← Quay lại trang sách

HẬU TRUYỆN

Vào một buổi tối giữa mùa hè, Nelson Freeman nói, “Ta nghĩ đã đến lúc rồi.”

Wallace ngẩng lên. Hắn đang lau rửa quầy sau một ngày nữa đứng thu ngân ở Tiệm Trà và Bánh Bến Đò Charon. Hugo và Mei đang ở trong bếp, lo chuẩn bị cho sáng hôm sau. Đây là lao động cực nhọc, là lao động có ích. Hắn mệt hơn là không, nhưng mỗi đêm hắn đều lên giường cùng cảm giác thành tựu.

Việc hắn và Hugo làm việc với nhau trơn tru như vậy chắc chắn chẳng gây ảnh hưởng gì. Sau khi Quản Lý rời đi, và một khi ánh sáng ngùn ngụt tỏa lên từ sinh mệnh đã hơi phai nhạt, Wallace đã thấy lo rằng quá nhiều việc đang đến quá sớm. Chứa một con ma trong nhà là một lẽ. Rồi con ma đó biến ra bằng xương bằng thịt và nằm chung giường với mình là một lẽ khác hẳn. Hắn đã nghĩ tới chuyện chuyển ra đâu đó trong thị trấn để cho hai người chút không gian hoặc, chí ít, là sang một phòng khác trong nhà. Nancy đã quyết định chuyển về sống ở quê cũ, và căn hộ của bà đã trống. Bà đã tới chào tạm biệt, ôm Hugo trước khi rời đi. Bằng một cách nào đó, trông bà... rạng rỡ hơn. Vết thương lòng của bà chưa lành, và sẽ còn rỉ máu trong một thời gian dài nữa, nếu không muốn nói là mãi mãi, nhưng sự sống đang dần trở lại nơi bà. Bà nói với Hugo, “Tôi đang bắt đầu lại từ đầu. Tôi không biết liệu mình có quay lại đây không. Nhưng tôi sẽ không quên những gì xảy ra ở đây đâu.”

Nói rồi, bà ra đi.

Hugo đã gạt phăng ý tưởng thuê lại căn hộ của bà của Wallace với vẻ mặt cáu kỉnh và hai tay khoanh lại. “Anh ở đây được mà.”

“Em không nghĩ như vậy là quá sớm à?”

Anh lắc đầu. “Chúng ta đã tống khứ được phần khó nhằn rồi, Wallace ạ. Em muốn anh ở đây.” Anh cau mày, trông lưỡng lự. “Trừ khi anh muốn đi.”

“Không, không,” Wallace vội nói. “Anh khá thích nơi ở hiện tại của mình rồi.”

Hugo toét miệng cười với anh. “Thật à? Và chính xác thì anh thích gì ở nơi này?”

Wallace đỏ mặt, lẩm bẩm một mình rằng Hugo đã trở nên quá kênh kiệu rồi kìa.

Và đó là lần cuối cùng hắn nhắc đến chuyện ấy.

Thời gian này không dễ dàng. Dĩ nhiên là vậy. Wallace đang học cách sống một lần nữa, và học cách điều chỉnh mà hóa ra khó hơn hắn tưởng. Hắn vẫn phạm sai lầm. Nhưng hắn không còn giống như trước khi tim mình ngừng đập nữa.

Có đôi khi, họ cũng cãi vã, nhưng những trận cãi vã luôn nhỏ nhặt thôi, và họ không bao giờ giữ lại điều gì trong lòng. Họ đang thành công trong mối quan hệ này. Wallace chắc chắn rằng họ sẽ luôn như vậy.

Và không phải là họ lúc nào cũng dính lấy nhau như sam. Họ đều có việc để làm. Mei khoái chí vào vai huấn luyện viên của Wallace. Cô chỉ ra những khi hắn làm sai rất nhanh, nhưng không bao giờ trách cứ hắn. Cô khiến hắn làm việc vất vả nhưng chỉ vì cô biết hắn làm được những gì. “Một ngày nào đó,” cô nói với hắn, “anh sẽ làm việc này một mình. Anh phải tin tưởng bản thân, ông anh ạ. Em biết là em tin vào anh đấy.”

Công việc này lớn hơn hắn tưởng. Hắn chưa từng nghĩ tới cái chết cho tới lúc chết đi. Và giờ khi đã sống lại, đôi khi hắn chật vật để nắm bắt toàn cảnh, và mục đích của tất cả. Nhưng hắn đã có Mei, Nelson và Apollo để dựa vào khi chuyện trở nên khó hiểu. Và Hugo nữa, dĩ nhiên rồi. Lúc nào hắn cũng có Hugo.

