Chương 20
Ngày hôm sau khá là khó khăn.
Wallace ủ dột, đi qua đi lại như một con thú trong cũi sắt. Những người khác né xa hắn ra khi hắn lẩm bẩm, “Hai ngày. Hai ngày nữa.”
Hắn rùng mình.
Hắn run rẩy.
Hắn lẩy bẩy.
Và hắn không thể làm gì để chấm dứt tình trạng ấy.
Hắn nhìn ra cửa sổ mặt tiền.
Ngoài kia, đậu trước tiệm trà như mọi khi, là chiếc xe máy của Hugo. Màu xanh đậu hà lan với cặp lốp vành trắng. Một gương chiếu hậu trên có treo thứ đồ trang trí nho nhỏ, một con ma hoạt hình kèm ô thoại nho nhỏ ghi chữ HÙ! Yên xe khá ngắn, nhưng đằng sau có khung cản kim loại.
Hắn nhớ cảm giác nắng rọi lên người mình khi hắn đứng ở thềm sau. Lần nữa. Một lần nữa. Hắn cần cảm nhận điều ấy một lần nữa. Một việc nhỏ nhặt đến vậy, nhưng càng nghĩ nhiều về nó, hắn càng không thể gạt nó ra khỏi đầu. Mặt trời. Hắn muốn cảm nhận ánh mặt trời. Nó đang kêu gọi hắn, lưỡi câu trong ngực hắn rung lên, sợi cáp giờ sáng hơn khi trước. Những tiếng thì thầm mơn trớn vành tai hắn, nhưng chúng không như những giọng nói phát ra từ cánh cửa. Những giọng nói ấy xoa dịu và trấn an hắn. Còn tiếng gọi này có cảm giác thật cấp bách.
Hắn tới gặp Mei trong bếp. Cô nàng nhìn hắn đầy cảnh giác, như thể cô nghĩ hắn sẽ gặm đứt đầu cô. Hắn thấy thật tội lỗi. “Chiều nay cô trông cửa hàng được không?”
Cô chậm rãi gật đầu. “Chắc được. Tại sao vậy?”
“Tôi cần phải đi khỏi đây.”
Trông cô hốt hoảng “Sao cơ? Wallace, anh biết điều gì sẽ xảy ra nếu anh cố—”
“Biết rồi. Nhưng tôi sẽ không đi xa đâu. Tôi biết tôi đã trụ được bao lâu vào lần đầu tiên. Tôi chịu được mà.”
Cô chưa thấy thuyết phục. “Anh không thể mạo hiểm vậy được. Nhất là khi đã gần đến lúc anh...” Cô không cần phải nói hết. Họ đều biết ý cô là gì.
Hắn phá lên cười. “Nếu không phải bây giờ thì là bao giờ? À, và tôi sẽ dẫn Hugo theo nhé.”
Mei chớp mắt. “Dẫn anh ấy theo đến đâu cơ?”
Hắn cười toe toét. Hắn thấy thật điên cuồng, và cảm xúc ấy rực cháy trong hắn. “Tôi không biết. Thật tuyệt vời phải không?”
✽Hugo lắng nghe khi Wallace giải thích. Anh không trả lời ngay lập tức, và Wallace tưởng anh sẽ từ chối hắn. Cuối cùng anh nói, “Anh chắc chứ?”
Wallace gật đầu. “Anh sẽ biết, phải không? Biết chúng ta đi được bao lâu. Bao xa.”
“Nguy hiểm lắm đấy.”
“Tôi cần trải nghiệm này,” Wallace thẳng thắn nói. “Và tôi muốn trải qua việc này với anh.”
Lời ấy thật tai hại. Mặt Hugo bỗng trở nên vô cảm. “Đổi ý rồi à? Đêm qua, anh có vẻ khá chắc chắn rằng mình không muốn nghe tới những cảm xúc của tôi.”
“Tôi sợ lắm,” Wallace thú nhận. “Và tôi không biết làm thế nào cho hết sợ. Nhưng nếu đã đến lúc, nếu đây là những ngày còn lại của tôi, thì tôi muốn làm việc này. Với anh.”
Hugo thở dài. “Đây thật sự là điều anh muốn ư?”
“Phải.”
“Tôi phải hỏi Mei xem cô ấy có—”
“Xong rồi nhé,” Mei nói thò đầu ra khỏi cửa bếp. Wallace bật cười khi hắn thấy Nelson ló đầu ra dưới cánh tay cô. Dĩ nhiên là họ đang nghe trộm rồi. “Yên tâm đi sếp. Cứ chiều theo ý người ta đi. Việc kia sẽ có lợi với cả hai anh đấy. Không khí trong lành và vân vân, mây mây. Chúng em sẽ thủ thành cho.”
“Bọn anh còn không biết liệu anh ấy có lái được xe máy hay không nữa,” Hugo nói.
Wallace uỡn ngực. “Cái gì mà tôi chẳng làm được.”
✽Hắn không làm được gì hết.
“Cái quái gì vậy,” hắn gầm gừ khi ngã xuống đất xuyên qua xe máy đến lần thứ năm.
