấy chưa kể. Anh ấy không được phép kể. Đó là một ràng buộc trong việc làm Người lái đò.”

“Nhưng anh ta có giúp con gái bà ấy siêu thoát mà,” Alan nói. “Và bằng cách nào đó, một phần trong bà ấy biết vậy, không thì bà ấy cũng không ở đây. Hugo làm người kiểu gì mà nói dối bà ấy như vậy? Và nếu một phần trong bà ấy biết chuyện thật, vậy tức là bà ấy không giống những người khác. Có khi bà ấy thấy được chúng ta. Có khi bà ấy thấy được tôi.”

Wallace lại chắn trước mặt Alan khi cậu ta cố vượt qua hắn. “Bà ấy không thấy được. Và kể cả có thấy được đi nữa, cậu không được phép khiến bà ấy khổ sở. Tôi không biết mình sẽ như thế nào ở vị trí của cậu. Tôi sẽ không bao giờ hiểu được những gì xảy ra với cậu, hoặc chuyện ấy có cảm giác ra sao. Nhưng cậu không được phép lợi dụng bà ấy để cố gắng khiến mình nguôi ngoai.”

Alan mở miệng định cãi nhưng ngừng lại khi Hugo đi qua cửa bếp. Tiếng rộn ràng trong tiệm trà vẫn tiếp diễn quanh họ, nhưng Hugo đang nhìn chằm chằm Wallace với Alan, trên tay là khay trà. Mei kiễng chân lên thì thầm điều gì đó vào tai anh. Anh không phản ứng gì. Cô nàng liếc họ, và nếu Wallace không biết cô, hắn sẽ không nghĩ gì nhiều về vẻ mặt vô cảm của cô. Nhưng hắn biết cô, và cô không vui chút nào.

Hugo đi vòng qua quầy, nở nụ cười cố định trên môi. Anh gật đầu với những người chào hỏi mình. Khi đi ngang qua chỗ Wallace và Alan, anh nói qua khóe miệng. “Xin hãy tránh xa bà ấy ra.”

Anh không dừng lại mà đi tiếp.

Nancy nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ khi Hugo đặt khay trà lên bàn. Bà không phản ứng gì khi anh rót trà vào tách. Anh đặt tách trước mặt bà rồi ngồi vào ghế ở phía đối diện, đan hai tay đặt lên bàn như vẫn thường làm.

Alan theo dõi họ, chờ đợi.

Khi không có chuyện gì xảy ra, cậu ta hỏi, “Anh ta đang làm gì thế?”

“Ở bên bà ấy,” Wallace nói, thầm mong Alan bỏ qua chuyện này. “Chờ cho bà ấy sẵn sàng lên tiếng. Đôi khi cách tốt nhất để giúp người ta là không nói gì cả.”

“Vớ vẩn,” Alan làu bàu. Cậu ta khoanh tay lườm Hugo. “Anh ta làm hỏng việc hay gì? Trông anh ta đầy vẻ tội lỗi. Anh ta đã làm gì vậy?”

“Nếu muốn kể với cậu, anh ấy sẽ kể. Mặc kệ chuyện ấy đi.”

Và thật diệu kỳ làm sao, Alan dường như đã nghe lời theo cách của riêng cậu ta. Cậu ta giơ hai tay lên trời rồi phăm phăm đi ra đầu kia phòng, về phía cái bàn có một nhóm phụ nữ ngồi.

Wallace vừa thở phào nhẹ nhõm vừa quay lại nhìn Mei.

Cô nàng gật đầu với hắn rồi đảo mắt.

“Thật,” Hắn nói. “Trẻ con bây giờ ấy mà.”

Cô che miệng húng hắng, nhưng hắn đã thấy được nụ cười nhoẻn lên.

Và lẽ ra chỉ có vậy. Lẽ ra như thế là xong chuyện.

Nancy ngồi đó, chẳng nói năng gì. Hugo chờ đợi, không bao giờ thúc ép. Tách trà đặt trước mặt bà, bị lờ đi. Sau một tiếng (hay có lẽ là hai), bà đứng dậy, ghế ken két cọ lên sàn, Hugo nói với bà rằng anh sẽ ở đây, luôn là vậy, vào bất kỳ khi nào bà sẵn sàng.

Và rồi bà sẽ ra về. Có lẽ bà sẽ quay lại ngày mai, ngày kia hay ngày kìa, hoặc có lẽ một hai ngày tới bà sẽ không đến.

Nancy ngồi vào ghế.

Hugo ngồi phía đối diện.

Sau một tiếng, bà đứng dậy.

Hugo nói, “Tôi sẽ ở đây. Luôn là vậy. Bất kỳ khi nào bà sẵn sàng, tôi sẽ ở đây.”

Bà đi về phía cửa.

Chấm hết.

Ngoại trừ Alan đã gào lên, “Nancy!”

Bóng đèn trong chụp đèn bùng lên.

Nancy khựng lại, tay đặt trên nắm đấm cửa.

“Nancy!” Alan lại gào lên, khiến Wallace chết điếng.

Nancy vừa quay người về phía giọng cậu ta vang lên vừa cau mày.

Alan nhảy lên nhảy xuống ở chính giữa tiệm trà, điên cuồng khua khoắng tay, kêu gào tên bà hết lần này tới lần khác. Bàn ở hai bên cậu ta xê dịch như thể ai đó đã va vào chúng, khiến trà sánh ra ngoài và bánh muffin đổ kềnh.

“Cái quái gì vậy?” Một người đàn ông hỏi, nhìn xuống mặt bàn. “Em có cảm thấy không?”

“Ừa,” bạn của anh ta, một người phụ nữ đánh son bóng màu hồng kẹo cao su, trả lời. “Bàn rung lắc mà, phải không? Gần như là—”

Các bàn lại nảy lên lần nữa khi Alan bước một bước về phía Nancy.

Nancy, tay siết chặt nắm đấm tới khi khớp ngón trắng bệch. “Ai đó?” bà hỏi, giọng âm vang, khiến tất cả mọi người quay ra nhìn mình.

“Ừa,” Alan hổn hển. “Phải. Tôi ở đây này. Ôi trời, tôi ở đây này. Nghe tôi nói này, bà phải—”

Wallace không nghĩ ngợi gì hết.

Phút trước, hắn là một cây trà, bất động.

Phút sau, hắn đã lại đứng trước Alan, tay bịt miệng cậu ta, răng cậu ta cọ lên lòng bàn tay hắn. “Dừng lại,” hắn rít lên.

Alan giãy giụa, cố đẩy hắn ra. Nhưng Wallace to lớn hơn cậu ta, và dù hắn gầy tong teo, hắn vẫn giữ chặt tay. Phía trên tay Wallace cặp mắt của Alan bừng bừng lửa giận.

