Chương 21
Ngày hôm sau, Tiệm Trà và Bánh Bến Đò Charon không mở cửa như mọi ngày. Cửa sổ đóng lại, đèn tắt, mành sáo kéo xuống che khung cửa nhìn ra cửa ra vào. Những người tới dùng trà và bánh mỗi ngày đều phải thất vọng khi thấy cửa chính đã khóa, và biển báo treo ở cửa sổ.
KÍNH GỬI BẠN BÈ YÊU QUÝ:
BẾN ĐÒ CHARON SẼ ĐÓNG CỬA VÀO HAI NGÀY TỚI ĐỂ SỬA CHỮA NHẸ NHÀNG.
CHÚNG TÔI RẤT MONG ĐƯỢC TIẾP TỤC PHỤC VỤ CÁC BẠN KHI MỞ CỬA TRỞ LẠI!
HUGO & MING
✽Wallace trôi lơ lửng cách mặt thềm sau nhà vài tấc, nhìn Apollo chạy qua vườn trà, rượt đuổi một đám sóc không biết là nó có ở đó. Hắn bật cười khe khẽ khi chú chó tự vấp phải chân mình, ngã lăn lông lốc trên đất rồi lại đứng dậy và lao qua những rặng cây. Wallace hầu như không cảm thấy sợi dây giật giật mắt cá chân hắn, đầu kia buộc vào lan can thềm để giữ không cho hắn bay đi mất.
Hắn cúi xuống nhìn chàng trai đứng cạnh mình, vai cao ngang đầu gối hắn.
“Cháu không nhớ lắm đâu,” Cameron nói, và Wallace chẳng hề ngạc nhiên. “Cảm giác như thế nào khi làm... Trấu ấy. Có vài hình ảnh thoáng qua, nhưng cháu hầu như chẳng nhìn rõ được, nói gì đến nhớ ra.”
“Như vậy có lẽ là tốt nhất.” Wallace không biết liệu nhớ được khoảng thời gian làm Trấu sẽ gây ảnh hưởng lên con người ta thế nào. Hẳn là chẳng có gì tốt đẹp cả.
“Hai năm,” Cameron thì thầm. “Hugo nói khoảng thời gian ấy kéo dài hơn hai năm.”
“Cậu không trách anh ấy được. Anh ấy không biết mà. Người ta bảo anh ấy rằng ta không thể làm được gì khi một người—”
“Cháu không trách chú ấy,” Cameron nói. Wallace tin cậu. “Là cháu tự chọn mà. Chú ấy đã cảnh báo cháu về những gì sẽ xảy ra nếu cháu bỏ đi, nhưng cháu không nghe theo nổi.”
“Càng tệ hơn là tên Thần Chết kia đã cố ép cháu làm vậy,” Wallace chua chát nói.
Cameron thở dài. “Ừa, nhưng đó không phải là lỗi của Hugo. Tất cả những gì chú ấy muốn làm là giúp cháu, và cháu đã không muốn để chú ấy giúp. Cháu đã nổi giận với cả thế giới. Cháu tưởng mình đã tìm được cách để chấm dứt. Chấm dứt toàn bộ những gì mình đang cảm nhận. Khi cháu nhận ra mọi chuyện chưa kết thúc, việc ấy như một cú tát thẳng mặt vậy. Tất cả vẫn cứ tiếp diễn. Chú có biết cảm giác ấy không?”
“Có chứ.” Rồi, “Có lẽ không tới mức độ cháu đang nói, nhưng tôi hiểu mà.”
Cameron ngước lên nhìn hắn. “Chú hiểu mà, phải không?”
“Tôi nghĩ vậy. Bất kỳ ai cũng thấy nặng nề khi nhận ra rằng chúng ta vẫn tiếp tục sống, ngay cả khi tim đã ngừng đập. Rằng khổ đau lúc sinh thời vẫn có thể đeo bám chúng ta thậm chí là qua cái chết. Tôi không trách cháu vì những gì đã xảy ra. Tôi nghĩ là chẳng ai trách được cháu đâu. Và cháu cũng không nên trách mình. Hãy rút kinh nghiệm. Hãy trưởng thành nhờ việc ấy, nhưng đừng để nó nuốt chửng cháu lần nữa. Tôi biết, việc này nói dễ hơn làm.”
“Nhưng nhìn chú kìa,” Cameron nói. “Chú đang...”
Wallace bật cười bất chấp họng đang nghẹn lại. “Tôi biết chứ. Nhưng tôi không muốn cháu lo lắng về việc này. Tôi nghĩ... tôi nghĩ cháu đã góp sức dạy tôi những gì tôi phải học đấy.”
“Là những gì vậy?” Cameron hỏi.
Wallace ngửa mặt nhìn trời, ngả lưng ra sau tới khi hắn gần như nằm song song với mặt đất. Mây trời lững lờ trôi qua, những cụm bông xù trắng muốt không có đích đến cụ thể nào. Hắn giơ hai bàn tay lên, nắng ấm chiếu xuyên qua tay hắn đỏ hồng. “Rằng chúng ta phải buông tay thôi, dù việc ấy có thể đáng sợ đến thế nào đi nữa.”
“Cháu đã phung phí nhiều thời gian quá rồi. Zach hẳn sẽ giận cháu lắm cho xem.”