Quản Lý đã trở lại vài tuần sau khi hồi sinh Wallace. Và đi theo nó là con Trấu thứ hai, một người phụ nữ với hàm răng đen xỉn và ánh mắt trống rỗng. Wallace cau mày khi thấy cô, nhưng hắn không sợ.

“Làm gì tùy các người,” Quản Lý nói, không đề nghị giúp đỡ gì thêm. Nó ngồi lên ghế, chóp chép ăn một đĩa scone còn thừa lại.

“Ông không giúp hả?” Wallace hỏi.

Quản Lý lắc đầu. “Tại sao ta phải giúp? Một người quản lý giỏi biết cách giao việc mà. Các anh đi mà tự tìm cách.”

Cuối cùng họ cũng tìm ra cách, nhờ có Mei. Trong khi Quản Lý quan sát, cô đứng trước con Trấu kia. Cô nắm lấy tay cô ta. Mei nhăn mặt, và nếu tình huống này cũng giống như với Cameron, Wallace biết cô đang thấy những hình ảnh trong đời người phụ nữ này, những lựa chọn cô ta đã làm và khiến cô ta trở thành như hiện nay. Tới khi cô buông tay người kia, cô đã khóc. Hugo vươn tay về phía cô, nhưng Mei lắc đầu. “Không sao đâu,” cô yếu ớt nói. “Chỉ là... quá nhiều thứ mà thôi. Cùng một lúc.” Cô lau mắt. “Em biết cách giúp cô ấy rồi. Cũng giống như giữa Wallace và Cameron vậy. Hugo, tùy anh đấy.”

Hugo bước tới trước, và dù Wallace không thấy được, hắn biết Hugo đang nắm lưỡi câu trên ngực mình, giựt nó ra cùng một tiếng rên. Không khí trong tiệm trà nóng lên khi anh ấn lưỡi câu lên ngực Trấu. Cô ta nôn khan trong lúc làn da bắt đầu nhuốm màu sự sống. Cô cúi gập người, bấu chặt mạn sườn khi hàm răng đen xỉn biến thành trắng.

“C-ááái gì,” người phụ nữ rên lên. “C-ááái gì... vậy. Chuyện. Gì đang xảy ra vậy?”

“Cô được an toàn rồi,” Hugo nói. Anh nhìn Wallace, hắn nhướn một bên mày, nhìn chằm chằm lên ngực Hugo. Hugo gật đầu, và Wallace thở phào một hơi nhẹ nhõm. Một lưỡi câu khác đã hiện ra trên ngực Hugo, kết nối anh với người phụ nữ. Việc này đã thành công rồi. “Có tôi ở đây. Nói cho tôi nghe cô tên gì được không?”

“Adriana,” cô thì thào.

Quản Lý lèm bèm qua một miệng đầy sconce.

Từ ngày hôm đó, họ đã giúp thêm cả tá Trấu nữa. Đôi khi là Mei làm. Nhiều khi lại là Wallace. Có những ngày họ sẽ tự đi tìm các Trấu, và những ngày khác các Trấu sẽ xuất hiện trên con đường dẫn tới tiệm trà, xung quanh là những vết móng vuốt cào trên đất. Có vài người khó khăn hơn những người khác. Có một người đã làm Trấu gần hai trăm năm và không nói tiếng Anh. Họ đã giúp được anh ta trong chân tơ kẽ tóc, nhưng Wallace biết rằng từ đó việc này sẽ chỉ mỗi ngày một dễ hơn. Họ sẽ làm những gì có thể làm cho tất cả những người tới với họ.

Người dân trong thị trấn tò mò về người mới ở Bến Đò Charon. Chẳng mất mấy thời gian để tin đồn về Wallace và mối quan hệ giữa hắn và Hugo lan tràn. Người ta đến để trố mắt nhìn hắn. Các bà luống tuổi rì rầm âu yếm, các cô trẻ tuổi (và vài người đàn ông nữa, khiến Wallace thấy hoan hỉ một cách phức tạp) có vẻ thất vọng rằng Hugo là hoa đã có chậu, và chẳng mấy chốc sự mới mẻ của tình huống này phai nhạt và Wallace lại trở thành một thành viên cố định khác trong thị trấn. Người ta vẫy tay chào hắn khi thấy hắn trên hè phố hay trong cửa hàng thực phẩm. Hắn luôn vẫy tay chào lại.