“Người ta đang nhìn kìa,” Hugo lẩm bẩm nói qua khóe miệng.
“Ồ, cho tôi xin lỗi nhé.” Wallace chống tay đứng dậy. “Và họ cũng có thấy được tôi đâu. Có khi những gì họ thấy, là anh đang nói chuyện với cái xe máy như một gã lập dị.”
Hugo khoanh tay trước ngực, trừng trừng nhìn xuống chân mình.
Wallace cau mày nhìn xe máy. Việc này hắn sẽ dễ thôi. Cũng như mấy cái ghế vậy. “Buông bỏ trông mong,” hắn lẩm nhẩm một mình. “Buông bỏ. Buông bỏ đi.”
Hắn lại nhấc chân lên, vung qua yên xe máy. Hắn biết trông mình thật lố bịch khi chậm rãi ngồi xuống, nhưng giờ hắn chẳng thèm quan tâm nữa. Nếu đây là việc cuối cùng hắn làm trong đời thì hắn nhất định sẽ làm.
Hắn reo hò đắc thắng khi cảm nhận được yên sau xe áp lên mông và đùi mình. “Có thế chứ! Tôi là con ma giỏi nhất quả đất!”
Hắn quay sang nhìn Hugo, anh đang cố nín cười. “Anh sẽ ngã khỏi xe và—”
“Và chết tươi ư? Tôi có linh cảm rằng mình không cần phải lo lắng chuyện ấy đâu. Lên xe đi. Mau lên, mau lên, mau lên.” Hắn vỗ vỗ mặt yên trước người.
Cảnh này thật ngượng ngùng, ngượng hơn là Wallace tưởng. Hugo là một người cao to, và Wallace nuốt khan khi mông anh đưa ra ngay trước mắt. Chiếc xe máy cọt kẹt dưới trọng lượng đáng kể khi anh dựng thẳng nó lên, lia gót giày gạt chân chống. Họ áp sát vào nhau, sát tới nỗi chân Wallace chìm vào trong người Hugo. Sợi cáp căng chặt giữa họ. Tư thế này thân mật một cách lạ lùng, và Wallace tự hỏi cảm giác sẽ thế nào khi vòng tay quanh eo Hugo, ôm chặt hết mức có thể.
Thay vào đó, hắn vươn ra sau và nắm lấy cản xe kim loại ở hai bên người, đặt chân lên chỗ kê chân.
Hugo quay đầu lại. “Chúng ta sẽ không đi xa đâu.”
“Tôi biết rồi.”
“Và anh phải nói với tôi khi tình trạng của anh bắt đầu chuyển xấu.”
“Sẽ nói nhé.”
“Tôi nghiêm túc đấy, Wallace.”
“Tôi hứa mà,” hắn cam đoan, và hắn chưa bao giờ nghiêm túc hơn lúc này. Những tiếng thì thầm hắn nghe được trong nhà giờ ồn ào hơn, và hắn không thể lờ chúng đi nữa. Hắn không biết chúng đang gọi hắn tới đâu, nhưng không phải là tới cánh cửa kia. Chúng đang gọi hắn ra xa khỏi tiệm trà.
Hugo vặn chìa khóa. Động cơ xe máy rền rĩ, yên xe rung lên đầy dễ chịu dưới mông Wallace. Tiếng cười của hắn biến thành tiếng kêu oai oái khi họ bắt đầu chậm rãi tiến lên, rồi tăng tốc trong khi bụi đất tung bay sau xe.
Ngay giây phút họ phóng ra đường Wallace đã cảm nhận được lực hút kia. Hắn nghiến răng chống chọi lại. Trước kia hắn không biết cảm giác này là gì. Giờ thì hắn đã biết. Hắn nhìn xuống cánh tay mình, tưởng rằng sẽ thấy da mình bắt đầu bong tróc. Da hắn chưa bong, nhưng cũng sắp rồi.
Wallace tưởng Hugo sẽ rẽ về phía thị trấn, có lẽ là đi xuống phố chính rồi quay về tiệm.
Nhưng không.
Anh đi về hướng đối diện, bỏ tất cả lại sau lưng. Cánh rừng mỗi lúc một rậm hơn ở hai bên đường, cây cối đung đưa trong gió mát, cành cây lạch gạch gõ lên nhau như những khúc xương. Mặt trời dần chìm xuống thấp hơn phía trước họ, bầu trời mang màu hồng, cam và những tông xanh mà Wallace không thể tin nổi là có ở trên đời, xanh thăm thẳm, tối sẫm, như những vùng nước sâu nhất dưới biển.
Không ai bám theo họ, chẳng có chiếc xe nào đi ngang qua họ trên đường. Cứ như thể họ là hai con người duy nhất trên cả thế gian này trên một con đường cô độc chẳng dẫn tới đâu và cùng lúc lại dẫn tới chân trời góc bể.
“Nhanh nữa đi,” hắn nói bên tai Hugo. “Xin anh phóng nhanh hơn nữa đi.”