“Chị gì ơi, chị không sao chứ?” một người phụ nữ hỏi Nancy, xoay người trên ghế để ngẩng lên nhìn bà.

Nancy không hề nhìn cô ta. Bà tiếp tục nhìn chằm chằm về phía Wallace và Alan, nhưng nếu có thấy họ, bà cũng chẳng phản ứng gì. Bà mở miệng như để nói tiếp, nhưng lại lắc đầu rồi ra khỏi cửa, sập nó lại sau lưng.

Alan hét vào lòng bàn tay đang bịt miệng cậu ta rồi xô Wallace mạnh hết sức. Wallace lảo đảo lùi lại, va vào cái ghế sau hắn. Người đàn ông ngồi trên ghế đó hoảng loạn nhìn quanh khi chân ghế ken két vạch lên sàn.

“Bà ta nghe thấy tôi,” Alan gằn giọng. “Bà ta nghe thấy tôi. Bà ta có thể—” Cậu ta không nói hết. Cậu ta vội vã ra cửa.

Hugo nói, “Nếu cậu ra khỏi cánh cửa kia, cậu sẽ đánh mất bản thân. Và tôi không biết làm cách nào để cứu vãn cậu đâu.”

Alan dừng bước, ngực phập phồng.

Im lặng bao trùm mọi ngóc ngách trong Bến Đò Charon.

Mọi người chậm rãi quay sang nhìn Hugo.

Nelson rên rỉ, hai tay ôm mặt trong khi Apollo gầm gừ với Alan.

“Đúng vậy!” Mei vui vẻ nói. “Bởi vì nếu không uống hết trà trước khi ra về, mọi người sẽ lo lắng cả ngày về những gì mình đã bỏ lỡ. Và chúng tôi không biết làm thế nào để cứu vãn tình hình đâu, vì trà hâm nóng lại là dở nhất. Phải không, Hugo?”

Hugo không trả lời. Anh nhìn chằm chằm Alan, không hề chớp mắt.

“Lạy trời, nghe lời cháu ta đi,” Nelson cáu kỉnh. “Ta biết chú mày không có tí ý thức nào, nhưng đừng có ngu như vậy. Mọi người đã kể những gì sẽ xảy ra nếu chú mày bỏ đi rồi. Chú mày muốn vậy à? Được thôi. Đi đi. Nhưng đã ra đi thì đừng mong ai trong chúng ta đuổi theo cứu vớt chú mày.”

Vai Alan sững lại thành một đường cứng đờ. Yết hầu cậu ta di chuyển khi cậu ta nuốt khan, mắt ướt nhòe và đầy mất mát. “Bà ấy nghe thấy tôi mà,” cậu ta thì thầm.

“Ô, kìa!” Mei ồn ào nói. “Tôi mới nhận ra rằng hôm nay là ngày Quốc Tế Trà Bánh Miễn Phí. Chúng ta phải ăn mừng đi thôi. Nếu có ai muốn một tách trà hay cái scone miễn phí, hãy sang đây và tôi sẽ chuẩn bị cho mọi người.”

Hầu hết khách khứa đều di chuyển về phía quầy, chân ghế lạo xạo trên sàn. Sau cùng thì, hoặc là tiếp tục nhìn chằm chằm anh chủ quán kỳ quặc của Bến Đò Charon, hoặc là lãnh đồ miễn phí. Đây có vẻ là một lựa chọn dễ ợt.

Cuối cùng, Alan lùi bước, dù Wallace vẫn cảm nhận được nỗi tức giận và tuyệt vọng tỏa ra từ cậu ta. Cậu ta quay người đi tới góc tít đằng kia trong tiệm trà, người rung bần bật trong khi tựa trán lên tường.

“Kệ nó đi,” Nelson khẽ nói. “Ta nghĩ nó đang hiểu ra những chuyện này có nghĩa là gì. Cho nó chút thời gian. Nó sẽ hiểu ra thôi. Ta biết chắc là vậy.”

Nelson đã lầm.

Phần còn lại của ngày hôm đó trôi qua trong mơ hồ.

Alan không rời khỏi góc tường. Không nói năng gì. Wallace mặc kệ cậu ta.

Mei đứng sau máy thu ngân, hai tay khoanh lại, theo dõi, theo dõi liên tục. Cô mỉm cười mỗi khi có người tới quầy gọi đồ, nhưng nụ cười ấy thật gượng ép, môi mím chặt.

Nelson ngồi yên trên ghế, gậy đặt ngang đùi, nhắm mắt, ngửa đầu ra sau.

Hugo đã vào trong bếp, Apollo lẽo đẽo theo sau, khe khẽ ư ử. Wallace muốn đi theo họ nhưng phát hiện ra mình đã đông cứng tại chỗ, suy nghĩ rần rần trong đầu.

Bà ấy nghe thấy tôi. Bà ấy nghe thấy tôi. Alan đã nói vậy.

Và cậu ta nói đúng. Wallace đã tận mắt chứng kiến điều ấy.

Hắn không biết phải làm gì với thông tin này, hay không làm gì cả.

Hắn ghét việc mình đang chú ý đến thông tin ấy đến mức nào, nó gần như khiến hắn cảm thấy hy vọng ra sao. Mei đã kể với hắn rằng Nancy có chút giống cô nàng, dù còn lâu mới mạnh bằng. Hắn không biết liệu năng lực này có liên quan đến việc con gái bà qua đời hay không— nỗi đau tự động biến hóa thành điều gì đó phi thường— hay bà đã luôn như vậy. Góc tối trong hắn tự hỏi liệu hắn có thể sử dụng việc này, theo một cách nào đó, sử dụng nó để người ta thấy và nghe được hắn và—

Hắn chặt đứt suy nghĩ của mình, lòng đầy khiếp sợ.

Không được.

Hắn không phải... hắn không bao giờ có thể làm một việc như vậy được. Hắn không phải Alan. Hắn không còn như thế nữa.

Phải không nào?

Hắn quay người đi về phía bếp.

Mei dõi theo từng bước chân hắn trong khi đang thanh toán cho một cặp đôi trẻ tuổi, mặt họ đỏ bừng khi chàng trai mỉm cười với cô bạn gái. “Đây là cuộc hẹn thứ hai của chúng tôi đấy,” chàng trai nói, và giọng cậu ta nghe thật kính sợ trước sự thật ấy.

“Thứ ba chứ,” cô gái nói, huých vai cậu ta. “Lần ở cửa hàng thực phẩm cũng tính.”

“Ồ,” chàng trai nói, và mỉm cười. “Vậy thì là thứ ba.”

Wallace đi xuyên qua hai cánh cửa và vào một căn bếp trống không.