“Cháu sẽ biết ngay thôi ấy mà. Cháu có yêu cậu ta không?”
“Có chứ.” Câu trả lời thốt lên cùng cảm xúc mãnh liệt hữu hình đến nỗi Wallace nếm được hương vị ấy ở cuống họng, như một đống lửa tàn còn le lói và âm ỉ cháy.
“Và cậu ta yêu cháu ư?”
Cameron bật cười nghẹn ngào. “Yêu đến không thể yêu hơn được nữa. Cháu không phải là người tuyệt vời nhất để ở chung, nhưng anh ấy đã nhìn xuyên qua toàn bộ bề ngoài để tìm phần tốt đẹp bên dưới. Anh ấy kiên nhẫn vô cùng với cháu. Tử tế và trìu mến lắm. Anh ấy nắm lấy những phần tồi tệ nhất trong cháu và kéo chúng ra ngoài ánh sáng.” Cậu cúi đầu. “Cháu sợ lắm, Wallace ạ. Nhỡ đâu đã quá muộn thì sao? Nhỡ cháu lề mề quá thì sao?”
Wallace trở mình giữa không trung, nhìn xuống Cameron. Người hắn không đổ bóng. Không ai trong hai người có bóng, nhưng chẳng sao hết. Họ đang ở đây. Họ có thật. “Vài năm thì có là gì so với thiên trường địa cửu.”
Cameron sụt sịt. “Chú nghĩ vậy thật ư?”
“Ừa,” Wallace nói. “Thật đấy.”
✽Hôm trước khi Quản Lý quay lại, thời gian dường như trôi qua một cách rời rạc. Hugo dành hầu hết thời gian trong ngày với Cameron. Trong thoáng chốc, Wallace đã thấy ghen tuông dữ dội, nhưng hắn kệ cho họ bên nhau. Cameron cần Hugo hơn. Wallace đã lựa chọn rồi.
“Cảm giác ấy thế nào?” Mei hỏi hắn. Họ đang ở trong bếp, Mei đi qua đi lại giữa một trong mấy cái lò và mặt bếp. Cửa tiệm đóng cửa, cô nàng bảo hắn, không có nghĩa là công việc cũng ngừng lại.
“Sao cơ?” Sợi dây dắt đang buộc quanh chân tủ lạnh, buộc thật chặt để chân hắn chạm đất.
Cô lưỡng lự. “Hugo kể là anh...” cô huơ tay về phía ngực mình.
Hắn nhún vai. “Thì là vậy đó.”
“Wallace.”
“Chơi vơi,” cuối cùng hắn trả lời.
Cô nắm lấy tay hắn, giật khẽ để chân hắn đạp lên sàn. “Tôi giữ được anh rồi.”
Hắn mỉm cười với cô. “Tôi biết rồi mà.”
“Tôi sẽ không để anh bay đi mất đâu. Anh không phải quả bóng bay.”
Hắn phá lên cười tới khi gần như không thở nổi.
✽Hắn không biết họ đang tổ chức cái gì.
Lẽ ra hắn phải biết là có sự kiện rồi chứ. Họ không phải dạng người mặc cho mọi chuyện diễn ra như bình thưởng.
Wallace đang lang thang quanh tầng trệt của tiệm trà, Apollo vui vẻ kéo dây để giữ cho hắn không bay, hắn đang hết sức cố gắng lờ đi những tiếng thì thầm nho nhỏ sâu trong đầu mình. Chúng không giống như âm thanh hắn nghe được từ Cameron. Những tiếng thì thầm này mạnh bạo hơn, chúng tới từ cánh cửa, và dù hắn không nghe rõ từng lời một, chúng trầm bổng du dương như diễn thuyết, vừa đe dọa lại vừa mê hoặc hắn. Hắn đang ám ảnh tiệm trà này, như con thuyền nhỏ giữa đại dương mênh mông. Chân hắn không hề chạm đất.
Nelson ngồi nhìn hắn trên ghế cạnh lò sưởi. Khi Apollo kéo Wallace đi qua chỗ ông cụ, Nelson nói, “Cậu cũng cảm nhận được, phải không?”
“Sao co?” Wallace hỏi, giọng đăm chiêu và kỳ quái.
“Cánh cửa ấy. Nó đang gọi cậu.”
“Phải,” Wallace thì thầm. Hắn lười nhác xoay vòng trong không trung.
“Cái lưỡi câu kia. Sợi cáp kia. Cậu từng có một cái phải không.”
Wallace chậm rãi chớp mặt, tỉnh táo lại. Ít ra là tỉnh táo hơn đôi chút. “Cụ cũng có nhỉ. Dĩ nhiên là vậy rồi. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện hỏi cụ. Chúng là thứ gì vậy?”
“Ta không biêt,” Nelson thú thực. “Không rõ lắm. Nó đã luôn móc ở đây rồi. Ta nghĩ đó là biểu trưng cho mối liên hệ, ràng buộc chúng ta vào Hugo, nhắc nhở chúng ra rằng ta không cô độc.”
“Giờ nó biến mất rồi,” Wallace thì thào, nhìn xuống ngọn lửa nổ lách tách. Hắn nhắm mắt lại. Hugo hiện ra, mỉm cười trong bóng tối.