Hugo làm theo, động cơ xe máy rền rĩ đến đáng thương. Nó không được sản xuất để phóng nhanh nhưng chẳng sao cả. Vậy là đã đủ. Gió quất qua tóc họ khi họ bẻ cua, mặt đường là một vệt mờ mờ phía dưới, những vệt trắng vàng thoáng vút qua tầm mắt Wallace.
Chỉ vài phút sau là da Wallace bắt đầu bay lên và bong ra, lả tả theo sau họ. Hugo thấy cảnh ấy qua khóe mắt, nhưng trước khi anh kịp nói gì, Wallace đã lên tiếng, “Tôi không sao đâu. Thề đấy. Đi. Đi. Đi tiếp đi.”
Hugo tiếp tục lái xe.
Wallace tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ không bao giờ dừng lại. Có lẽ nếu họ đi đủ xa, Wallace sẽ trôi dạt thành hư không, bỏ lại hết những mảnh con người mình phía sau. Không biến thành Trấu. Chẳng biến thành ma. Chỉ những mảng bụi dọc con đường trên núi, tro bụi rải ra như thể hắn là một người quan trọng.
Và có lẽ là thế thật. Không phải với toàn bộ thế giới, không phải với rất nhiều người trên đường đời, nhưng ở đây, ở nơi này? Với Hugo và Mei và Apollo và Nelson? Phải, hắn nghĩ có lẽ sau cùng hắn quan trọng, hắn là một bài học về những điều bất ngờ. Không phải đó là mục đích cuộc đời sao? Không phải đó là câu trả lời vĩ đại nhất cho bí ẩn về cuộc đời sao? Là hãy trân trọng những gì ta có khi nó đang nằm trong tay ta, cả tốt lành lẫn tệ hại, đẹp đẽ lẫn xấu xí.
Wallace chưa bao giờ cảm thấy mình đang sống hơn lúc này, khi đã chết.
Hắn kẹp chặt đùi vào hai bên xe máy, trụ vững tại chỗ. Hắn dang hai tay ra như cánh chim, những mảnh da tay lả tả bay ra đằng sau. Hắn ngửa đầu về phía mặt trời và nhắm mắt lại. Đây, đây, đây rồi, hơi ấm, ánh nắng bao phủ khắp người hắn. Hắn hò hét đưa niềm vui sướng điên cuồng này lên mây xanh, mong sao cảm giác này sẽ không bao giờ kết thúc.
Hugo dường như đã có sẵn đích đến trong đầu. Anh rẽ vào một con đường mà Wallace sẽ bỏ qua nếu đi một mình. Nó luồn lách xuyên qua cánh rừng theo chiều xuống dốc. Cảm giác níu kéo từ lớp da đang bong ra của hắn chẳng đáng kể gì. Một suy nghĩ đen tối cuộn mình thoắt ẩn thoắt hiện sâu trong đầu hắn, nhưng hắn vẫn kiểm soát được nó. Những tiếng thì thầm đang nhỏ dần.
Ở bên con đường phía trước họ là một khoảng trông nho nhỏ, một mảng sỏi đá không hơn. Hugo lái xe máy về phía đó. Wallace thảng thốt khi thấy khung cảnh ở phía bên kia rào chắn.
Khoảng trống nằm trên một vách đá. Vách đá dốc đứng lên, dù ngọn cây dưới kia vươn lên trước mắt họ. Mặt trời lặn ở đằng tây, và khi xe máy dừng lại, Wallace nhảy xuống, chạy về phía rào chắn. Trong lúc hối hả, suýt nữa thì hắn đã chạy xuyên qua rào rồi, nhưng đã kịp phanh lại ngay trước đó.
“Suýt nữa thì xong đời,” hắn nói, nhìn xuống dưới, cảm giác chóng mặt rần rần choáng váng.
Hắn nghe thấy tiếng Hugo tắt máy xe và gạt chân chống rồi cũng xuống xe. “Chúng ta không ở lại lâu được. Tình hình đang chuyển xấu rồi.”
Quả vậy. Những mảnh da đang dần lớn hơn. Dòng suy nghĩ cuộn mình trong đầu hắn đang mạnh hơn. Hàm hắn đau nhức. Tay hắn run rẩy. “Chỉ vài phút thôi,” hắn thì thầm. Hugo tới bên hắn cạnh rào chắn. “Tại sao lại đến đây? Nơi này có ý nghĩa gì với anh?”
“Bố tôi thường dẫn tôi lên đây,” Hugo nói, trên mặt ngập tràn ánh tà dương. “Khi tôi còn bé ấy. Đây là nơi chúng tôi sẽ nói tất cả những chuyện quan trọng.” Anh ngượng nghịu mỉm cười. “Đây là nơi tôi được giáo dục về giới tính. Đây là nơi tôi bị cấm túc vì điểm toán số quá thấp. Đây là nơi tôi nói với bố rằng mình đồng tính. Ông ấy bảo rằng nếu biết trước là vậy thì vụ giáo dục giới tính sẽ diễn ra theo một cách khác lắm luôn.”