Hắn cau mày. Họ đi đâu rồi? Hắn không nghe thấy tiếng động cơ xe máy nổ, nên hắn không nghĩ là Hugo đã đi ra ngoài, và kể cả anh có ra ngoài thì Apollo cũng không theo anh được. Họ hẳn phải ở đâu đó quanh đây thôi.

Wallace ra cửa, nhìn ra thềm sau nhà.

Ở đó, ngồi tựa vào lan can, chính là Hugo.

Apollo nằm cạnh chân anh, hai chân trước bắt chéo. Hai tai chú chó vểnh lên giật giật, đầu ngẩng lên trong khi nó chậm rãi chớp mắt nhìn Hugo.

Hugo, người trông như đầm đìa mồ hôi, nhịp thở hỗn loạn.

Wallace vội vã đi xuyên qua cửa, trong lòng hốt hoảng. Khí trời mùa xuân vẫn còn chút buốt lạnh dù những cây trà và cánh rừng sau tiệm đang hừng hực sức sống hơn bao giờ hết kể từ khi Wallace tới đây. Nơi này trông sẽ ra sao giữa mùa hè nóng nực nhỉ? Xanh rì, hắn nghĩ là vậy, xanh đến nỗi hắn nếm được cả sắc xanh ấy, một khung cảnh mà cho tới lúc này hắn mới biết rằng mình khắc khoải muốn ngắm nhìn. Thế giới bên ngoài Bến Đò Charon không ngừng tiến bước.

Hugo không hề mở mắt khi Wallace chậm rãi tới gần, nhưng vẫn giữ khoảng cách. Trông anh như đang cố gắng khống chế bản thân, hít vào bằng mũi và thở ra qua miệng. Khăn đội đầu của anh - hôm nay là màu tím, họa tiết sao nhí màu vàng - lệch đi trên đầu.

Apollo quay mặt sang, nhìn Wallace. Chú chó lại rên ư ử.

“Không sao đâu,” Wallace nói với nó. “Mọi chuyện đều ổn cả.”

Hắn giữ khoảng cách, dừng lại ở giữa thềm. Hắn mặc kệ mấy cái ghế, quyết định ngồi xuống ngay nơi mình đang đứng.

Hắn đợi.

Mất một lúc lâu, nhưng Wallace không giục giã. Hắn sẽ không làm vậy. Khi Hugo bị thế này thì không. Làm vậy chẳng có ích gì. Nên hắn ngồi đó, cúi đầu, nhịp nhịp ngón tay lên ván sàn phía dưới, tạo ra âm thanh nhỏ xíu để cho Hugo biết rằng hắn vẫn ở đây. Thịch. Thịch. Thịch. Khẽ khàng, dịu êm, nhưng là sự kết nối, là lời nhắc nhở. Thịch, thịch, thịch. Anh không chỉ có một mình. Tôi ở đây này. Thở đi. Thở đi. Hắn biết đây là chứng gì. Hắn đã từng chứng kiến tình cảnh này trước kia.

Hugo hít vào từng hơi đứt quãng, ngực phập phồng, mặt nhăn nhúm lại, ánh mắt mất tiêu cự, mụ mị. Và Wallace không nhúc nhích, không cố trò chuyện với anh. Hắn tiếp tục gõ lên thềm, giữ vững nhịp điệu, như một chiếc máy đếm nhịp.

Ngón tay Wallace hẳn đã đánh nhịp cả trăm lần cho tới khi Hugo lên tiếng. “Tôi ổn,” anh nói, giọng khản đặc.

“Được thôi,” Wallace thoải mái nói. “Nhưng nếu anh không ổn thì cũng không sao cả.” Hắn lưỡng lự. “Mấy cơn hoảng loạn không đùa được đâu.”

Hugo mở mắt, mắt anh ướt nhòe, đờ đẫn. Anh đưa tay xoa mặt, rên lên khe khẽ. “Đấy là nói giảm nói tránh đấy. Làm sao anh biết cách...” Anh khua tay về phía Wallace và khoảng cách giữa họ.

“Naomi từng bị vậy khi còn trẻ.”

“Vợ anh ư?”

“Vợ cũ,” Wallace vô thức sửa lời anh. “Cô ấy... tôi đã không hiểu chúng, hay những gì có thể kích phát chúng. Cô ấy đã giải thích với tôi, nhưng tôi không chắc là mình đã chú tâm lắng nghe. Chúng hiếm khi và lâu lâu mới xảy ra, nhưng khi đã tới, chúng hung hãn vô cùng. Tôi đã cố giúp cô ấy, cố gắng bảo cô ấy hít thở để vượt qua, và cô ấy...” Hắn lắc đầu. “Naomi kể với tôi rằng cứ như thể hàng tá bàn tay đang bấu víu lấy cô ấy, bóp nghẹt cô ấy vậy. Siết chặt hai lá phổi. Chứng này chẳng có logic gì, cô ấy nói vậy. Rất loạn. Cứ như thể cơ thể cô ấy đang chống lại chính mình vậy. Vậy mà tôi vẫn cho rằng cô ấy có thể gồng mình vượt qua nếu thực sự muốn vậy.”

“Giá như làm vậy là được.”

“Tôi biết mà,” Wallace đơn giản trả lời. Rồi, “Apollo giúp anh đấy.”

Apollo đập đập đuôi lên sàn khi nghe thấy tên mình.

“Đúng vậy,” Hugo nói. Trông anh mệt nhoài. “Ngay cả khi chó của tôi bị đá khỏi chương trình huấn luyện chó hỗ trợ, nó vẫn biết đấy. Cuộc sống càng khó khăn hơn với tôi, sau khi... chà. Sau khi mọi chuyện xảy ra. Tôi không biết làm cách nào để chấm dứt những cơn hoảng loạn. Tôi không biết làm sao để chống lại chúng. Tôi còn không tìm được từ ngữ để giải thích lúc ấy có cảm giác thế nào. Hỗn loạn là khá chính xác, tôi nghĩ vậy. Chứng lo âu là... một sự phản bội, cái đầu và cơ thể của tôi chống lại chính tôi.” Anh mỉm cười yếu ớt. “Apollo là một cậu bé ngoan. Nó biết chính xác mình phải làm gì.”

“Tôi có thể quay vào trong nhà,” Wallace nói. “Nếu anh muốn ở một mình. Vài người muốn vậy, nhưng Naomi muốn tôi ở gần cô ấy. Không chạm vào cô ấy, nhưng ở gần để cô ấy biết mình không đơn độc. Tôi sẽ gõ lên tường hay sàn, chỉ để cô ấy biết là tôi vẫn ở đó mà không lên tiếng. Làm vậy có vẻ đã giúp cô ấy, nên tôi đánh cược rằng với anh cũng sẽ như vậy.”

“Tôi rất cảm kích tấm lòng của anh.” Hugo lại nhắm mắt. “Thật khó quá.”