“Có lẽ vậy,” Nelson nói. “Nhưng những gì nó đại diện thì không. Không ai có thể lấy đi mối liên hệ đó khỏi cậu. Nhớ những gì ta nói với cậu về cần và muốn không? Chúng ta không cần cậu vì nói vậy ám chỉ rằng cậu phải sửa chữa điều gì đó ở chúng ta. Chúng ta có lúc nào hỏng hóc đâu. Chúng ta muốn cậu, Wallace ạ. Từng tấc. Từng phần trong cậu. Vì chúng ta là một gia đình. Cậu thấy được sự khác biệt không?”
Wallace bật cười khe khẽ. “Nhưng tôi chưa uống tách trà thứ ba mà.”
Nelson gõ gậy lên sàn. “Đúng vậy. Ta nghĩ là chưa. Hãy sửa lại chuyện đó thôi, nhỉ?”
Mắt Wallace bật mở. “Sao cơ?”
Nelson gật đầu về phía nhà bếp.
Hugo và Mei bước vào qua cánh cửa đôi. Hugo đang bê một khay trà chất đầy những tách trà quen thuộc và một cái ấm đất nung. Cameron theo sau họ, mắt lấp lánh.
Hugo đặt khay trà lên một cái bàn. Anh vẫy hai người tới chỗ họ đứng bên bàn. Anh nói, “Cameron, chú có cái này cho cháu.”
Cameron chớp mắt. “Cho cháu ạ? Cháu tưởng đây là cho...” cậu nhìn Wallace.
Wallace lắc đầu. “Không. Đây là cho cháu. Tách trà đầu tiên của cháu.”
Nelson đứng dậy khỏi ghế, giật sợi dây khỏi miệng Apollo. Chú chó tưởng họ đang chơi đùa nên cố kéo sợi dây lại. Wallace bị giằng qua giằng lại, cười ngoác cả miệng, đến nỗi hắn tưởng mặt mình sẽ toác ra. Cuối cùng Apollo nhả sợi dây ra, sủa lên dưới chân Wallace khi Nelson kéo hắn về phía bàn.
“Trà ngấm đủ lâu chưa?” Wallace hỏi trong khi hương... cam? Phải, hương cam tràn ngập khắp tiệm trà.
“Đủ rồi,” Hugo nói. Tay anh run rẩy khi anh nhấc ấm lên. Mei đặt tay lên mu bàn tay ấy để giữ cho anh vững vàng. Anh rót trà vào từng tách. Khi đã rót xong, anh rót thêm vào một chiếc bát nhỏ có cùng hoa văn với các tách trà. Anh đặt ấm xuống rồi cầm bát đặt lên sàn trước mặt Apollo. Chú chó ngồi xuống trước cái bát, đầu nghiêng nghiêng chờ đợi. “Trà uống được rồi đấy.”
Cameron lưỡng lự rồi nghiêng người về phía ấm trà, hít thật sâu, “Ôi. Đây là...” cậu ngẩng lên, tròn mặt nhìn Hugo. “Cháu biết mùi hương này. Bọn cháu... có một cây cam. Ở sân sau nhà. Cái cây đó... Zach thích nằm dưới gốc cây và nhìn lên ánh nắng xuyên qua tán lá.” Cậu nhắm mắt lại, yết hầu di chuyển. “Mùi hương này giống như mái ấm vậy.”
“Hugo thông thạo công việc của mình mà,” Wallace nói. “Anh ấy giỏi vậy đấy.” Hắn nhìn tất cả mọi người. “Câu nói kia như thế nào ấy nhỉ?”
Họ biết hắn muốn nói gì. “Một tách còn người dưng,” Mei nói.
“Hai tách,” Nelson tiếp lời, “là khách quý?”
Hugo gật đầu. “Và ba tách thành người thân. Đó là một câu ngạn ngữ của người dân Balti. Tôi trân trọng câu nói ấy bằng cả tấm lòng vì có điều gì đó rất đặc biệt trong việc dùng trà với nhau. Ông nội đã dạy tôi điều ấy. Ông nói rằng khi chúng ta dùng trà với người khác, giây phút ấy thật thân mật và tĩnh lặng. Sâu lắng. Những hương vị khác nhau hòa quyện lại, cùng hương trà nồng nàn. Chỉ là tách trà nho nhỏ thôi, nhưng khi uống trà, chúng ta sẽ uống cùng nhau.” Anh đưa cho mỗi người một tách. Đầu tiên là Cameron. Tiếp theo là Mei. Rồi Nelson. Wallace là người cuối cùng. Nước trà sóng sánh khi hắn nhận cái tách từ Hugo, ngón tay họ gần sát nhưng không chạm, chẳng bao giờ chạm vào nhau. Hắn thật cẩn thận khi xoay vòng trong không trung, chĩa mũi chân xuống đất khi Nelson buộc sợi dây dắt vào chân bàn. “Mời mọi người, dùng trà với tôi nào.”
Anh đợi Cameron uống trước. Cameron nâng tách lên miệng, lại hít một hơi, mi mắt khép lại. Môi cậu cong lên thành nụ cười nhè nhẹ rồi nhấp trà. Tiếp theo là Mei, sau đó là Nelson, rồi Hugo. Apollo cũng uống, lưỡi liếm vào trong bát.