“Một người tốt đấy nhỉ?”
“Một người rất tốt,” Hugo tán thành. “Tốt nhất trần đời, thật đấy. Ông ấy có làm sai, nhưng luôn nhận sai. Bố tôi sẽ thích anh đấy.” Anh ngừng lại. “Chà, thích con người anh bây giờ ấy. Ông ấy không thích luật sư lắm.”
“Chẳng ai thích cả. Chúng tôi thích khổ nhọc thế đấy.”
Khi mặt trời dần xuống núi, họ đứng vai kề vai, cái bóng vĩ đại của Hugo kéo dài phía sau họ.
“Khi tôi đi rồi,” Wallace nói, “xin đừng quên tôi nhé. Tôi chẳng có được mấy người để tưởng niệm mình, ít nhất là không phải theo cách tốt đẹp gì. Tôi muốn anh là một trong những người ấy.” Móng tay hắn bắt đầu tan ra.
Yết hầu Hugo lên xuống khi anh nuốt khan. “Làm sao tôi có thể quên được anh kia chú?”
Wallace nghĩ việc ấy thì dễ như trở bàn tay. “Hứa với tôi nhé?”
“Tôi hứa.”
Cảnh hoàng hôn này thật rực rỡ. Hắn ước gì mình đã dành nhiều thời gian ngửa mặt lên nhìn trời hơn. “Anh có nghĩ chúng ta sẽ gặp lại nhau không?”
“Tôi mong là vậy.”
Đó là câu trả lời tuyệt vời nhất dành cho hắn. “Nhưng không gặp lâu đâu. Anh còn việc để làm mà.” Hắn chớp chớp mắt để xua tan cơn cay xè trong đó. “Và lúc ấy sẽ—”
Nhưng hắn không thể nói hết. Cảm giác kia cuộn trào trong đầu hắn. Nó giật lấy hắn. Nó kéo hắn. Nó lôi hắn lại. Sợi cáp lóe sáng. “Oái,” Wallace vừa càu nhàu vừa lảo đảo.
“Chúng ta phải về thôi,” Hugo nói, giọng đầy lo lắng. “Ngay bây giờ.”
“Ừa,” Wallace thì thầm khi mặt trời chìm xuống chân trời.
✽
Hắn cảm thấy như mình đang trôi nổi suốt đường về. Hugo lái xe máy nhanh hết mức có thể, nhưng Wallace chẳng lo lắng gì. Hắn không sợ, không như trước kia nữa. Trong hắn là cảm giác bình thản, một cảm giác gần như là nhẹ nhõm.
“Bám chặt nhé!” Hugo hét lên với hắn, nhưng giọng anh nghe vô cùng xa xăm. Những tiếng thì thầm đã trở lại, mỗi lúc một to hơn, một dai dẳng hơn.
Đầu hắn thanh tỉnh trở lại khi họ rẽ vào con đường dẫn tới tiệm trà. Tới lúc đó, bàn tay hắn đã biến mất, cánh tay đã biến mất, và hắn nghĩ mình đã mất mũi luôn rồi. Hắn rên rỉ khi chúng tái tạo lại, những mảnh vụn ghép đâu vào đó như một trò xếp hình phức tạp. Hắn thảng thốt khi Hugo bẻ quặt tay lái sang bên phải. Hắn tưởng họ sẽ gặp tai nạn, và trong giây phút nháo nhào, hắn tự hỏi tại sao mình lại không khăng khăng bắt Hugo đội mũ bảo hiểm. Nhưng suy nghĩ ấy đã bay mất khi hắn thấy qua khóe mắt lý do khiến Hugo mất lái.
Cameron.
Đứng ở giữa đường.
Tôi vẫn còn đây.
Đá và bụi tung bay quanh lốp xe khi chúng phanh két lại. Một cái cây sừng sững đứng trước họ, một cây cổ thụ vĩ đại với lớp vỏ nứt nẻ rỉ nhựa như đang khóc. Wallace vươn xuyên qua Hugo, hai tay nắm lấy ghi đông, dồn hết sức siết phanh xe. Chúng rít lên ken két và chiếc xe máy lảo đảo. Bánh sau nhấc lên khỏi mặt đường trong chốc lát rồi đổ sập xuống và xe dừng lại, bánh trước chỉ cách thân cây vài tấc.
“Quỷ thần ơi,” Hugo lầm bầm. Anh cúi đầu nhìn khi Wallace thu tay về. “Anh mà không.”
Wallace đã xuống xe trước khi Hugo kịp nói xong. Hắn quay ra đường.
Mặt Cameron đang ngửa lên những vì sao, miệng há hốc, răng đen kịt nhe ra. Hai cánh tay nó buông thõng hai bên người, những ngón tay đung đưa. Nó cúi đầu xuống như thể cảm nhận được Wallace đang nhìn mình, hai mắt nó vô hồn và lạnh lẽo.