“Cái gì khó?”

Hugo nhún vai. “Việc này. Mọi thứ.”

“Nói vậy có hơi...”

“Mông lung?”

“Tôi đang định nói là chung chung.”

Hugo khịt mũi. “Chắc vậy.”

“Tôi đã không biết rằng công việc này ảnh hưởng tới anh nhiều như vậy,” Wallace thú nhận.

“Đây là cái chết đấy, Wallace ạ. Dĩ nhiên là ảnh hưởng nhiều rồi.”

“Không, tôi biết mà. Ý tôi không phải vậy.” Hắn ngừng lại, phân vân. “Tôi đoán là mình tưởng anh đã quen với việc ấy rồi.”

Hugo lại mở mắt. Mắt anh giờ đã tỉnh táo hơn khi nãy. “Tôi không biết liệu mình có bao giờ quen được không nữa.” Anh vừa càu nhàu vừa chuyển sang một tư thế thoải mái hơn. “Tôi không muốn nó ảnh hưởng tới tôi như vậy, nhưng không phải lúc nào tôi cũng ngăn được việc ấy. Tôi biết tôi đang phải làm gì, tôi biết công việc của mình là quan trọng. Nhưng điều tôi muốn và điều cơ thể tôi làm đôi khi khác hẳn nhau.”

“Anh là con người mà,” Wallace thì thầm.

“Đúng vậy,” Hugo đồng tình. “Và là mọi thứ kèm theo đó. Làm Người lái đò không có nghĩa là những phần khác trong tôi sẽ không còn tồn tại nữa, cả mụn cóc lẫn vân vân.” Rồi, “Anh muốn gì?”

Wallace chớp mắt. “Muốn đảm bảo rằng anh—”

Hugo lắc đầu. “Không phải việc ấy. Anh muốn gì, Wallace? Trong thời gian ở đây. Muốn gì ở tôi. Ở nơi này.”

“Tôi... không biết nữa?” Lời hắn nói làm chính hắn hoang mang. Có vô vàn, vô vàn điều hắn muốn, nhưng cái sau nghe còn tầm thường hơn cái trước. Và vấn đề là ở chỗ đó, không phải ư? Một cuộc đời gây dựng từ những điều vặt vãnh hóa thành quan trọng chỉ vì hắn ao ước là vậy.

Trông Hugo không thất vọng gì. Ngược lại, câu trả lời của Wallace dường như càng khiến anh bình tĩnh lại. “Không biết cũng không sao cả. Theo cách nào đó, không biết sẽ khiến mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn.”

“Dễ dàng hơn thế nào?”

Hugo đặt hai tay lên đùi. Apollo gối đầu lên hai chân trước, nhưng vẫn dán mắt vào Hugo, chậm rãi chớp chớp, đuôi quấn quanh hông. “Bởi vì sẽ khó hơn để thuyết phục người ta chấp nhận những gì họ cần thay vì những gì họ muốn. Chúng ta thường lờ đi sự thực vì không thích những gì nó cho chúng ta thấy.”

“Alan à.”

“Tôi đang cố đây,” Hugo nói. “Thật sự đang cố đây. Nhưng tôi không biết liệu mình có nói cho cậu ta hiểu được không. Mới chỉ vài ngày thôi, nhưng tôi đã cảm thấy cậu ta rời xa hơn so với khi mới đến đây.” Khóe miệng anh trễ xuống. “Cứ như thể vụ việc của Cameron đang lặp lại vậy, có điều còn tệ hơn vì chẳng ai đang cản trở công việc của tôi cả.”

Wallace giật mình. “Họ như vậy không phải là lỗi của anh?”

“Thật không? Họ tới chỗ tôi vì tôi là người lẽ ra phải giúp họ. Nhưng dù tôi có nói gì, có làm gì, họ cũng không thể nghe tôi. Và tôi không trách họ vì việc ấy. Cái này giống như một cơn hoảng loạn vậy. Tôi có thể cố gắng giải thích cho anh, nhưng trừ khi anh từng tự mình trải qua, không thì anh sẽ không bao giờ hiểu việc ấy có thể ác liệt đến mức nào. Và dù xung quanh tôi toàn là chết chóc, tôi không bao giờ hiểu được cái chết ảnh hưởng thế nào tới người ta vì tôi chưa từng chết.”

“Anh đã tốt hơn khối người rồi,” Wallace nói.

Hugo nheo mắt nhìn hắn. “Lại một lời khen ngợi nữa à, Wallace?”

“Phải,” Wallace thú nhận, giật giật gấu quần bò te tua của mình.

“À. Cảm ơn anh nhé.”

“Tôi không bao giờ có thể là anh.”

“Dĩ nhiên rồi,” Hugo nói. “Vì anh là anh, và đó là con người anh phải làm.”

“Ý tôi không phải vậy. Anh làm việc của anh, và tôi không thể tưởng tượng nổi công việc đó cực nhọc đến đâu. Tài năng anh sở hữu... nó vượt khỏi tầm với của tôi. Tôi nghĩ mình sẽ chẳng bao giờ có thể mạnh mẽ đủ để làm một Người lái đò.”

“Anh đang đánh giá thấp bản thân đấy.”

“Hoặc là tôi biết giới hạn của mình,” Wallace phản bác. “Biết mình làm được những gì, ngay cả khi lẽ ra tôi nên kiểm điểm lại một số lựa chọn mình đã làm ra.” Hắn ngừng lại. “Được rồi, có lẽ là rất nhiều lựa chọn đi.”

Hugo khẽ cụng gáy lên lan can. “Nhưng không phải đó là cuộc sống sao? Chúng ta nghĩ lại mọi việc vì đó là bản chất của chúng ta. Những người bị lo âu hay trầm cảm chỉ có xu hướng làm vậy nhiều hơn mà thôi.”

“Có lẽ Alan chính là vậy,” Wallace nói. “Tôi sẽ không giả vờ rằng mình hiểu hết về cậu ta. Tôi không hiểu. Nhưng đời thực mà cậu ta biết đã mất rồi. Mọi chuyện đã thay đổi. Cậu ta sẽ thấy được bản chất của anh thôi, rồi cũng sẽ thấy. Chỉ cần chút thời gian ấy mà.”

“Sao anh biết chắc được?”

“Vì tôi tin vào anh,” Wallace nói, cảm thấy cáu kỉnh và bị vạch trần. “Và toàn bộ con người anh. Khắp thế gian này không có ai như anh. Tôi không biết liệu mình có thể trụ lâu đến mức này mà không có anh không. Tôi còn không muốn nghĩ tới chuyện mình sẽ ra sao khi ở chỗ ông lái đò khác. Hoặc bà lái đò. Người lái đò?”

Hugo bật cười, vừa cười vừa trông thật kinh ngạc. “Anh tin vào tôi ấy à.”