Wallace Price trở thành Wallace Reid. Ít ra thì, đó là cái tên ghi trên chứng minh thư và thẻ bảo hiểm y tế mới của hắn. Mei bảo hắn đừng có hỏi quá nhiều khi cô nàng đưa hai cái thẻ cho hắn khi trở về từ chuyến thăm mẹ dài ba ngày, chuyến đi mà cô nói rằng đã diễn ra tốt đẹp hơn cô tưởng. “Mẹ có người quen,” cô nói, nhếch môi. “Bà ấy chọn họ cho anh đấy. Em cho bà ấy xem vài tấm ảnh của anh, và bà ấy bảo em nhắn anh rằng cái họ này là vì anh gầy như cây sậy ấy, và anh phải ăn nhiều hơn đi.”

“Tôi sẽ viết lời cảm ơn gửi cho bà ấy,” Wallace nói, lơ đễnh trong khi ngón tay mân mê cái tên mới của mình.

“Tốt. Bà ấy đợi anh cảm ơn đấy?”

Desdemona Tripplethorne quay lại tiệm trà, bảo họ rằng cô ả muốn tận mắt thấy nhân viên mới ở Bến Đò Charon. Béo Lùn và Cao Gầy chen chúc đằng sau ả, nhìn Wallace chằm chằm. Desdemona săm soi hắn trong khi hắn ngọ nguậy. Cuối cùng, ả cau mày, và nói, “Chúng ta... đã gặp nhau chưa nhỉ? Ta thề là ta từng gặp anh ở đâu đó rồi.”

“Không đâu,” Wallace nói. “Làm sao chúng ta từng gặp nhau được? Tôi chưa bao giờ tới đây trước kia.”

“Chắc anh nói đúng đấy,” ả chậm rãi nói. Ả lắc đầu. “Tên ta là Desdemona Tripplethorne, ta tin là anh đã nghe danh ta rồi. Ta là nhà tiên tri—”

Mei húng hắng ho. Tiếng ho nghe giống chữ vớ vẩn một cách kỳ lạ.

Desdemona lờ cô đi. “— và thi thoảng ta tới đây để nói chuyện với những linh hồn ám ảnh nơi này. Ta biết chuyện ấy nghe có vẻ thế nào. Nhưng thế giới này còn nhiều điều hơn anh biết đấy.”

“Thật à?” Wallace hỏi. “Làm sao cô biết được?”

Cô ta gõ gõ thái dương. “Ta có lực mà.”

Một tiếng sau cô ta rời đi, thất vọng khi miếng gỗ trên bàn cầu cơ và chiếc bút lông ngỗng không xê dịch dù chỉ một mi-li-mét. Ta sẽ quay lại, cô ta hoành tráng tuyên bố trước khi rời khỏi tiệm trà bằng động tác quay ngoắt đầy kênh kiệu, Béo Lùn và Cao Gầy hối hả theo sau.

Và cứ tiếp tục như thế, đời là vậy đấy, mãi mãi trôi về phía trước. Những ngày vui, những ngày không vui lắm, những ngày hắn tự hỏi làm sao mình có thể chịu được việc bị chết chóc vây quanh thêm một phút nào nữa. Và Hugo cũng cảm thấy vậy: anh vẫn có những cơn hoảng loạn, dù thi thoảng lắm mới bị, những ngày mà hơi thở sẽ kẹt lại trong ngực anh, phổi co hết lại. Wallace chưa bao giờ cố ép anh vượt qua những cơn hoảng loạn, mà chỉ ngồi với anh ngoài thềm sau, gõ, gõ, gõ mãi, với Apollo cảnh giác nằm bên chân Hugo. Khi Hugo hồi phục lại, hơi thở chậm rãi và sâu lắng, Wallace sẽ thì thầm, “Ổn cả chứ?”

“Em sẽ ổn thôi,” Hugo nói, đưa tay nắm lấy tay Wallace.

Không phải lúc nào cũng là Trấu. Các linh hồn vẫn tới chỗ họ, những linh hồn cần người như Hugo làm Người lái đò của họ. Thường thì họ giận dữ và tàn phá, cay cú và lạnh lùng. Vài người trong số họ ở lại nhiều tuần liền, lải nhải và giận dữ về việc họ không muôn chết, rằng họ không muốn bị giam giữ ở đây, họ đi đây, và không gì có thể cản họ lại... Thậm chí có lần Wallace phải dọa sẽ giật sợi cáp nối từ ngực họ tới ngực Hugo, dọa rằng sẽ gỡ lưỡi câu giữ cho họ tỉnh táo ra.