Lưỡi câu trên ngực Wallace rung mạnh hơn bao giờ hết. Hắn gần như có cảm giác rằng nó đang sống dậy. Những tiếng thì thầm giờ như cơn vũ bão, xoay vòng quanh hắn, không nghe nổi ra điều gì, nhưng Wallace biết ý chúng là gì, và tại sao ban đầu hắn lại cảm thấy thôi thúc muốn rời khỏi tiệm trà.
Đó chính là Cameron đang gọi hắn.
Đằng sau hắn, Hugo gạt chân chống xe rồi tắt máy, nhưng Wallace không muốn bị phân tâm. Không phải lúc này. Hắn nói, “Cameron. Cậu vẫn ở trong đó, phải không? Ôi trời ơi, tôi nghe thấy tiếng cậu rồi.”
Cameron chậm rãi chớp mắt.
Wallace nhớ lại cảm giác của hắn trong vườn trà, với hai tay Cameron ôm quanh người mình. Hạnh phúc. Cuồng giận. Những khoảnh khắc vui tươi về chàng trai ánh dương, về Zach, Zach, Zach. Nỗi đau trời giáng chiếm lấy cậu ấy khi đánh mất tất cả. Sau đó những người khác bảo hắn rằng chỉ trong có vài giây, cuộc hội ngộ lạ lùng của họ ấy, nhưng hắn đã cảm nhận được cả một đời chìm nổi. Hắn đã là Cameron, hắn đã thấy mọi điều Cameron thấy, đã cùng cậu khổ sở bước qua những bất công khủng khiếp của cuộc đời. Khi ấy hắn chưa hiểu hết những sắc thái trong đó; toàn bộ đã ập tới quá nhanh, quá nhiều. Hắn không nghĩ bây giờ mình đã hiểu được, không phải là tường tận, nhưng những mẩu chuyện đã rõ ràng hơn khi trước.
Ngay cả khi Hugo gào thét kêu hắn dừng lại, Wallace vươn tới nắm lấy tay Cameron. “Hãy cho tôi thấy đi,” hắn thì thầm.
Và Cameron làm theo.
Ký ức trỗi dậy như những bóng ma, và Zach nói, “Anh thấy không khỏe lắm.”
Anh mỉm cười.
Anh không cười nổi.
Mắt anh trợn ngược lại.
Mới đây còn sống, rồi thì đã mất.
Nhưng chuyện xảy ra không nhanh đến vậy, phải không? Không, còn nhiều chi tiết hơn, vô vàn chi tiết mà Wallace chưa thể nhìn qua vào lần đầu tiên. Giờ, hắn bắt được những khoảnh khắc ấy, những thoáng vụt qua như một bộ phim ngắt quãng, những đoạn băng giật từ khung hình này sang khung hình khác. Hắn là Cameron, nhưng cũng không phải, một sự tồn tại song song như muốn bổ dọc người hắn làm hai.
Tên hắn là Wallace Price. Hắn đã sống. Hắn đã chết. Vậy nhưng, hắn đã khăng khăng cố chấp, hết lần này tới lần khác, nhưng việc ấy chẳng quan trọng gì, cái chuyện vặt vãnh, cái chuyện đã qua, vì Cameron đã chiếm lấy hắn, cho hắn thấy toàn bộ những điều ẩn giấu dưới bề mặt.
“Zach,” Wallace thì thầm khi Cameron gọi, “Zach? Zach ơi?” và tiến lên, nhưng hắn (hay họ?) không đỡ kịp Zach trước khi anh ngã xuống, đầu đập lên sàn cùng một tiếng bịch khủng khiếp.
Wallace không còn kiểm soát được nữa, hắn bị cuốn vào những ký ức rỉ máu đang vây quanh mình như một vũ trụ vô tận, Cameron gọi điện, gào thét với người trực tổng đài 911 rằng cậu không biết có chuyện gì hết, cậu không biết phải làm gì hết, cứu với, ôi lạy trời, cứu chúng tôi với.
“Cứu chúng tôi với,” Wallace thì thầm. “Cứu với.”
Lại một cú nhảy cóc nữa, thô bạo và gai người, rồi Cameron mở toang cửa trước, nhân viên cấp cứu xô cậu chạy vào, đèn xe cấp cứu và cứu hỏa lóe lên trước nhà.
Cameron yêu cầu được biết chuyện gì đã xảy ra khi họ nâng Zach lên cáng, các nhân viên cấp cứu vội vã nói với nhau về đồng tử giãn nở và huyết áp tụt xuống. Mắt Zach nhắm nghiền, cơ thể mềm nhũn, và Wallace cảm nhận được nỗi kinh hoàng của Cameron như của chính mình vậy, những câu CÓ CHUYỆN GÌ VẬY, CÓ CHUYỆN GÌ VẬY Không ngừng nã ầm ầm trong đầu hắn.
Hắn đang ngồi trong thùng xe cứu thương khi họ mở áo Zach ra, hỏi Cameron xem cậu có biết tiền sử bệnh lý nào không, anh ấy có chơi thuốc không, có quá liều không, cậu phải kể hết với chúng tôi để chúng tôi còn biết giúp anh ấy thế nào.