Wallace nâng tách lên miệng, hít vào mùi cam quyện với mùi gia vị. Hắn gần như có thể tưởng tượng ra khung cảnh ấy, nằm trên bãi cỏ, ngửa đầu nhìn tán cây trĩu quả, những phiến lá khẽ đung đưa trong gió mát, nắng lốm đốm rọi qua tán lá. Hắn hớp một ngụm thật to, nước trà chảy xuống họng, ấm bừng lên trong bụng hắn.
Khi trà đã hết, Wallace cảm thấy như mới chỉ vài giây trôi qua.
Có điều...
Có điều hoàn toàn không phải vậy, đúng không?
Vì hắn đã uống tách trà thứ ba. Ánh mắt hắn rời tới câu ngạn ngữ Balti treo trên quầy.
Người dưng.
Khách quý.
Gia đình.
Giờ hắn thuộc về họ cũng như họ thuộc về hắn vậy.
Hắn đặt tách trở lại bàn trước khi đánh rơi. Nó lạch cạch gõ lên bàn, nhưng nước trà còn lại không sánh ra ngoài.
Cameron làm theo. Cậu cúi đầu nhìn xuống tách, trên mặt là vẻ ngỡ ngàng. “Cháu có thể...” cậu ngẩng lên nhìn trần nhà. “Mọi người nghe được không? Nghe... nghe như một bài hát vậy. Đây là giai điệu đẹp nhất cháu từng nghe đấy.”
“Có chứ,” Nelson khẽ nói trong khi Apollo sủa lên.
“Tôi cũng nghe thấy,” Wallace nói.
Mei lắc đầu.
Hugo trông thật đau lòng, nhưng Wallace không mong đợi rằng anh nghe được những gì họ nghe thấy. Âm thanh này không dành cho anh, ít ra là chưa phải lúc.
“Nó đang kêu gọi cháu,” Cameron thì thào. “Nó muốn nói gì vậy?”
Wallace mỉm cười. “Cháu sẽ sớm biết thôi. Đến cuối cùng, chúng ta đều sẽ biết.” Hắn ngẩng đầu nhìn Hugo. “Cảm ơn anh.” Hắn tự bật cười. “Không thể tin được là phải chết đi tôi mới tìm được nơi tôi thuộc về. Nghĩ lại thì việc này có hơi buồn cười đấy.”
“Có hơi buồn cười,” Hugo lặp lại.
Họ quây quần quanh bàn, Wallace trôi lững lờ bên trên, uống trà tới khi không còn chút gì ngoài bã.
✽Hugo tìm thấy hắn ngoài thềm sau nhà, nằm trôi song song với mặt đất, hai tay đan lại gối sau đầu trong khi hắn nhìn lên trời đêm. Mei đã cột dây vào lan can thềm sau khi hắn nhờ cô, và bảo rằng hắn không được phép cởi dây vì bất kỳ lý do gì. Sao trời vẫn sáng như mọi khi. Chúng trải dài đến vô tận. Hắn tự hỏi liệu nơi hắn sẽ tới có sao trời hay không. Hắn hy vọng là có. Có lẽ hắn và Hugo có thể ngước nhìn cùng một bầu trời vào cùng một lúc.
Hugo ngồi xuống cạnh hắn, hai tay ôm chân, đầu gối áp lên ngực.
“Lại buổi tư vấn nữa, hả bác sĩ?” Wallace vừa hỏi vừa túm lấy sợi dây, kéo mình lại gần Hugo hơn. Mông hắn đập lên thềm. Hắn vươn ra sau nắm lấy mép thềm, giữ cho mình nằm yên một chỗ.
Hugo khịt mũi rồi lắc đầu. “Tôi không biết liệu mình còn gì để dặn anh không nữa.”
“Cameron đâu rồi?”
“Đang ở với ông và Mei.” Anh hắng giọng. “Cậu ấy, ờ. Ngày mai.”
“Ngày mai thì sao?” Một câu hỏi quan trọng, nhưng lúc này càng quan trọng hơn bao giờ hết.
“Cậu ấy sẽ siêu thoát.”
Wallace quay đầu sang nhìn Hugo. “Chưa gì mà đã đi?”
Hugo gật đầu. “Cậu ấy biết mình muốn gì.”
“Và cậu ấy muốn vậy.”
“Ừa. Tôi bảo cậu ấy rằng không cần phải vội, nhưng cậu ấy không nghe. Cậu ấy nghĩ mình đã phí phạm quá nhiều thời gian rồi. Cậu ấy muốn về nhà.”
“Nhà ư,” Wallace thì thầm.
“Nhà,” Hugo công nhận, yết hầu lên xuống. “Mai cậu ấy sẽ đi sớm.” Anh cúi đầu. “Anh cũng... anh cũng có thể đi, nếu muốn.”
“Chưa đâu,” Wallace nói. “Tôi sẽ đợi gã Quản Lý kia.”
Đầu Hugo ngẩng phắt dậy đầy cảnh giác. “Sao cơ? Anh định—”
Wallace lại ngửa mặt lên trời. “Ông ta phải nghe những gì tôi muốn nói.”