Họ không làm vậy.

Họ luôn ở lại.

Họ lắng nghe.

Họ học hỏi.

Họ hiểu, sau một thời gian. Vài người chỉ mất nhiều thời gian hơn người khác.

Nhưng không sao cả.

Mỗi người đều tìm được đường tới cánh cửa, và tới những gì về sau.

Sau cùng, Bến Đò Charon chỉ là một trạm trung chuyển.

Ít ra là cho người chết.

Chính người sống mới là những người phát hiện ra rằng gốc rễ của họ đã đâm sâu xuống lòng đất. Hugo có lần nói với Wallace, rằng ta cần kiên nhẫn để trồng trà. Ta cần phải bỏ thời gian vào đó và phải kiên nhẫn.

Đó là lý do tại sao, vào một buổi tối mùa hè, khi Nelson nói, “Ta nghĩ đã đến lúc rồi,” Wallace biết ý ông cụ là gì.

Nhưng bất kỳ câu trả lời nào hắn định nói đã khô khốc trong họng khi thấy người đứng trước mặt mình.

Ông cụ tựa người lên gậy đã biến mất.

Ở nơi ông vừa đứng là một người trẻ hơn rất nhiều, lưng thẳng tắp, hai tay chắp sau lưng trong khi nhìn ra cửa sổ, gậy đã biến mất như chưa từng tồn tại. Wallace nhận ra ông ngay lập tức. Hắn từng thấy chính con người này trong nhiều bức ảnh treo trên tường tiệm trà và trong phòng Hugo, hầu như đều đen trắng hoặc đổ màu cũ kỹ.

“Cụ Nelson ạ?” hắn thì thầm.

Nelson quay đầu lại và mỉm cười. Nếp nhăn của ông cụ đã biến mất, thay vào đó là làn da mịn màng của người trẻ hơn rất nhiều. Mắt ông cụ lấp lánh. Ông to hơn, khỏe hơn. Tóc ông là một nùi afro đen nhánh trên đầu, cũng giống như cháu trai ông vậy. Hàng thập kỷ đã bay biến tới khi đứng trước mặt Wallace là một người trông trẻ bằng Hugo. Nelson đã nói gì ấy nhỉ?

Đơn giản thôi, thật đấy. Ta thích mình già.

“Cụ giữ nguyên hình dáng cũ vì đó là hình dáng Hugo quen thuộc khi cụ còn sống ư.” Giọng Wallace khản đi.

“Phải,” Nelson nói. “Đúng vậy. Và ta sẽ lặp lại việc ấy nếu phải làm vậy, nhưng ta nghĩ đã đến lúc ta làm điều ta muốn rồi. Và Wallace ạ, ta muốn điều này.”

Wallace gạt nước mắt. “Cụ chắc chắn ư.”

Ông cụ nhìn ra ngoài cửa sổ. “Chắc chắn.”

Mei pha trà cho họ trong khi những người khác quây quần trong tiệm trà tối om, ánh trăng dát bạc khu rừng xung quanh. Hugo ngồi trên ghế, khăn đội đầu (màu đen có hoa văn vịt vàng) vắt trên đùi, nhìn quanh tiệm trà với nụ cười khẽ khàng trên mặt.

Mei bưng khay trà ra, đặt lên bàn. Mùi trà ngập tràn trong phòng, nồng nàn và ngất ngây. Hugo rót trà cho từng người, tách nào cũng đầy tận ngọn. Anh đưa tách cho mỗi người, đặt một cái bát xuống sàn cho Apollo, chú chó bắt đầu điên cuồng hớp trà. Wallace không uống nổi tách của mình, vì lo rằng tay mình sẽ run rẩy quá mức.

“Thế này thật tuyệt,” Hugo nói khi Mei ngồi xuống cạnh anh. Anh chưa bình luận gì về ngoại hình của ông mình. Trông anh sững sờ trong chốc lát khi thấy Nelson như bây giờ, nhưng Hugo đã mau chóng che đậy cảm xúc ấy. Wallace biết anh đang đợi Nelson mở lời. “Chúng ta nên tụ tập thường xuyên hơn. Chỉ có chúng ta, vào cuối ngày.” Anh lần lượt nhìn từng người, nụ cười phai đi khi mắt nhìn tới Wallace, người thất bại một cách thảm hại trong nỗ lực kiềm chế biểu cảm. “Sao vậy? Có vấn đề gì à?”