Cậu hầu như không nghĩ được gì. “Không,” cậu nói, giọng kinh ngạc. “Cả đời anh ấy chưa bao giờ chơi thuốc. Anh ấy còn không thích uống aspirin. Anh ấy không ốm gì cả. Anh ấy chưa bao giờ ốm hết.”
Cậu đang đứng trong bệnh viện, tê dại như thể từ đầu đến chân đang chìm trong băng, vây quanh là bạn bè và gia đình của Zach, thì bác sĩ bước ra và đập tan cả thế giới của họ. Xuất huyết não, bác sĩ nói. Vỡ mạch. Nứt mạch. Chảy máu dưới màng nhện.
Chết não.
Chết não.
Chết não.
Cameron nói, “Nhưng mọi người có thể cứu anh ấy mà, phải không? Mọi người chữa cho anh ấy được mà, phải không? Mọi người giúp anh ấy khỏe lại được mà, phải không?” Cậu gào thét rồi gào thét, những bàn tay nắm lấy vai cậu, nắm lấy cánh tay cậu, ôm cậu lại, giữ không cho cậu nhào tới bác sĩ, người đang chậm rãi lùi lại.
Họ lập tức đưa Zach vào phẫu thuật.
Anh chết trên bàn mổ.
Cameron mặc bộ âu phục đẹp nhất tới đám tang anh.
Cậu đảm bảo rằng Zach cũng mặc một bộ tương tự.
Dàn đồng ca ngân nga khúc thánh ca về ánh sáng và nhiệm màu, về Chúa Trời và Kế hoạch vĩ đại của ngài. Wallace gào thét trong đầu mình, nhưng không phải là chính hắn mà là Cameron, âm thầm rít gào cầu mong rằng toàn bộ chuyện này chỉ là mơ thôi, rằng đây không thể là thật được. Tỉnh dậy đi! Cameron rống lên trong đầu mình. Xin anh đấy, hãy dậy đi mà!
Linh mục nói về khổ đau và thương tâm, rằng chúng ta không bao giờ hiểu được tại sao một người tràn trề sức sống đến vậy lại ra đi quá sớm, nhưng Chúa không bao giờ cho chúng ta nhiều hơn những gì ngài nghĩ chúng ta có thể nắm giữ.
Mọi người đều khóc.
Cameron thì không.
Ôi, cậu đã cố chứ. Cậu đã cố ép nước mắt chảy ra, cố ép mình cảm thấy gì cũng được ngoài nỗi lạnh lẽo tê dại, xâm lấn này.
Quan tài đang để mở.
Cậu không thể nhìn xuống di thể đang nằm bên trong.
“Cậu chắc chứ?” một người bạn hỏi cậu. “Cậu không muốn tạm biệt trước khi...” Lời cô nói bị cắt ngang bởi cái nấc nghẹn ngào.
Cameron đứng cạnh huyệt mộ trên đất khi vẫn vị linh mục ấy lải nhải không ngừng về Chúa và Kế hoạch của ngài và thế giới kỳ bí không ai hay biết. Hắn nhìn Zach được người ta hạ xuống cái huyệt kia, và vẫn chẳng thấy gì ngoài lạnh lẽo. Cảm giác đó là tất cả những gì cậu biết đến, và dù Wallace có làm gì, có cố đến đâu đi nữa, hắn cũng không xua tan được cái lạnh ấy.
Mọi người ở qua đêm với cậu. Trong nhiều tuần liền, cậu không hề cô độc.
Họ nói, “Cameron, cậu phải ăn đi chứ.”
Họ nói, “Cameron, cậu phải tắm đi chứ.”
Họ nói, “Này Cameron, ra ngoài chút chứ nhỉ? Cho có tí khí trời.”
Và cuối cùng, họ nói, “Cậu có chắc cậu ở một mình được không?”
Mình sẽ ổn thôi, cậu nói với họ. Mình sẽ ổn thôi.
Cậu không ốn.
Cậu trụ được bốn tháng.
Bốn tháng vất vưởng trong nhà của họ, đi từ phòng này qua phòng khác, gọi tên Zach, nói, “Zach, anh ở đây à? Zach, anh đâu rồi? Zach, không công bằng chút nào, không ổn đâu, chúng ta còn kế hoạch, chúng ta còn hy vọng, chúng ta chuẩn bị làm biết bao nhiêu là thứ. Anh đã hứa rồi mà. Anh hứa với em rồi mà!”
Vậy nhưng nước mắt vẫn không chảy ra.
Từ đầu đến cuối cậu vẫn thấy lạnh.
Có những ngày cậu không rời giường, những ngày cậu không đủ sức để làm gì ngoài trở mình, kéo chăn phủ lên đầu, tìm kiếm mùi hương của Zach, người thơm như khói củi và mặt đất và cây xanh, rất rất nhiều cây xanh.
Cuối quãng thời gian ấy, bạn bè của cậu trở lại. “Chúng mình lo cho cậu lắm,” họ nói. “Chúng mình phải đảm bảo rằng cậu sẽ không sao.”