Hugo rên rỉ. “Wallace, anh không thể—”
“Quát ông ta? Chỉ trích ông ta? Mắng ông ta? Chắc chắn là được chứ. Tôi chết rồi, Hugo ạ. Ông ta chẳng làm được gì nhiều với tôi nữa đâu. Tôi nghĩ vậy.”
Hugo vươn tay về phía anh, rồi giây cuối lại thu tay về khi sực nhớ. Trông anh thật khổ sở khi lại ôm đầu gối. “Anh không phải làm việc ấy đâu.”
“Có chứ,” Wallace ung dung nói. “Tôi không biết ông ta là thứ gì, hay có thể làm được gì, nhưng ông ta là một kẻ dối trá. Ông ta nói với anh rằng chúng ta không làm được gì cho đám Trấu nữa. Chúng ta đã có thể giúp Cameron từ lâu rồi. Nhưng Quản Lý lại mặc kệ cậu ấy như vậy. Thế là không đúng, và tôi sẽ mắng ông ta tơi bời. Điều tồi tệ nhất ông ta có thể làm là gì kia chứ? Ông ta không phải Chúa trời. Ông ta cũng nói vậy mà. Và đã đến lúc có người chỉ trích ông ta vì những trò vớ vẩn ấy rồi.”
Hugo kêu lên một tiếng tắc nghẹn. “Anh điên rồi à?”
“Có thể lắm. Làm thế không hoành tráng à? Nhưng việc này không phải là về tôi.” Đây là lần đầu tiên những lời ấy phát ra từ miệng hắn, cảm giác thật lạ lẫm trên đầu lưỡi hắn. “Mà là về anh, Hugo ạ. Về con người anh. Về những gì anh có thể làm.” Hắn nuốt khan. “Anh phải nghĩ tới những chuyện về sau. Sau Cameron.” Hắn nhắm mắt lại. “Sau tôi.”
Hugo hít mạnh vào. “Sau anh.”
Wallace vừa thở dài vừa mở mắt. “Ừa. Sau tôi.”
Hugo nhìn hắn chằm chằm hồi lâu, Rồi, “Chúng ta có thể giúp họ.”
Wallace gật đầu. “Đã nghĩ xong về việc ây rồi, hở?”
Đúng vậy. Nếu... nếu việc kia thành công với Cameron, có lẽ nó có thể thành công với những người khác nữa.” Anh nhìn ra vườn trà. “Nhưng Quản Lý sẽ không thích đâu.”
Wallace cười khúc khích. “Phải, tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng dù là cái gì khác đi nữa, ông ta vẫn là một gã quan liêu. Và còn tệ hơn cả thế nữa, ông ta là một gã quan liêu đang chán muốn chết. Ông ta cần có việc tôi đã làm.”
“Là việc gì vậy?”
“Một cú sốc đối với hệ thống này. Theo tình hình hiện tại mà nói, nó đang không có hiệu quả. Đám Trấu kia. Cảm giác tuyệt vọng của họ, khiến họ không thể siêu thoát. Phải có thứ gì đó thay đổi thôi.”
“Một cú sốc đối với hệ thống à,” Hugo nói, nghiền ngẫm lời hắn. “Việc này có thể sẽ nguy hiểm đấy, Wallace ạ.”
Hắn ngửa mặt lên trời. “Nhưng anh đã biết đó là điều nên làm rồi. Anh không cần tôi nói vậy với anh đâu nhỉ.”
“Tôi...” Hugo lắc đầu, “Anh đi với tôi chứ? Tôi muốn cho anh thấy chỗ này.”
“Chỗ nào vậy?”
“Anh sẽ thấy thôi. Đi nào.”
Wallace đẩy mình khỏi thềm, trôi thẳng người dậy. Hắn nảy lên xuống khi sợi dây căng ra. Hắn đong đưa qua lại, chậm rãi chớp mắt. Hắn tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu mình tháo sợi dây ra, liệu mình có tiếp tục bay lên, bay lên và bay lên tới khi yên vị giữa những vì sao không. Đó là một suy nghĩ kỳ diệu vô cùng.
Thay vào đó, Hugo kéo hắn vào trong nhà, cẩn thận để Wallace không va đầu vào khuôn cửa.
Đồng hồ tích tắc tiễn từng giây.
Mei và Cameron đang ngồi trên sàn trước lò sưởi, Apollo nằm ngửa ra, chân chổng lên trời. Nelson đang ngồi trên ghế. Họ không nói gì khi Hugo lên tầng, Wallace theo sau, chân không hề chạm đất.
Hắn tưởng Hugo sẽ dẫn hắn tới chỗ cánh cửa và nói thêm về những ý nghĩa của nó, những gì có lẽ sẽ nằm ở phía bên kia. Hắn kinh ngạc khi Hugo đi tới một trong những cánh cửa đang đóng ở tầng hai.
Cửa dẫn vào phòng anh, phòng duy nhất Wallace chưa vào.
Hugo dừng lại, tay đặt trên nắm đấm cửa. Anh quay lại nhìn Wallace. “Anh sẵn sàng chưa?”
“Sẵn sàng làm gì?”
“Biết tôi.”
Wallace bật cười. “Chắc chắn rồi.”
Hugo mở cửa rồi bước qua một bên. Anh ra hiệu cho Wallace bước qua.