Wallace gật đầu và ngượng nghịu khua tay. “Nếu đây là một trạm trung chuyển, nếu đây chỉ là một điểm dừng trên chặng đường, anh sẽ là phần tuyệt vời hơn trong đó. Ban đầu tôi không thấy như vậy. Nhưng anh đã thay đổi suy nghĩ của tôi. Tôi biết anh có thể làm điều tương tự cho Alan. Và kể cả nếu anh không làm được, tôi biết anh sẽ làm mọi điều trong khả năng của mình. Anh đang chiến đấu, Hugo ạ. Vì tất cả chúng tôi. Nhưng anh phải nhớ để chiến đấu cho chính mình nữa. Không có anh thì chẳng có việc gì ra hồn cả.” Hắn im lặng trong chốc lát. Rồi, “Hugo này?”

“Ừa?”

“Tôi cũng ao ước mấy điều.”

“Ví dụ như?”

Tính thật thà là một vũ khí. Ta có thể dùng nó để đâm và chém và khiến cho máu chảy đầu rơi. Wallace biết là vậy; tay hắn cũng đã vấy kha khá máu vì đức tính ấy. Nhưng giờ mọi chuyện đã khác xưa. Hắn đang dùng nó với chính mình, và vì nó mà hắn bị lột một tầng da, bao nhiêu mút thần kinh phơi bày cả ra.

Và có lẽ vì thế mà hắn nói, “Ước gì trước kia tôi đã tìm ra anh. Không phải ai đó như anh. Mà là anh.”

Hugo hít mạnh vào. Trong chốc lát, Wallace tưởng mình đã vượt qua lằn ranh nào đó, nhưng rồi Hugo nói, “Tôi cũng ước vậy.”

“Thật ngu ngôc, phải không?”

“Không, tôi không nghĩ vậy.”

“Giờ chúng ta làm gì đây?”

“Tôi không biết,” Hugo nói. “Bất cứ việc gì chúng ta có thể làm, tôi nghĩ vậy.”

“Tận dụng triệt để khoảng thời gian còn lại của chúng ta,” Wallace thì thầm.

Và Hugo nói, “Như thế là tuyệt nhất.”

Mặt trời chậm rãi di chuyển ngang qua bầu trời.

Vị khách cuối cùng ra về cùng cái vẫy chào vui vẻ. Mei quay vào trong bếp, Nelson ngồi trên ghế. Apollo ở gần bên Hugo như thể để đảm bảo rằng anh không tái phát. Alan vẫn đứng trong góc, vai so lên hai bên tai. Họ đã mặc kệ cậu ta, nhưng Wallace biết tình hình này không thể kéo dài, nhất là khi Nancy quay lại. Họ cần khiến cậu ta hiểu rằng không được đụng tới bà ấy. Wallace không mong chờ việc ấy chút nào.

Hugo lật tấm biển trên cửa sổ.

Đang chuẩn bị khóa cửa thì anh đông cứng lại.

“Ôi không,” anh thều thào. “Không phải lúc này chứ.”

“Chuyện gì vậy?’ Nelson hỏi. “Đừng nói với ta là chúng ta sắp có thêm khách nhé. Bây giờ là đang hơi chật rồi đấy.” Ông cụ lườm Alan.

“Không phải,” Hugo cụt lủn đáp.

Từ đằng xa, Wallace nghe thấy tiếng động cơ ô tô rì rầm chạy trên đường. Hắn tới bên cửa sổ. Ánh đèn pha đang tới gần. “Ai đấy?”

“Thanh tra y tế,” Hugo nói.

Nelson đột ngột hiện ra cạnh Wallace, khiến hắn ré lên. Ông cụ lờ hắn đi, ngó ra ngoài cửa sổ. “Lại nữa à? Nhưng thằng cha đó mới ở đây vài tháng trước mà. Thề, gã đó có thù với cháu đấy, Hugo ạ. Mau lên! Tắt hết đèn và khóa cửa lại. Có khi hắn sẽ bỏ đi thôi.”

Hugo thở dài. “Ông biết cháu không làm vậy được mà. Anh ta sẽ chỉ quay lại vào ngày mai và với tâm trạng tệ hơn thôi.” Anh liếc Nelson. “Lần này thì để anh ta yên đi.”

“Ta không hiểu cháu đang nói gì hết.”

“Ông ơi.”

“Thôi được,” Nelson cáu kỉnh nhận lời. “Ta sẽ cư xử đàng hoàng hết chỗ chê.” Ông cụ hạ giọng để mỗi mình Wallace nghe được. “Nhưng nhớ lấy lời ta, nếu gã định giở trò, ta sẽ nhét bút vào lỗ nhị của hắn.”

Wallace nhăn nhó. “Cụ làm vậy được hả?”

“Được chứ sao không. Và gã xứng đáng bị như vậy nữa. Chuẩn bị gặp thứ vô dụng nhất mà cậu từng gặp trong đời mình đi.”

“Tôi biết hàng trăm luật sư đấy nhé.”

Nelson đảo mắt. “Thằng cha này còn tệ hơn.”

Wallace không chắc mình đang mong chờ ai bước ra khỏi cái xe tí hon, nhưng người hắn thấy rõ ràng không giống vậy. Gã này trẻ hơn, khoảng tầm tuổi Hugo. Gã đẹp trai một cách lạnh lùng, dù bộ ria ghi đông kia khiến Wallace muốn thụi lên mặt gã. Gã mặc bộ âu phục sang chảnh - một bộ mà Wallace có thể sẽ mặc khi còn sống, đắt đỏ, cắt may hoàn hảo với dáng người, cà vạt kẻ ca rô - cùng nụ cười nửa miệng gớm ghiếc— hoàn thiện phong cách của gã. Wallace nhìn gã thò tay lại vào trong xe, lôi ra một tấm bìa kẹp. Gã lấy bút máy ra từ túi trong áo khoác, ấn ngòi bút lên lưỡi rồi bắt đầu ghi chép nguệch ngoạc.

“Gã đang viết gì vậy?” Wallace hỏi.

“Ai mà biết được,” Nelson nói. “Có thể là điều tệ hại gì đó chăng. Hắn luôn kiếm tìm từng chi tiết nhỏ nhặt để chống phá Hugo. Có lần hắn định nói rằng chúng ta có chuột trong tường. Cậu tưởng tượng nổi không? Chuột cơ đấy. Thằng cha tởm lợm.”

“Và đó là lỗi của ai chứ?” Hugo hỏi, lùi lại khỏi cửa mà không khóa.

“Của ta,” Nelson ung dung thú nhận. “Nhưng ta đang cố dọa hắn sợ, chứ không phải làm hắn nghĩ là chúng ta có giống gặm nhấm ở đây.” Ông cụ cao giọng. “Mei. Mei ơi. Chúng ta có khách này.”