Mình ổn mà, cậu nói với họ. Mình ổn.
Vào ngày cuối cùng, cậu thức dậy.
Vào ngày cuối cùng, cậu ăn một bát ngũ cốc. Cậu rửa bát và thìa trong bồn rồi cất chúng đi.
Vào ngày cuối cùng, cậu lang thang trong nhà, nhưng không lên tiếng.
Vào ngày cuối cùng, cậu bỏ cuộc.
Không đau đâu, thật đấy.
Hồi kết ấy.
Cậu chỉ tê dại mà thôi.
Và rồi cậu mất đi.
Trừ việc cậu không đi, phải không nào?
Không hề.
Vì cậu đứng bên chính mình, nhìn máu chảy ra khỏi người, và cậu nói, “Ồ. Địa ngục đây rồi.”
Và không gì có thể khiến cậu thay đổi suy nghĩ.
Một người đàn ông đến đó. Gã tự gọi mình là Thần Chết. Gã mỉm cười, dù mắt gã không cười. Môi gã nhoẻn thành một độ cong gần như mỉa mai.
“Tôi sẽ dẫn cậu đi,” Thần Chết nói. “Mọi chuyện sẽ rõ ràng cả thôi, tôi hứa đấy. Ngay cả khi cậu từ bỏ mạng sống của mình như thể nó chẳng đáng xu nào, tôi vẫn sẽ chăm sóc cậu.”
Vào lúc hoàng hôn cậu đứng trước một tiệm trà, nhìn tấm biển treo trên cửa sổ.
ĐÓNG CỬA ĐỂ PHỤC VỤ SỰ KIỆN RIÊNG TƯ.
Hugo to lớn, to lớn hơn mức bất kỳ ai có thể đạt được. Anh mời Cameron dùng trà.
Cameron từ chối.
“Tôi rất tiếc.” Hugo nói với cậu. “Vì những mất mát của cậu.”
Thần Chết cười khẩy. “Cậu ta tự làm đấy chứ.”
Và lời ấy như thuốc độc rót vào tai Cameron.
Có một cánh cửa, cậu biết, nhưng cậu không tin nó. Thần Chết đã bảo cậu rằng nó có thể dẫn tới bất kỳ nơi nào. Gã không biết. Hugo không biết. Chẳng ai biết cả. “Có thể chỉ là bóng tối vô tận mà thôi,” Thần Chết đăm chiêu lúc nửa đêm khi Hugo đã ngủ. “Có thể chẳng có gì cả.”
Cameron bỏ chạy khỏi tiệm trà.
Da cậu bong ra.
Sợi cáp đứt và biến mất.
Lưỡi câu trên ngực cậu tan rã.
Cậu chạy được tới thị trấn thì ngã khuỵu xuống giữa đường.
Suy nghĩ cuối cùng trong đầu cậu là về Zach, và anh mỉm cười như vầng thái dương, và Wallace biết khát khao cảm nhận cùng hơi ấm ấy không chỉ tới từ bản thân hắn. Đó là hơi thở hấp hối sau cùng, gượng ép của chàng trai đang chia sẽ tâm trí với hắn lúc này, khi mặt trời là điều cuối cùng cậu níu lấy trước khi nhân tính chấm dứt.
Và ở đây, lúc này, khi hai tay họ nắm lấy nhau, Cameron thì thầm, “Cháu đã sai rồi. Cháu đã lạc lối dưới sức nặng nghìn cân của khi ấy. Và cháu không biết phải tìm đường về thế nào. Cháu vẫn còn đây.”
“Tôi biết,” Wallace nói, đau thương của Cameron giờ cũng là của hắn. “Không công bằng chút nào. Chẳng có gì công bằng hết.”
“Cứu cháu với,” Cameron nói.
Wallace nhìn xuống khi ngực hắn bỏng rát như đang bốc cháy.
Một vành kim loại cong cong thò ra khỏi xương ức hắn. Phía cuối gắn liền với một sợi cáp to bản, sáng rực, dẫn tới Hugo. Một liên kết, một ràng buộc, một sợi dây cứu hộ giữa người sống và người chết, giữ cho họ khỏi bay vào hư vô.
Wallace vươn tay nắm lấy lưỡi câu, thoáng lưỡng lự. “Giờ tôi hiểu rồi. Vấn đề không phải lúc nào cũng là những việc ta đã làm, hay những lỗi lầm ta đã mắc phải. Mà là những người xung quanh, và những gì chúng ta sẵn sàng làm cho người khác. Những gì chúng ta hi sinh. Họ đã dạy tôi điều ấy. Ở đây, ở nơi này.”
“Xin chú đấy,” Cameron thì thầm. “Cháu không muốn lang thang nữa đâu.”
“Buông bỏ thôi,” Wallace nói.
Hắn nắm lấy lưỡi câu, lớp kim loại nóng bỏng trong lòng bàn tay và ngón tay hắn, nhưng không thiêu cháy hắn. Hắn dồn hết sức kéo nó ra, đau đến dữ dội, khiến hắn nghiến chặt răng. Mắt hắn ngập nước, và hắn thét lên khi lưỡi câu bật khỏi ngực mình. Cảm giác nặng nề dần rời bỏ hắn, sự nhẹ nhõm tràn qua người, hắn có cảm giác như mặt trời và những vì sao.