Hắn làm theo, cúi thấp đầu.
Phòng nhỏ hơn hắn tưởng. Hắn biết phòng ngủ chính ở tầng ba, và nó thuộc về Nelson và vợ ông cụ trước khi họ qua đời.
Phòng này ngăn nắp và sạch sẽ. Harvey, gã thanh tra y tế, chắc chắn sẽ thấy hài lòng. Không có đến một hạt bụi nào, không có đống lộn xộn nào hay đồ gì để không đúng chỗ.
Cũng như tầng trệt, tường ở đây dán đầy áp phích và tranh ảnh về những vùng đất xa xôi. Một cánh rừng bạt ngàn cổ thụ. Một bức tượng cổ xưa trên bờ sông xanh mướt. Những dải băng rôn rực rỡ treo trên một khu chợ sặc sỡ đầy người dân mặc váy lả lướt. Những ngôi nhà mái rạ. Mặt trời mọc trên đồng lúa mì. Một hòn đảo giữa biển, một ngôi nhà kỳ lạ được xây trên vách đá nơi ấy.
Nhưng không phải tất cả đều là những giấc mơ ngoài tầm với.
Một người đàn ông và một người phụ nữ trông giống Hugo mỉm cười trong khung hình treo ở chính giữa tường. Dưới đó là một tấm ảnh khác, ảnh này chụp một chú chó dơ dáy trông thật cáu kỉnh khi Hugo tắm cho nó. Bên cạnh ảnh này là Hugo và Nelson đứng trước tiệm trà, hai tay khoanh trước ngực, cả hai đều cười ngoác tận mang tai. Dưới ảnh hai người là ảnh Mei trong bếp, mặt lốm đốm bột, mắt lấp lánh, chĩa cây phới vào ống kính.
Và chúng cứ thế nối tiếp nhau, ít nhất phải mười hai tấm nữa, kể câu chuyện về một cuộc đời trôi qua kiên cường và đầy tình thương.
“Thật tuyệt vời,” Wallace nói, săm soi tấm ảnh chụp bé Hugo ngồi trên vai người đàn ông trông như bố anh. Người này có bộ ria mép dày, rậm và đôi mắt ánh lên những tia tinh nghịch.
“Chúng giúp tôi nhớ lại,” Hugo khẽ nói, đóng cửa lại sau lưng. “Tất cả những gì tôi có. Tất cả những gì tôi từng có.”
“Anh sẽ gặp lại họ thôi.”
“Anh nghĩ vậy ư?”
Hắn gật đầu. “Có khi tôi có thể tìm họ trước. Tôi có thể... không biết nữa. Kể cho họ nghe về anh. Tất cả những gì anh đã làm. Họ sẽ tự hào về anh lắm đấy.”
Hugo nói. “Việc này không dễ dàng với tôi chút nào.”
Wallace quay người trong không trung. Hugo cau mày, trán nhăn lại. Anh đưa tay lên tuột khăn khỏi đầu mình.
“Việc gì không dễ dàng?”
“Việc này,” Hugo nói, ra hiệu giữa hai người họ. “Anh và tôi. Tôi đã dành cả đời để nói, nói và nói. Người như anh đến với tôi, và tôi nói với họ về thế giới họ bỏ lại phía sau, và những gì chờ đợi phía trước. Rồi không việc gì phải sợ và họ sẽ được thanh thản trở lại ngay cả khi họ đang trong lúc suy sụp nhất.”
“Nhưng?”
Hugo lắc đầu. “Tôi không biết phải làm gì cùng anh. Tôi không biết nói những điều mình muốn nói thế nào nữa.”
“Anh không cần phải làm gì cùng—”
“Đừng,” Hugo khản giọng. “Đừng nói vậy. Anh biết là không phải vậy mà.” Anh thả rơi tấm khăn xuống sàn. “Tôi muốn làm mọi việc cùng anh.” Rồi, bằng giọng thì thầm như thể to tiếng hơn sẽ khiến họ triệt để vỡ vụn, Hugo nói, “Tôi không muốn anh đi.”
Năm chữ nho nhỏ. Năm chữ trước nay chưa ai từng nói với Wallace Price. Chúng mong manh dễ sợ, và hắn ghi nhớ chúng, ôm chặt chúng vào lòng.
Hugo lột tạp dề qua đầu, mặc nó đáp đất cạnh mảnh khăn. Anh nhón chân cởi tất. Tất anh đi màu trắng, thủng một lỗ gần ngón cái.
Wallace nói, “Tôi...”
“Tôi biết,” Hugo nói. “Ở lại với tôi đi. Chỉ đêm nay thôi.”
Cõi lòng Wallace tan nát. Nếu họ là bất kỳ ai khác, đây có thể là lúc câu chuyện bắt đầu. Là khởi đầu thay vì kết thúc. Nhưng họ chẳng là ai khác cả. Họ là Wallace và Hugo, đã chết và còn sống. Vực sâu thăm thẳm trải dài giữa hai người họ.
Hugo tắt đèn, khiến căn phòng tối mờ. Anh đi tới bên giường. Chiếc giường thật đơn sơ. Khung gỗ. Đệm to rộng. Ga giường và tấm phủ xanh lơ. Gối trông êm ái vô cùng. Giường cọt kẹt khi anh ngồi xuống đó, hai tay buông thõng giữa hai chân. “Xin anh đấy,” Hugo khẽ nói.