Wallace hắng giọng và nói, “Không đâu. Không có gì đâu. Anh—”

“Hugo,” Nelson nói, một vệt chai mỏng dính trên môi trên. “Cháu yêu Hugo của ta.”

Hugo nhìn ông cụ.

Và chỉ có vậy, anh đã biết.

Thương người tới gần như quá mức.

Hugo đặt tách xuống bàn.

Anh nhắm mắt lại.

Anh gọi, “Ông ơi?” bằng giọng nhỏ tí.

“Đã đến lúc rồi,” Nelson nói. “Ta đã sống một cuộc đời dài. Một cuộc đời tốt đẹp. Ta đã yêu thương. Ta đã được yêu thương ngược lại. Ta đã tạo ra một số điều từ hư không. Nơi này. Tiệm trà tí hon này. Vợ ta, tình yêu của ta. Các con ta. Và cháu, Hugo ạ. Ngay cả khi chỉ còn lại hai người chúng ta, ta vẫn hết sức gồng mình gắng gượng. Ta lo rằng mình không đủ, rằng cháu muốn nhiều hơn những gì ta có thể cho cháu.”

“Không đâu,” Giọng Hugo lạc đi. “Cháu không muốn cái gì khác cả.”

“Có lẽ là không,” Nelson dịu dàng đồng ý. “Nhưng cháu cũng đã tìm ra nó rồi. Cháu đã tìm ra điều ấy ở Mei và Wallace, nhưng ngay cả trước khi họ tới, cháu đã bắt tay vào việc rồi. Cháu đã gây dựng cuộc đời này, cuộc đời tuyệt vời này bằng chính tay mình. Cháu đã nhận lấy những công cụ ta trao cho và biến chúng thành của mình. Một người như ta còn đòi hỏi gì hơn được đây?”

“Cháu đau lòng quá,” Hugo vừa nói vừa ngẩng đầu dậy. Anh áp tay lên ngực, phía trên tim.

Mei nức nở vào lòng bàn tay, hơi thở khẽ nấc lên.

“Ta biết,” Nelson nói. “Nhưng giờ ta đã có thể đi, yên tâm khi biết rằng cháu đã đứng vững trên hai chân mình. Và khi những ngày mà cháu nghĩ cháu không thể đứng vững tới, cháu sẽ có những người khác để đỡ cháu. Mục đích là vậy đó, Hugo ạ. Mục đích của cuộc đời là vậy đó.”

“Đau buồn,” Hugo nghẹn lời. “Đây là đau buồn ư.” Apollo, vẫn luôn là chú chó hỗ trợ như khi còn sống, cố dụi mũi vào tay anh. Nó nằm xuống cạnh chân Hugo, mũi cách ngón chân anh có vài tấc.

“Phải,” Nelson đồng tình. “Chúng ta sẽ gặp lại nhau thôi. Nhưng phải lâu, lâu nữa cơ. Cháu có một cuộc đời để sống, và cuộc đời ấy sẽ ngập tràn màu sắc và niềm vui đến nỗi nó sẽ khiền cháu hụt hơi. Ta chỉ ước gì...” ông cụ lắc đầu.

“Sao ạ?” Hugo hỏi.

“Ước gì ta có thể ôm cháu,” Nelson nói. “Một lần sau cuối.”

“Mei ơi.”

“Ngay đây, sếp.” Cô mau chóng di chuyển, đập ngón tay lên lòng bàn tay. Không gian lay động, và rồi cô dồn hết sức bình sinh mà ôm Nelson. Nelson bật cười giòn tan, mặt ngửa lên trần, nước mắt chảy dài trên mặt.

“Phải rồi,” ông cụ nói. “Thế này thật tuyệt. Thế này quả thật rất tuyệt.”

Khi Mei rời ra, Nelson mỉm cười.

“Khi nào ạ?” Hugo hỏi.

“Ta nghĩ là vào lúc bình minh.”

Những người tới Tiệm Trà và Bánh Bến Đò Charon vào sáng hôm sau kinh ngạc khi thấy cửa trước lại khóa, một tấm biển trên cửa sổ nói lời xin lỗi, ghi rằng tiệm trà sẽ đóng cửa sáng hôm đó để phục vụ sự kiện đặc biệt. Chẳng sao cả. Họ sẽ quay lại sau.

Trong tiệm, Hugo lảo đảo đứng dậy. Họ đã ngồi bên nhau cả đêm trước lò sưởi, Nelson trên ghế, ngọn lửa lách tách. Wallace, Mei và Apollo đã lắng nghe trong khi hai người đàn ông kể những câu chuyện về thời trẻ trai của họ, chuyện về những thành viên trong gia đình đã đi trước họ.