Mei xông ra khỏi cửa, một tay cầm cái nồi đầy bọt xà phòng, tay kia cầm con dao chặt thịt. “Ai cơ? Chúng ta bị tấn công à?”

“Phải,” Nelson nói.

“Không phải,” Hugo lớn tiếng. “Chúng ta không bị tấn công. Là thanh tra y tế.”

Mei thảng thốt. “Lại nữa à? Chúng ta đang bị tấn công thật rồi. Khóa cửa lại đi! Có khi gã sẽ nghĩ chúng ta đi vắng!” Cô nàng khua khoắng con dao chặt thịt tới khi liếc thấy Alan, người đang nhìn cô đầy cảnh giác. Cô giấu nó ra sau lưng. “Tôi không cầm dao. Cậu đang bị ảo giác thôi.”

“Em đang nhỏ nước lên sàn kìa,” Hugo bảo cô. “Hắn sẽ lấy đó làm cớ để phán xét chúng ta đấy.”

Mei vừa gầm gừ vừa quay ngoắt lại và chạy vội vào bếp. “Cầm chân gã lâu hết mức có thể. Em sẽ đảm bảo là mọi thứ trong này đều gọn gàng trước khi gã vào đây.”

“Không phải trong đó vốn nên gọn gàng rồi à?” Wallace hỏi.

“Dĩ nhiên là gọn rồi,” Nelson nói khi thanh tra y tế kéo một mẩu sơn tróc ra dọc lan can bậc tam cấp. “Nhưng thằng cha đó sẽ không thấy vậy. Cậu nên thấy vẻ mặt gã lúc gã đến đây lần đầu tiên. Ta tưởng gã lên cơn đau tim đến nơi khi thấy Apollo.” Ông cụ liếc Wallace. “Nói thế có hơi sớm không hay...”

Wallace lườm ông cụ. “Cụ chẳng vui tính chút nào.”

“Ta vui tính thật mà.”

Wallace lại nhìn ra cửa sổ. “Tôi không thấy có gì tệ đến vậy cả. Chắc chắn là gã chỉ muốn đảm bảo rằng tiệm trà sạch sẽ, phải không? Tại sao gã lại có thù với Hugo kia chứ?” Một suy nghĩ u ám lướt qua trong đầu hắn. “Trời ạ, có phải vì anh ấy là người da đen không? Cái gì không ghét—”

“Ồ, không,” Nelson nói. “Không phải lý do gì ghê tởm đến vậy đâu.” Ông cụ nghiêng người tới, hạ giọng. “Có lần gã mời Hugo đi chơi. Hugo từ chối. Thanh tra y tế không vui vẻ với câu trả lời ấy và đã hành hạ chúng ta từ đó trở đi.”

Mi dưới mắt phải Wallace giật giật. “Cái gì cơ.”

Nelson vỗ vỗ vai hắn. “Ta biết cậu sẽ có cùng quan điểm với ta mà.”

“Mei!” Wallace hò hét. “Mang dao trở lại đây!”

Mei lại tông cửa chạy ra, giờ mỗi tay cầm một con dao.

“Không dao kéo gì hết!” Hugo quát.

Cô quay người và lại phăm phăm trở vào trong bếp.

Cửa Tiệm và Bánh Bến Đò Charon mở ra.

“Hừmm,” thanh tra y tế cau mày, vừa nói vừa nhìn ngó xung quanh. “Khởi đầu không thuận lợi lắm, phải không nhỉ, Hugo?” Giọng gã nghe như đang bắt chước thứ giọng Anh quốc tồi tệ nhất mà cả thế giới từng nghe qua. Wallace lập tức căm ghét gã, tự nhủ rằng cảm xúc này không liên quan gì tới việc thằng cha này rõ ràng là muốn leo lên người Hugo như leo cây vậy. Dù gã không thấy được hắn, Wallace vẫn sẽ giữ thái độ chuyên nghiệp tột bậc của mình.

“Harvey,” Hugo điềm tĩnh nói.

“Harvey?” Wallace thốt lên. “Tên gã là Harvey? Thật kinh tởm!”

Hugo ho sù sụ.

Harvey nhìn anh chằm chằm.

Hugo giơ tay lên. “Xin lỗi nhé. Có gì đó kẹt trong họng tôi.”

“Tôi có thể hiểu điều ấy,” Harvey nói. “Có lẽ là cả đống bụi dường như đang phủ lên nơi này. Tôi hy vọng lần này anh đã nỗ lực hơn trong việc giữ mọi thứ sạch sẽ.” Hắn cảnh vẻ khịt mũi. “Ít ra chúng ta không phải lo về con chó lai kia nữa. Da vụn của thú cảnh ở quanh cả đống thức ăn kia ư? Cá nhân tôi thấy thật vớ vẩn muốn chết.”

Apollo giận dữ sủa, nước dãi văng ra từ mõm chú chó và đáp hết lên sàn.

“Quê hắn ở Seattle,” Nelson thì thầm. “Tới London một lần vào vài năm trước và khi về thì ăn nói như vậy đấy. Chẳng ai biết tại sao nữa.”

“Vì hắn là một tên lố bịch,” Wallace nói. “Rõ là vậy rồi.”

Hugo vẫn giữ bình tĩnh, bất chấp những lời xúc phạm chú chó của mình. “Tôi tin là anh sẽ thấy rằng mọi thứ đều đâu vào đấy, y như lúc anh đến đây vào tháng hai vậy. Nhắc đến chuyện ấy, sao anh quay lại sớm vậy?”

Harvey điên cuồng nguệch ngoạc lên bảng kẹp. “Tôi là thanh tra y tế. Tôi đang kiểm tra. Và tôi sẽ là người đánh giá xem mọi thứ có đâu vào đấy không. Đó là mục đích của những cuộc kiểm tra đột xuất mà. Để không cho các anh che giấu bất kỳ... vi phạm nào.” Gã đi về phía tủ bánh, không hay biết rằng ba con ma (cộng một con chó ma) đang nhìn theo hắn với đủ cung bậc thù địch. Wallace không biết tại sao trông Alan lại cáu kỉnh đến vậy, trừ khi đó là thiết lập căn bản của cậu ta.

Harvey dừng bước trước tủ bánh, cúi xuống ngó vào bên trong. Trong tủ vẫn sạch đẹp như mọi khi, ánh sáng dịu dàng và ấm áp rọi lên những chiếc bánh thừa trong ngày, dù chẳng còn lại mấy cái. “Mei đang ở trong bếp, phải không? Bảo cô ta ngừng mọi hoạt động ngay lập tức đi. Tôi không muốn nghĩ rằng cô ta đang che giấu bất kỳ tội ác chống lại nhân loại nào như vẫn quen làm.”