“Chỉ đêm nay thôi đấy,” Wallace nói.
Hắn nhìn xuống chân mình, đang lơ lửng trên mặt sàn gỗ. Mặt hắn nhăn nhúm lại, và giày hắn biến mất. Hắn chẳng quan tâm gì đến chỗ quần áo còn lại. Hắn sẽ không ngủ đâu.
Hugo ngẩng lên khi Wallace trôi về phía anh. Trên mặt anh là một biểu cảm kỳ lạ và Wallace tự hỏi tại sao Hugo lại chọn mình, mình đã làm việc tốt gì khi còn sống để có được giây phút này.
Hugo gật đầu, trượt ra sau trên giường, duỗi người ra ở mép bên kia. Anh cao đến nỗi chân thò ra khỏi giường. Anh túm lấy sợi dây đang đong đưa, buộc nó vào đầu giường, đầu dây thừa rơi trên gối bên cạnh anh.
Wallace cúi xuống áp tay lên giường, thầm ước gì mình có thể nằm xuống cạnh Hugo. Ngón tay hắn bấu vào tấm phủ mềm mại. Hắn kéo mình xuống tới khi mặt áp lên chăn, rồi hít vào thật sâu. Chăn có mùi như Hugo, mùi bạch đậu khấu, quế và mật ong. Hắn thở dài, nhúc nhích tới khi trôi lững lờ phía trên Hugo, người đã ngả đầu lên gối, mắt lấp lánh trong bóng tối khi đang quan sát Wallace.
Đầu tiên họ chẳng nói gì. Wallace có rất nhiều điều để nói, nhưng hắn không biết phải bắt đầu thế nào.
Hugo thì có. Anh luôn biết cách bắt đầu. “Xin chào.”
Wallace nói, “Xin chào, Hugo.”
Hugo giơ tay về phía Wallace, năm ngón tay xòe ra. Wallace cũng làm tương tự, bàn tay họ chỉ cách nhau vài phân. Họ không thể chạm vào nhau. Sau cùng thì, Wallace đã chết rồi mà. Nhưng hắn thấy sướng. Vẫn thấy rất sướng. Wallace tưởng tượng rằng mình cảm nhận được hơi ấm từ da thịt của Hugo.
Hugo lên tiếng, “Tôi nghĩ tôi biết tại sao anh được đưa tới chỗ tôi rồi.”
“Tại sao?” Wallace hỏi.
Giọng họ khẽ khàng, êm ái. Thầm kín.
Hugo buông tay xuống giường, và nỗi buồn Wallace cảm thấy lúc ấy thật mênh mông. “Anh khiến tôi tự hỏi nhiều điều. Tại sao mọi việc phải diễn ra như vậy. Vị trí của tôi trên cõi đời này. Anh khiến tôi khao khát những thứ tôi không có được.”
“Này Hugo.” Hắn vỡ toác ra.
“Ước gì mọi chuyện không như thế này,” Hugo thì thầm. “Ước gì anh còn sống và tìm được đường tới đây. Lúc ấy có thể là một ngày như bao ngày khác. Có lẽ trời đang nắng. Có lẽ trời đang mưa. Tôi đang đứng sau quầy. Cửa mở ra. Tôi ngẩng lên. Anh bước vào. Anh cau mày, vì anh không biết mình đang làm cái quái gì trong một tiệm trà ở nơi khỉ ho cò gáy này.”
Wallace khịt mũi. “Nghe hợp lý đấy.”
“Có thể anh đang đi qua đây,” Hugo tiếp tục. “Anh lạc đường, và anh cần tôi giúp tìm đường. Hoặc có thể anh tới đây để ở lại. Anh đi tới quầy. Tôi nói xin chào, và chào mừng anh tới Bến Đò Charon.”
“Tôi sẽ bảo anh rằng tôi chưa bao giờ uống trà trước đây. Trông anh như bị xúc phạm.”
Hugo nhoẻn miệng cười ngượng nghịu. “Chắc là không đâu.”
“Ừa, ừa. Cứ tự nhủ là vậy đi. Anh sẽ khó chịu lắm cho xem. Nhưng anh cũng sẽ kiên nhẫn với tôi.”
“Tôi sẽ hỏi anh anh thích vị gì.”
“Bạc hà. Tôi thích vị bạc hà.”
“Vậy thì tôi có đúng loại trà cho anh đây. Tin tôi đi, trà ngon lắm. Điều gì đã mang anh tới đây?”
“Tôi không biết,” Wallace nói, đắm chìm trong câu chuyện cổ tích nơi tất cả đều đẹp đẽ và không hề có khổ đau. Trước đây hắn đã thầm nghĩ đến việc này rồi. Nhưng giờ nó đã được phơi bày, và hắn không bao giờ muốn câu chuyện này kết thúc. “Tôi thấy biển báo gần đường vào và đánh liều xem sao.”
“Thật ư?”
“Ừa.”
“Cảm ơn anh vì đã mạo hiểm nhé.”