Nhưng dòng sông chỉ chảy về một hướng, dù chúng ta có mong ước bao nhiêu rằng cuộc đời chẳng như vậy.

Bầu trời đêm bắt đầu hửng sáng.

Mắt Nelson nhắm lại. Ông cụ thì thầm, “Ta nghe được rồi. Cánh cửa. Những lời thì thầm. Bài ca nó đang hát. Nó biết là ta sẵn sàng rồi.”

Hugo siết chặt tay Wallace. “Ông ơi?”

“Ừ?”

“Cảm ơn ông nhé.”

“Vì?”

“Vì mọi thứ.”

Nelson cười khúc khích. “Thế là cháu biết ơn ta về hơi bị nhiều việc đấy.”

“Cháu nói thật đấy.”

“Ta biết mà.” Ông cụ mở mắt. “Ta có hơi sợ, Hugo ạ. Ta biết ta không nên sợ, nhưng ta vẫn cứ sợ. Hài hước thật nhỉ?”

Hugo chậm rãi lắc đầu. Anh vươn thẳng vai và trở thành Người lái đò như mọi khi. “Ông chẳng có gì phải sợ hết. Ông sẽ không phải đau đớn nữa. Ông sẽ không phải khổ sở nữa. Ông sẽ được thanh thản. Tất cả những gì ông phải làm là bay lên qua cửa thôi.”

“Cháu sẽ giúp ta chứ?” Nelson hỏi.

Và Hugo nói, “Vâng. Cháu sẽ giúp ông. Sẽ luôn giúp ông.”

Nelson chậm rãi đứng dậy khỏi ghế. Ông cụ hơi lảo đảo, nghiêng trái nghiêng phải. “Ồ,” ông thì thầm. “Giờ họ to tiếng hơn rồi.”

Hugo đứng dậy. Anh cúi đầu nhìn Mei, Wallace và Apollo.

“Mọi người đi cùng chúng tôi chứ?”

Mei gục đầu. “Anh chắc chứ?”

“Ừ,” Hugo nói. “Anh chắc mà. Ông thì sao?”

“Ta vô cùng muốn vậy,” Nelson nói.

Vậy nên họ đi cùng hai người.

Họ theo Nelson và Hugo lên cầu thang, lên tầng hai.

Lên tầng ba.

Lên tầng bốn.

Họ quây quần dưới cửa. Wallace biết Nelson đang nghe thấy gì, dù bản thân hắn không còn nghe thấy nữa.

Nelson quay lại đối diện với họ. “Mei. Nhìn ta này.”

Cô nhìn ông cụ.

“Cháu có năng lực,” Nelson dặn dò cô. “Một năng lực không thể chối bỏ được. Nhưng chính tấm lòng bao la mới là điều làm nên con người cháu. Đừng bao giờ quên quá khứ của mình, nhưng đừng để nó định hình con người cháu. Cháu đã tạo dựng chỗ đứng ở đây, và ta không tin rằng sẽ có Thần Chết nào giỏi hơn cháu đâu.”

“Cháu cảm ơn ông ạ,” cô thì thầm.

“Wallace,” Nelson nói. “Cậu từng là một thằng khốn.”

Wallace nghẹn họng.

“Vậy nhưng, cậu đã vượt qua được việc ấy để trở thành con người đang đứng trước ta đây. Một thành viên danh dự nhà Freeman. Có lẽ một ngày nào đó cậu sẽ trở thành một người nhà Freeman thực thụ, như Mei vậy. Ta không nghĩ ra được người nào tốt hơn để chia sẻ cái họ này với ta đâu.”

Wallace ngơ ngẩn gật đầu.

“Apollo,” Nelson nói. “Chú mày—”

“Nên đi với ông đi thôi,” Hugo khẽ nói.

Apollo nghiêng đầu nhìn Hugo.

Hugo quỳ xuống cạnh nó. Apollo cố liếm mặt anh, nhưng lưỡi nó xuyên qua má Hugo. “Này, cậu bé,” Hugo nói. “Mày phải nghe tao nói, được chứ? Tao có việc dành cho chú mày đây. Ngồi xuống.”

Apollo lập tức ngồi xuống, vừa nghiêng đầu vừa nhìn Hugo.

