Chương 22
Sáng hôm sau— sáng ngày thứ bảy, buổi sáng còn lại, buổi sáng cuối cùng— Cameron nói, “Chú đi với cháu lên chỗ cửa chứ?”
Wallace vừa chớp mắt trong kinh ngạc vừa nhìn xuống Cameron. “Cháu muốn tôi có mặt ư?”
Cậu gật đầu.
“Tôi không... tôi không đi được— chưa đi được. Tôi chưa
đi siêu thoát đâu.”
“Cháu biết rồi,” Cameron nói. “Nhưng cháu nghĩ cháu sẽ đỡ sợ hơn, khi có chú ở đó.”
“Tại sao?” Wallace vô lực hỏi.
“Vì chú cứu cháu mà. Và cháu sợ nữa. Cháu không biết sẽ lên cầu thang thế nào đây. Nhỡ chân cháu không bước đi thì sao? Nhỡ cháu không bước qua cửa được thì sao?”
Wallace nghĩ về tất cả những gì hắn học hỏi được kể từ lần đầu bước qua ngưỡng cửa của Bến Đò Charon. Những gì Hugo đã dạy hắn. Và Mei. Nelson và Apollo nữa. Hắn nói, “Cháu tiến lên bước nào là gần nhà hơn bước ấy.”
“Vậy thì tại sao việc này lại khó khăn đến vậy?”
“Vì đời là thế mà,” Wallace nói.
Cameron cắn môi dưới. “Anh ấy sẽ ở đó ư.”
Là Zach. “Đúng vậy.”
“Anh ấy sẽ mắng cháu.”
“Thế à?”
“Vâng,” Cameron nói. “Như thế cháu sẽ biết rằng anh ấy vẫn yêu cháu.” Mắt cậu ươn ướt. “Hy vọng là anh ấy sẽ quát cháu to hết cỡ ấy.”
“Tới khi cháu tưởng màng nhĩ mình thủng luôn,” Wallace nói, vỗ vỗ đỉnh đầu cậu. “Và rồi cậu ta sẽ không bao giờ buông tay cháu nữa.”
“Được đấy chú.” Cậu ngoảnh mặt đi. “Cháu sẽ tìm chú. Khi chú đến nơi. Cháu muốn anh ấy gặp chú. Anh ấy phải biết chú và những gì chú đã làm cho cháu.”
Wallace không thể chịu nổi. Khắp xung quanh đều mơ hồ. Mọi sắc màu đang tan chảy quanh hắn. Những ràng buộc nơi hắn đã đứt đoạn, và hắn đang bay lên, bay lên, bay lên mãi.
“Vậy thì được,” Wallace nói. “Tôi sẽ có mặt khi cháu đi.”
✽Cameron ôm Mei.
Cậu ôm Nelson.
Cậu vỗ vỗ đầu Apollo.
Cậu hỏi, “Có đau không nhỉ?”
“Không,” Hugo trả lời. “Sẽ không đâu.”
Cậu nhìn sang Wallace, chìa tay ra. “Chú dẫn cháu đi chứ?”
Wallace chẳng hề lưỡng lự. Hắn nắm lấy tay Cameron. Cameron siết chặt tay hắn như để giữ không cho Wallace bay đi mất.
Mei, Nelson và Apollo ở lại tầng trệt.
“Ta chờ cậu quay lại ngay lập tức đấy, Wallace ạ,” Nelson gọi với theo. “Ta chưa xong chuyện với cậu đâu.”
“Vâng,” Wallace nói, kéo tay Cameron để bảo cậu dừng lại. Hắn quay lại nhìn họ. “Chúng tôi sẽ không đi lâu đâu.”
Trông Nelson chẳng có vẻ gì là tin hắn, nhưng giờ Wallace chẳng làm thế nào cho ông cụ tin được.
Hugo dẫn trước trên cầu thang đi lên tầng hai.
“Chú có nghe được không?” Cameron hỏi. “Cánh cửa đang hát kìa.”
Lên tầng ba.
“Ôi,” Cameron nói, nước mắt chảy dài trên má. “Ôi trời, Wallace ơi.” Giọng cậu lạc đi. “Cháu chưa từng nghĩ việc siêu thoát có thể như thế này. Náo nhiệt quá đi mất.” Cậu nhìn ra ngoài dãy cửa sổ khi họ đi qua, rồi cứ cười mãi. Wallace không biết cậu đang thấy gì, nhưng những cảnh ấy không phải dành cho hắn.
Lên tầng bốn.
Họ dừng lại ở chiếu nghỉ.