Wallace cố không nhắm mắt lại. Hắn không muốn vuột mất khoảnh khắc này. Hắn ép mình ghi nhớ từng tấc trên mặt Hugo, độ cong cánh môi, chỗ râu lún phún anh bỏ sót trên cằm khi cạo râu lúc trước. “Anh sẽ pha trà. Bỏ trà vào ấm nhỏ và đặt lên khay. Tôi sẽ ngồi ở cái bàn gần cửa sổ.”
“Tôi sẽ bê khay ra cho anh,” Hugo nói. “Sẽ có chiếc tách thứ hai, vì tôi muốn anh mời tôi ngồi xuống với anh.”
“Tôi sẽ mời.”
“Anh sẽ mời,” Hugo tán thành. “Ngồi lại một lát đi, anh nói. Dùng trà với tôi nào.”
“Anh sẽ nghe tôi chứ?”
“Có chứ. Tôi ngồi vào ghế đối diện anh. Mọi thứ khác đều dần tan biến tới khi chỉ còn anh và tôi.”
“Tôi là Wallace.”
“Tôi là Hugo. Rất vui khi được gặp anh, Wallace ạ.”
“Anh rót trà.”
“Tôi đưa anh tách trà.”
“Tôi đợi anh rót trà cho mình.”
“Chúng ta uống trà cùng lúc,” Hugo nói. “Và tôi thấy giây phút vị trà lan tỏa trên lưỡi anh, cách anh mở to mắt. Anh đã không nghĩ là trà lại có vị như vậy.”
“Hương vị ấy khiến tôi nhớ về khi còn bé. Khi mọi chuyện còn dễ hiểu.”
“Trà ngon đấy, nhỉ?”
Wallace gật đầu, mắt cay xè. “Trà ngon lắm. Hugo, tôi—”
Hugo nói, “Và có lẽ chúng ta sẽ chỉ ngồi đó, phí phạm cả một buổi chiều. Chúng ta trò chuyện. Anh kể với tôi về thành phố, về những người hối hả dù đang đi đâu đi nữa. Tôi kể với anh khu rừng vào mùa đông trông sẽ thế nào, tuyết chất chồng trên cành cây tới khi cành trĩu xuống sát đất. Anh kể với tôi về mọi thứ anh đã thấy, mọi nơi anh đã tới. Tôi lắng nghe, vì tôi cũng muốn đi thăm những nơi ấy.”
“Anh có thể mà.”
“Vậy ư?”
“Ừ,” Wallace nói. “Tôi có thể cho anh thấy mà.”
“Thật chứ?”
“Có thể tôi sẽ quyết định ở lại,” Wallace nói, và hắn chưa từng nghiêm túc hơn, “Ở lại thị trấn này. Nơi này.”
“Anh sẽ tới đây mỗi ngày, thử nhiều loại trà khác nhau.”
“Phần lớn trong số đó tôi sẽ không thích.”
Hugo bật cười. “Phải, vì anh rất kỹ tính. Nhưng tôi sẽ tìm ra những loại anh thích, và đảm bảo rằng tôi sẽ luôn có sẵn ở đây.”
“Một tách tôi vẫn là người dưng.”
“Hai tách anh là khách quý.”
Và Wallace nói, “Rồi tôi sẽ uống thêm tách nữa. Rồi lại tách nữa. Xong lại nữa. Như vậy tôi sẽ là gì?”
“Gia đình,” Hugo nói. “Như vậy anh sẽ là gia đình.”
“Hugo?”
“Ừa?”
“Đừng quên tôi nhé. Xin đừng quên tôi.”
“Làm sao tôi quên được anh kia chứ?” Hugo nói.
“Kể cả khi tôi đi rồi ư?”
“Kể cả khi anh đi rồi. Đừng nghĩ đến chuyện ấy lúc này. Chúng ta vẫn còn thời gian mà.”
Đúng vậy.
Mà cũng chẳng đúng.
Mi mắt Hugo dần trĩu nặng. Anh cố thanh tỉnh, chậm rãi chớp mắt, nhưng anh đã thua rồi. “Tôi nghĩ sẽ vui lắm đây,” anh nói, câu chữ hơi nhíu vào nhau. “Nếu anh tới đây ấy. Nếu anh ở lại. Chúng ta sẽ uống trà và trò chuyện và một ngày nào đó, tôi sẽ nói với anh rằng tôi yêu anh. Rằng tôi không thể tưởng tượng cuộc đời mình ra sao nếu thiếu anh. Anh khiến tôi khát khao nhiều điều hơn tôi từng nghĩ mình có thể khao khát. Quả là một ước mơ buồn cười nhỏ nhoi.”
Mắt anh nhắm lại và không mở ra nữa. Anh hít vào rồi thở ra, môi hé mở.
Một lát sau, Wallace nói, “Và tôi sẽ nói với anh rằng anh khiến tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết. Anh, Mei, Nelson và Apollo. Rằng nếu có thể, tôi sẽ ở lại với mọi người mãi mãi. Rằng tôi cũng yêu anh. Dĩ nhiên là vậy rồi. Sao tôi không yêu anh cho được? Nhìn anh kìa. Cứ nhìn anh mà xem. Quả là một ước mơ buồn cười nhỏ nhoi.”
Suốt phần còn lại của đêm hôm đó, hắn trôi lơ lửng phía trên Hugo, ngắm nhìn anh, chờ đợi.