Hugo nói. “Chú mày là bạn tốt nhất của tao. Mày làm nhiều điều cho tao hơn gần như bất kỳ ai khác. Khi tao lạc lối và không thể thở được, mày giúp tao tỉnh táo. Mày nhắc nhở tao rằng đau lòng chẳng sao cả miễn là tao đừng để nó nuốt chửng mình. Mày đã hoàn thành phần việc của mình, và giờ tao phải làm điều tương tự cho mày. Tao muốn mày giúp tao một việc. Trông chừng ông giùm tao nhé. Hãy đảm bảo rằng ông không vướng vào quá nhiều rắc rối, được không? Ít ra là cho tới khi tao tới được với mọi người.”

Hai tay Apollo áp sát đầu, còn đầu thì rũ xuống. Nó khẽ rên rỉ, cố đụng đầu lên đầu gối Hugo mà không được.

“Tao biết,” Hugo thì thầm. “Nhưng tao hứa là một ngày nào đó chúng ta sẽ lại chạy cùng nhau. Tao sẽ không bao giờ quên kỷ niệm đó lẫn mày đâu. Đi đi, Apollo. Đi với ông đi.”

Apollo đứng đậy. Chú chó nhìn giữa Hugo và Nelson như thể lưỡng lự. Trong giây lát, Wallace đã tưởng nó sẽ lờ lệnh của Hugo đi và đứng yên tại chỗ.

Nhưng không.

Nó sủa lên với Hugo, một tiếng gâu trầm thấp rồi quay về phía Nelson. Apollo chạy vòng quanh Nelson, hít ngửi chân ông cụ rồi dụi mũi lên tay ông. Nelson cúi đầu mỉm cười với nó. “Mày sẵn sàng chưa, Apollo? Ta nghĩ chúng ta sắp sửa đi phiêu lưu đây. Ta tự hỏi chúng ta sẽ thấy những gì nhỉ?”

Apollo liếm ngón tay ông cụ.

Hugo đứng dậy. Anh bước đi tới khi đứng trước ông mình. Wallace tưởng anh sẽ phân vân, dù chỉ trong chốc lát. Nhưng không. Anh giơ tay về phía ngực Nelson, và vào giây phút ngón tay anh khép lại quanh lưỡi câu mà chỉ anh và Nelson thấy được, ông cụ nói, “Hugo?” Hugo nhìn ông.

Nelson thủ thỉ, “Ta sẽ gặp cháu sau, được chứ?”

Hugo toét miệng cười rực rỡ. “Chắc chắn là vậy rồi.” Và rồi anh giựt lưỡi câu ra. Anh quay sang làm tương tự với Apollo, chú chó chỉ kêu lên một tiếng.

Hugo đứng thẳng dậy, hít một hơi thật sâu rồi vươn tay lên đầu về phía nắm đấm cửa. Ngón tay anh phủ lên chiếc lá, và cổ tay vặn một cái, cánh cửa mở ra.

Ánh sáng trắng tràn ra, khúc ca về sự sống và cái chết như một bản nhạc giao hưởng.

“Ồ,” Nelson nói, giọng thì thào đầy sùng kính. “Ta chưa từng... ta chưa từng nghĩ... Từng ấy ánh sáng. Từng ấy sắc màu. Ta chưa từng... phải. Phải rồi. Ta nghe được mọi người rồi. Ta thấy mọi người, ôi trời ơi, ta thấy mọi người rồi.” Ông cụ điên cuồng bật cười khi chân rời khỏi mặt đất, Apollo trông kinh ngạc một cách tức cười khi chân nó cũng vậy. “Hugo!” Nelson hô lên. “Hugo, là thật nhé. Tất cả đều là thật. Là cuộc đời. Là cuộc đời đấy.”

Chớp mắt trong ánh sáng chói lòa, Wallace nhìn bóng hình Nelson và Apollo khi họ bay lên trong không trung. Apollo nhìn quanh, lưỡi thè cả ra. Chú chó trông gần như đang cười.

Và rồi cả hai đã bay qua khung cửa.

Trước khi cánh cửa đóng lại, Wallace nghe thấy giọng Nelson một lần cuối trong khi Apollo sủa lên đầy hạnh phúc.

Ông cụ nói, “Ta về rồi đây.”

Cánh cửa đóng sập lại.

Ánh sáng tắt dần.

Nelson và Apollo đã đi rồi.

Im lặng bao trùm khắp tầng bốn tiệm trà như một tấm chăn.

“Anh nghĩ ông cụ đã thấy gì?” Cuối cùng Mei vừa hỏi vừa lau mắt.