Những bông hoa chạm khắc lên gỗ cửa nở bung trên trần nhà trên đầu họ.
Cành lá đâm chồi.
“Khi cháu sẵn sàng, hãy tháo lưỡi câu xuống và thả nó ra. Chú sẽ mở cửa. Khi nào được thì cứ bảo chú,” Hugo nói.
Cậu gật đầu và ngẩng lên nhìn Wallace đang trôi lơ lửng trên họ. Cậu siết tay Wallace rồi kéo hắn xuống ngang tầm mắt. “Cháu biết,” cậu thì thầm. “Khi chú mang cháu trở lại, khi chú móc lưỡi câu của chú lên ngực cháu, cháu đã cảm nhận được rồi. Họ thuộc về chú, Wallace ạ. Và chú thuộc về họ. Hãy đảm bảo rằng họ biết điều ấy nhé. Chú không biết được đến khi nào mình mới có cơ hội nữa đâu.”
“Tôi sẽ làm vậy,” Wallace thì thầm trả lời.
Cameron hôn má hắn rồi thả tay hắn ra. Hugo túm lấy sợi dây, ánh mắt dịu dàng mà buồn bã.
Cameron hít vào rồi thở ra một, hai, ba lần. Cậu gọi, “Hugo ơi?”
“Chú ở đây.”
“Cháu đã tìm được đường về rồi. Có mất chút thời gian, nhưng cũng tìm được rồi. Cảm ơn chú vì đã tin vào cháu. Cháu nghĩ giờ cháu sẵn sàng rồi.” Và nói rồi, cậu nắm lấy lưỡi câu mà Wallace không thấy được. Cameron nhăn mặt khi cậu giựt nó ra khỏi ngực mình. Cậu vừa hổn hển đầy nhẹ nhõm vừa buông tay.
“Lưỡi câu biến mất rồi,” Hugo khẽ nói. “Đã đến lúc rồi.”
“Cháu cảm thấy rồi,” Cameron nói, ngước nhìn cánh cửa. “Cháu đang bay lên. Hugo, mời chú. Mở cửa ra nào.”
Hugo làm theo. Anh vươn tay lên, những ngón tay cọ lên nắm đấm cửa. Anh nắm lấy nó và vặn một lần.
Khung cảnh vẫn như lúc Alan siêu thoát vậy. Ánh sáng tràn xuống, sáng tới nỗi Wallace phải quay mặt đi. Những tiếng thì thầm nhường chỗ cho tiếng chim hót. Wallace nghe thấy Cameron thảng thốt khi chân cậu rời khỏi sàn. Hắn đưa tay lên che mắt, cố nhìn ra Cameron giữa quầng sáng chói lòa kia.
“Ôi trời ơi,” Cameron thều thào trong lúc bay lên không trung về phía khung cửa đang mở. “Ôi, Wallace ơi. Mặt... trời kia. Mặt trời kìa.” Rồi, vào khoảnh khắc trước khi cậu bay qua cửa, nỗi hân hoan tột cùng và mãnh liệt tràn ngập trong giọng cậu khi cậu cất lời, “Chào anh, tình yêu của em. Xin chào, xin chào, xin chào.”
Hình ảnh cuối cùng của Cameron mà Wallace thấy được là đế giày của cậu.
Cửa đóng sập lại phía sau cậu.
Ánh sáng tắt dần.
Những cánh hoa tự động khép lại.
Cành lá thu lại khi cửa khép vào khuôn.
Cameron đã đi rồi.
✽Họ đứng dưới cánh cửa suốt khoảng thời gian như kéo dài hàng giờ liên, sợi dây nắm trong tay Hugo trong khi Wallace lơ lửng. Sắp đến lúc rồi. Chưa phải ngay, nhưng cũng đã gần.
✽Họ dùng trà như bất kỳ ngày nào khác, buổi sáng chuyển sang chiều trong khi họ vờ như chẳng có gì thay đổi cả.
Họ cười đùa. Họ kể chuyện. Nelson và Mei nhắc Wallace nhớ lại hắn mặc bikini trông thế nào. Nelson nói giá như mình trẻ hơn vài thập kỷ, ông cụ sẽ cân nhắc việc tự mình theo đuổi Wallace, khiến Hugo hết hồn. Wallace bắt Nelson mặc bộ thỏ phục sinh cho hắn xem. Bộ đồ ấy trông mà giật cả mình. Giỏ trứng màu sặc sỡ chỉ khiến nó càng tệ hơn, đặc biệt là khi hai tai ông cụ rũ lung tung xuống, mũi thì ngọ nguậy. Không cần Nelson mở mấy quả trứng ra mà Wallace đã biết bên trong chúng nhồi đầy súp lơ.