Hắn giơ lưỡi câu lên quá đầu.
Và dập nó lên ngực Cameron.
✽
Mắt hắn choàng mở khi đầu lệch qua một bên vì một cú tát cực ác. “Oái! Cái quái gì vậy?”
Hắn chớp mắt khi Mei cúi đầu lườm hắn. Họ đang ở trong tiệm trà, Wallace nằm trên sàn nhìn lên. “Cái tên khốn nạn này,” Mei gắt lên với hắn. “Lúc ấy anh nghĩ mình đang làm cái quái gì chứ?”
Hắn xoa xoa bên mặt, má vẫn nhức nhối khi hắn ngồi dậy. “Cô đang...” Mắt hắn lồi ra. “Khỉ thật.”
“Phải rồi, gã khốn này. Đúng là khỉ thật đấy. Anh có biết mình đã—”
“Có thành công không?” Hắn sốt ruột hỏi. “Có thành công không?”
Cô thở dài, vai sụm xuống. “Anh tự đi mà nhìn” Cô vươn tay xuống, nắm cánh tay hắn và kéo hắn lên khỏi sàn. Hắn ré lên kinh ngạc khi mình bật dậy, hai chân bay khỏi đất như thể nhẹ tựa lông hồng. Với hai mắt trợn tròn, hắn cúi xuống nhìn. Hắn thảng thốt khi thấy mình đang trôi lơ lửng cách sàn vài tấc. Hắn khua tay lên trời, cố gắng đẩy mình xuống đất. Chẳng có tác dụng gì. Mei lườm hắn khi hắn thử lại. “Ờ, đây là lỗi của chính anh đấy. May cho anh là chúng tôi vẫn giữ dây dắt của Apollo không thì giờ anh đã bay mất rồi.” Cô chỉ xuống mắt cá chân hắn. Quấn quanh hắn là một sợi dây dắt chó. Hắn nhìn theo sợi dây tới khi thấy Nelson cầm đầu kia.
“Tôi bị sao vậy?” Hắn thì thầm.
Nelson nghiêng tới, hôn mu bàn tay hắn, môi khô nứt nẻ. “Thằng bé khờ khạo này. Thế là xong đời cậu rồi. Ta cưng cậu chết mất. Cái thằng bé khờ khạo, tuyệt vời này. Cậu đang lơ lửng vì không còn gì giữ cậu đứng yên nữa. Nhưng đừng lo. Ta túm được cậu rồi. Ta sẽ không để cậu trôi mất đâu. Hãy buông bỏ, Wallace ạ, và tin rằng chúng ta giữ được cậu rồi.”
Apollo cọ mũi lên mắt cá chân Wallace, điên cuồng liếm chỗ buộc dây như thể để đảm bảo rằng Wallace vẫn còn đây. “Tao đây,” Wallace thì thầm, giọng hắn dịu dàng và mơ màng. “Tao vẫn còn đây.”
Hắn ngẩng đầu lên, và mọi thứ khác bay biến. Mei. Apollo. Nelson. Sợi dây dắt chó, tiệm trà, việc hắn không cảm nhận được mặt đất. Tất cả trôi hết.
Vì một chàng trai đang đứng cạnh Hugo trước lò sưởi, đầu cúi gằm, hai tay Hugo đặt trên vai cậu. Cậu rất điển trai, dù hai gò má hóp xuống, viền mắt đỏ hồng như vừa mới khóc. Mái tóc sáng màu rũ xuống quanh mặt cậu. Cậu mặc quần bò và áo len dày, ống tay phủ lên mu bàn tay cậu.
“Cameron?” Wallace hỏi, giọng lạc đi.
Cameron ngẩng đầu dậy. Cậu run run mỉm cười. “Xin chào, Wallace.” Cậu tách ra khỏi Hugo, trông có vẻ lưỡng lự. Một giọt nước mắt lăn xuống má cậu. “Chú... chú đã tìm được cháu rồi.”
Wallace đần độn gật đầu.
Và rồi hắn bị ôm đến nghẹt thở, mặt Cameron áp lên bụng hắn trong khi Wallace bay lên hết cỡ mà sợi dây cho phép. Cảm giác này khác với trước kia. Những mảnh đời thoáng qua đã biến mất. Cameron không lạnh lẽo như xưa. Da cậu nóng bỏng, và vai cậu run rẩy khi vòng tay cậu siết chặt hết mức có thể. Wallace không làm được gì ngoài đặt tay lên tóc Cameron, khẽ ôm đầu cậu.
“Cảm ơn chú,” Cameron thì thầm lên bụng hắn. “Ôi trời ơi, cảm ơn chú. Cảm ơn chú. Cảm ơn chú.”
“Ờ,” Wallace thô lỗ đáp lời. “Ờ. Không có chi.”