Mei hiện ra ở một trong hai ô kính, trên mặt là vẻ cuồng nộ toàn tập. “Tội ác? Tội ác ư? Vào đây mà nói vậy trước mặt bà đây này, cái thứ—”

“Cô ấy đang làm những việc thường làm vào cuối ngày,” Hugo ôn hòa nói. “Như anh biết đấy thôi.”

“Rõ là vậy rồi,” Harvey làu bàu. Gã đứng thẳng dậy, một lần nữa lại múa bút trên bảng kẹp. “Tôi không phải quân thù gì ở đây, Hugo ạ. Tôi không bao giờ muốn thấy nơi này đóng cửa cả. Tôi lo sợ việc bị tống cổ ra đường nếu tôi đóng cửa tiệm trà của anh sẽ ảnh hưởng thế nào tới Mei. Cô ta khá là... mong manh.”

Hugo kịp thời đứng vào trước hai cánh cửa để chặn không cho Mei xông ra ngoài. Anh rên lên khi cửa đập lên lưng, nhưng ngoài ra chẳng có phản ứng nào khác.

Harvey nhướn một bên mày.

Hugo nhún vai. “Hôm nay cô ấy hoạt bát ghê.”

“Hoạt bát ư? Bà sẽ cho mày thấy hoạt bát là thế nào, thứ to xác—”

Harvey thở dài rõ to. “Nóng tính quá, nóng tính quá. Dù chỉ là thanh tra y tế, tôi nghĩ chức vụ này cũng cho phép tôi nhận xét về sức khỏe tinh thần nữa. Tinh thần của cô ấy có vẻ như đang chạm đáy rồi. Tôi đề nghị rằng cô ấy phải được thăm khám ngay tức thì.”

“Sao mà chưa ai đấm thẳng mặt hắn nhỉ?” Wallace hạch hỏi.

“Hugo nói chúng ta không được làm vậy,” Nelson nói.

“Chuẩn không cần chỉnh.” Giọng Hugo đều đều.

“Thật à?” Harvey nói, nghe có vẻ giật mình. “Chà cảm ơn anh nhé, Hugo. Tôi tin rằng đây là lần đầu tiên anh đồng tình với tôi.” Gã mỉm cười, và Wallace thấy nổi hết cả da gà. “Thái độ này hợp với anh lắm đấy.” Gã khệnh khạng đi tới quầy. “Hợp cả tôi nữa.”

“Ôi trời ơi,” Wallace oang oang cảm thán. “Ăn nói kiểu đó thì cưa đổ được ai? Hugo, đá vào bi hắn đi.”

“Tôi nghĩ tôi không làm vậy được đâu,” Hugo nói, không hề rời mắt khỏi Harvey.

“Tại sao không?” Harvey và Wallace đồng thanh hỏi.

“Anh biết tại sao mà,” Hugo nói.

Harvey thở dài trong khi Wallace sốt ruột vung tay lên trời. “Rồi tôi sẽ khiến anh phải đầu hàng,” Harvey nói. “Anh cứ chờ mà xem. Giờ thì, quay trở lại công việc trước mắt. Tôi phải đút nhiệt kế của mình vào nhiều nơi lắm đây.” Gã ngúc ngoắc lông mày.

“Uầy,” Wallace nói. “Như thế là quấy rối tình dục. Chúng ta sẽ kiện gã. Chúng ta sẽ kiện gã tán gia bại sản, mọi người cứ chờ mà xem. Tôi sẽ soạn thảo giấy tờ ngay khi— ồ. Phải rồi. Tôi chết rồi mà. Chết tiệt. Đừng để gã đút nhiệt kế vào bánh nướng của anh!”

Lông mày Hugo nhướn lên gần tận vành khăn.

Harvey nhấn ngón tay lên quầy, quệt ngang bề mặt rồi rụt về và săm soi đầu ngón tay. “Không một vết bẩn,” gã nói. “Được đấy. Nhà sạch thì mát bát sạch ngon cơm, như tôi thường nói đấy.”

Wallace nghẹn họng khi Apollo đứng cạnh Harvey, ghếch chân lên. Một dòng nước tiểu tưới lên giày Harvey. Chú chó trông thật tự mãn khi tung tăng chạy đi, còn Harvey vẫn không hay biết gì.

“Chó ngoan,” Nelson trìu mến gọi. “Là chú mày đấy. Là chú mày đấy. Mày đã tè khắp người kẻ xấu như một chú chó ngoan ơi là ngoan.”

Harvey nói, “Ta đi xem trong bếp có gì thôi, nhỉ? Có lẽ anh nên cân nhắc việc bảo Mei rời khỏi hiện trường. Lệnh bắt giữ tôi yêu cầu đối với cô ta bị bãi bò vì hoàn toàn thiếu bằng chứng không có nghĩa là cô ta vẫn có thể bước vào phạm vi ba mét quanh tôi. Sau những gì xảy ra năm ngoái thì không.”

“Ụp một bát đầy kem bánh lên đầu thằng cha đó,” Nelson kể với Wallace. “Kêu là do lỡ tay. Không phải đâu.”

Wallace thấy yêu quý Mei đến lố bịch vì những lý do không liên quan tới tình huống hiện tại của họ. Hắn bắt đầu đi theo họ vào bếp khi Hugo đẩy cửa ra nhưng khựng lại khi nghe thấy tiếng thở hổn hển sau lưng. Hắn quay lại và thấy Alan bước ra khỏi góc nhà, hai tay siết lại thành nắm đấm, trên mặt là vẻ vô cảm quái lạ.

“Gã trông y hệt tên kia,” Alan nói một mình, ánh mắt xoáy sâu vào Harvey. “Trông y hệt tên kia.”

“Ai cơ?” Wallace hỏi.

Nhưng Alan lờ hắn đi.

Đèn trên tường sáng bùng lên cùng tiếng điện chạy rè rè.

Harvey ngoái đầu lại qua vai. “Cái gì đấy? Chuột cắn dây điện nhà anh hả, Hugo? Anh biết như thế là... không...” Gã cau mày, xoa ngực. “Ồ. Trong đây nóng nhỉ? Thấy như kiểu—”

Những lời gã định nói đã im bặt khi bảng kẹp và bút trượt khỏi tay gã, lạch cạch rơi xuống sàn. Gã lảo đảo lùi lại, mặt tái dần.

Mắt Hugo mở trừng trừng. “Alan, đừng.”

Đã quá muộn. Trước khi bất kỳ ai kịp phản ứng, bóng đèn trên trần và tường đồng loạt nổ tung, thủy tinh rơi như mưa quanh họ. Harvey co giật như một con rối bị giật dây, đầu ngửa ra sau. Hai cánh tay gã nâng lên hai bên, bàn tay xòe ra, ngón tay run rẩy.