Hugo nhìn chằm chằm cánh cửa. Mặt anh ướt đẫm, nhưng anh đang mỉm cười. “Anh không biết. Và không phải đó là mục đích của cuộc đời sao? Chúng ta sẽ không biết được cho tới khi tới lượt mình. Mọi người cho anh ít phút được không? Anh muốn.. anh sẽ xuống ngay.”

Wallace chạm lên mu bàn tay anh rồi theo Mei xuống cầu thang. Hắn nghĩ mình nghe thấy tiếng Hugo khẽ nói, gần giống như cầu nguyện.

Đêm hôm đó, Wallace tìm ra Hugo ngoài thềm sau. Mei đang ở trong bếp, thứ âm nhạc khủng khiếp của cô nàng bật ầm ĩ, khiến khung nhà rung lắc. Hắn vừa lắc đầu vừa đóng cửa hậu sau lưng mình.

Hugo nhìn lại anh. “Xin chào.”

“Chào em, Hugo,” Wallace nói. “Em ổn chứ?” Hắn nhăn mặt khi tới đứng bên Hugo cạnh lan can. “Hỏi ngu quá trời.”

“Không,” Hugo nói. “Em không nghĩ đấy là hỏi ngu đâu. Và nói thật nhé? Em không biết liệu mình có ổn không nữa. Thật là lạ. Anh có nghe giọng ông lúc cuối không?”

“Có chứ,” Wallace nói.

“Giọng ông nghe...”

“Thật tự do.”

Wallace cảm thấy Hugo đang gật đầu bên người mình.

Hắn vòng tay quanh eo Hugo. “Anh còn không tưởng tượng nổi sự nhẹ nhõm ông cụ cảm nhận lúc ấy. Anh...” hắn lưỡng lự. Rồi, “Em có giận ông không?”

“Không,” Hugo nói. “Làm sao em giận ông được? Ông đã trông nom em đủ lâu rồi, và góp phần dạy em cách làm người tử tế. Vả lại, ông biết em có bàn tay người khác chăm lo cho rồi mà.”

“Thật à?”

Hugo bật cười. “Em nghĩ vậy. Anh khá là giỏi dùng—”

Wallace rên rỉ. “Anh đang cố nghiêm túc một lát đây này.”

Hugo quay đầu sang để có thể hôn lên tóc Wallace với một tiếng chụt thật to. Wallace toét miệng cười bên yết hầu anh. “Em có,” Hugo thì thầm. “người chăm lo cho rồi. Người tốt nhất quả đất, thật đấy. Và ông nói đúng: đây không phải là tạm biệt. Chúng ta sẽ gặp lại nhau thôi. Tất cả chúng ta. Nhưng trước đó, chúng ta vẫn còn việc để làm. Và chúng ta sẽ làm cùng nhau.”

“Đúng vậy,” Wallace tán thành. “Anh nghĩ—”

Cửa hậu mở ra.

Ánh sáng tràn ra ngoài.

Họ quay sang nhìn.

Mei đang đứng ở ngưỡng cửa. “Ngừng ngay trò sến súa yêu đương bla blo này đi. Hồ sơ mới xuất hiện rồi này.”

Hugo rời khỏi lan can. “Kể anh nghe nào.”

Mei bắt đầu thuật lại nội dung của hồ sơ từ trí nhớ. Hugo không chen lời, lắng nghe khi Mei lải nhải những thông tin về khách mới của họ.

Wallace quay lại nhìn vườn trà.

Lá cây phấp phới trong gió. Chúng khỏe mạnh, rễ vững vàng đâm sâu trong đất. Hugo đã đảm bảo là vậy.

“Wallace,” Hugo gọi từ ngưỡng cửa. “Anh đi chứ?”

“Ừa,” Wallace nói, quay đi khỏi vườn. “Làm việc thôi nào. Khách mới của chúng ta sẽ là ai đây nhỉ?”

Khi tới cửa, Wallace không ngập ngừng mà nắm lấy bàn tay đang vươn ra của Hugo. Cửa đóng lại sau lưng họ. Một lát sau, đèn ở thềm sau tắt đi, vườn trà chỉ được ánh trăng soi sáng.

Nếu họ ngoái lại nhìn một lần cuối, họ sẽ thấy có gì đó động đậy trong rừng. Ngay bìa rừng, ở nơi đó, trong bóng đêm, một con hươu khổng lồ cúi đầu xuống đất đầy tôn kính, hoa rủ xuống từ bộ gạc của nó. Chẳng mấy chốc, nó đã trở lại vào rừng, cánh hoa rây rắc theo sau.

HẾT