Alan vừa nghiến răng vừa tiến thêm bước nữa.

Harvey bay lên vài tấc cách sàn, mũi giày chúc xuống. Alan giơ tay về phía gã, lòng bàn tay ngửa lên trời. Cậu ta nắm hết ngón tay lại trừ ngón trỏ, và trong khi Wallace đứng nhìn, ngúc ngoắc ngón tay ấy tới lui như đang vẫy gọi.

Harvey lững lờ trôi về phía cậu ta ngay cả khi Hugo thét lên gọi Mei.

Lòng trắng mắt Harvey sáng rực trong ánh sáng tù mù. Gã ngừng di chuyển, bị treo lơ lửng, trước mặt Alan. “Trông mày y hệt tên kia,” Alan lại thì thầm. “Gã kia. Trong hẻm. Rất có thể là mày.”

Hugo đã vòng ra trước quầy ngay cả trong khi cửa bếp bật mở, Mei lao ra, gõ ngón tay lên lòng bàn tay.

Alan nói, “Lùi lại,” và Wallace hô lên khi Hugo và Mei bị ném ra xa khỏi cậu ta, hai người dập lên hai bức tường đối nhau, làm khung ảnh gỗ nứt toác. Apollo nhào tới Alan, nhe răng, và kêu anh ách khi Alan vẫy bàn tay còn lại. Chú chó rơi mạnh xuống sàn gần lò sưởi, trông choáng váng khi ngẩng đầu dậy.

Nelson biến mất khỏi chỗ đang đứng cạnh Wallace, để rồi hiện ra sau lưng Alan. Ông cụ vừa hậm hực vừa giơ gậy lên quá đầu. Wallace gầm lên giận dữ khi Alan quay lại tát ông cụ bằng mu bàn tay, đánh Nelson đập lên cửa chính khiến cánh cửa rung lắc trong khuôn, còn gậy của ông cụ thì rơi xuống sàn cạnh cậu ta.

Alan quay lại nhìn Harvey, người vẫn đang bị treo trước mặt hắn. “Không khó như tôi tưởng,” cậu ta nói, theo kiểu gần như tán nhảm. “Những việc tôi có thể làm ấy. Chính là giận dữ. Tất cả chỉ có vậy. Và tôi có thể sử dụng được cảm xúc ấy vì tôi đang cáu tiết đây.”

Harvey sặc sụa, một dòng nước bọt nhễu từ miệng gã xuống cằm.

“Đừng làm vậy,” Hugo van xin, giãy giụa chống lại bất kỳ thế lực gì đang ghim anh lên tường. “Alan, cậu không được làm hại anh ta.”

“Ồ, tôi làm được chứ,” Alan nói. “Tôi có thể hại anh ta kha khá đấy.”

Gã này không phải là người đã giết cậu,” Mei cấm cảu. “Gã không phải người làm hại cậu. Gã sẽ không bao giờ—”

“Chẳng quan trọng gì,” Alan nói. “Làm vậy sẽ khiến tôi vui vẻ hơn. Và không phải đó là mục đích của hết thảy quãng thời gian này sao? Là tìm kiếm sự thanh thản. Làm thế này sẽ cho tôi được thanh thản.”

Wallace Price chưa bao giờ là kiểu người được đa phần xã hội coi là dũng cảm. Có lần, hắn từng thấy một người bị cướp trên sân ga tàu điện ngầm và tránh ra xa, tự nhủ rằng mình không muốn dính líu tới việc ấy, rằng chắc chắn mọi chuyện sẽ tốt đẹp cả thôi. Hắn hầu như chẳng cảm thấy tí ti tội lỗi nào. Kẻ trộm đã chạy thoát cùng chiếc túi, và Wallace biết bất kỳ thứ gì trong đó cũng có thể dễ dàng thay thế.

Dũng cảm là nhúng tay vào việc.

Dũng cảm là sẽ bị thương.

Dũng cảm là có thể tử vong.

Và thật buồn cười phải không?

Vì phải chết đi thì Wallace cuối cùng mới dũng cảm lên được.

Hugo thét lên tên hắn khi hắn lao tới, nhưng Wallace lờ anh đi. Alan đã coi thường hắn, để hắn đến cuối cùng mới xử lý trong khi nên hạ gục hắn đầu tiên mới phải.

Wallace khum vai xuống trong lúc lao đi, gồng mình chống đỡ cú va chạm. Vẫn hơi ê ẩm khi hắn húc lên mạn sườn Alan. Răng Wallace lách cách đập lên nhau khi hắn suýt nữa thì cắn đứt lưỡi mình. Alan không kêu tiếng nào khi bị xô ngã. Wallace mất đà, ngã đè lên cậu ta. Hắn di chuyên nhanh hết mức có thể, xoay người lại và ngồi lên hông Alan. Harvey rớt xuống sàn, không hề động đậy. Hugo và Mei cũng rơi, thứ gì đó đang ghìm họ lại đã tan biến.

Mắt Alan long lên trong bóng tối khi cậu ta ngẩng lên nhìn Wallace. “Lẽ ra chú không nên làm vậy.”

Trước khi Wallace kịp phản ứng (mà thật đấy, hắn đã không nghĩ xa đến vậy; hắn sẽ làm gì đây, bóp cổ một người đã chết đến chết ư?), không khí dịch chuyển quanh hắn, và hắn bị quẳng ngược ra sau. Hắn hổn hển khi hõm lưng đập lên một trong mấy tủ bánh, mặt kính nứt ra dưới thân hắn.

Alan chậm rãi đứng dậy, xỉa một ngón tay về phía Wallace. “Chú thật sự không nên—”

Và rồi cậu ta ngừng lại.

Wallace chớp mắt.

Hắn đợi Alan nói nốt lời đe dọa.

Cậu ta không nói gì.

Cậu ta dường như... đã đông cứng tại chỗ.

“Ừm,” Wallace nói. “Có chuyện gì vậy?”

Không ai trả lời hắn.

Hắn quay đầu sang bên trái.

Mei đang trong lúc chống tay đứng dậy, tóc rũ xuống che mặt.

Cô không nhúc nhích.

Wallace nhìn ra đằng trước. Nelson đã bắt đầu dùng gậy chống mình lên, nhưng mới lên được nửa chừng trước khi cũng chỉ... khựng lại.

Wallace quay đầu sang bên phải.

Apollo đang đứng phía trước Hugo, nhe răng vô thanh gầm gừ. Bản thân Hugo đang vịn tường, trên mặt là vẻ giận dữ đan xen tuyệt vọng.

Wallace đứng dậy khỏi tủ bánh, ngạc nhiên khi mình đứng dậy mà không bị cản trở.

“Mọi người ơi?” Hắn nói, giọng bằng bằng van