Wallace phải níu lấy mặt dưới bàn để không bay lên cao hơn. Hắn cố làm việc ấy một cách kín đáo, nhưng họ đã biết. Họ đều biết. Hắn đã bỏ mặc luôn sợi dây, vì không muốn bị mất tập trung khỏi những gì sắp tới.
Khi mặt trời di chuyển ngang bầu trời, Wallace mơ màng nhớ lại cuộc đời hắn từng sống trước khi tới nơi này. Cuộc đời ấy chẳng có gì mấy. Hắn đã phạm sai lầm. Hắn đã chẳng nhân hậu. Và đúng vậy, có những khoảnh khắc hắn tàn nhẫn thẳng thừng. Hắn đã có thể làm nhiều hơn. Hắn lẽ ra nên làm một con người hoàn chỉnh hơn. Nhưng hắn nghĩ hắn đã chung tay tạo ra sự khác biệt, về cuối đời, với sự giúp đỡ của những người khác. Hắn nhớ lại trông Nancy như thế nào khi bà rời khỏi tiệm trà lần cuối cùng. Giọng Naomi nghe thế nào qua điện thoại. Vẻ nhẹ nhõm trên mặt Cameron khi con Trấu mà cậu biến thành tan biến, và sự sống trở lại với người đã khuất.
Sau khi chết đi Wallace còn làm nhiều việc hơn đã làm khi còn sống, nhưng hắn không làm những việc ấy một mình.
Và có lẽ đấy là vấn đề. Hắn vẫn còn nhiều nuối tiếc. Hắn nghĩ hắn sẽ luôn nuối tiếc như vậy. Giờ thì chẳng thay đổi được gì nữa rồi. Hắn đã tìm thấy trong mình con người mà hắn nghĩ mình từng trở thành trước khi gánh nặng cuộc đời đè lên vai hắn. Hắn đã tự do rồi. Gông cùm của cuộc đời phàm tục đã rơi xuống. Chẳng còn gì giữ chân hắn lại đây. Giờ thì chẳng còn gì nữa.
Điều ấy thật đau lòng, nhưng đau mà lại sướng.
Hugo cố gắng giữ vẻ bình thản, nhưng càng gần tới hoàng hôn, anh càng trở nên kích động. Anh không nói năng gì. Anh cau mày. Anh khoanh tay đầy đề phòng.
Wallace túm lấy mép bàn.
Wallace gọi, “Hugo?” trong khi Mei và Nelson im bặt.
Hugo lắc đầu.
“Giờ chưa phải lúc,” Wallace nói. “Tôi muốn anh phải thật mạnh mẽ vì tôi.”
Anh bạnh quai hàm một cách bướng bỉnh. “Còn những điều tôi muốn thì sao?”
Nelson thở dài. “Ta biết việc này rất khó khăn đối với cháu. Ta nghĩ đó không phải—”
Hugo khản giọng cười trong khi hai tay siết lại thành nắm đấm. “Cháu biết chứ. Cháu chỉ... cháu không biết mình nên làm gì thôi.”
Mei tựa đầu lên vai anh. “Làm điều anh phải làm thôi,” cô thì thầm. “Và bọn em sẽ sát cánh bên anh. Bên cả hai người. Trên từng bước chân.” Cô ngẩng lên nhìn Wallace. “Anh là một anh chàng khá được đấy, Wallace Price ạ.”
“Cô cũng vậy, Meiying... họ của cô là cái quái gì ấy nhỉ?”
Cô cười khúc khích. “Freeman. Mới đổi năm ngoái đấy. Cái tên tuyệt vời nhất tôi từng mang.”
“Chuẩn đét,” Nelson tán thành.
Hắn còn biết bao điều khác để nói với tất cả bọn họ. Nhưng hắn chưa kịp nói, thì Apollo đã gầm gừ, chạy tới cửa sổ nhìn ra trước tiệm trà. Kim đồng hồ bắt đầu vấp váp trong khi thời gian chạy chậm lại.
“Không,” hắn thì thầm khi ánh sáng xanh bắt đầu bủa vây Bến Đò Charon. “Chưa được. Làm ơn, chưa được mà—”
Apollo tru lên, tiếng tru dài và sầu thảm khi ánh sáng dịu xuống. Đồng hồ hoàn toàn ngừng chạy, các kim đứng im.
Tiếng gõ cửa nhẹ nhàng vang lên: thịch, thịch, thịch.
Hugo chậm rãi đứng dậy khỏi ghế, bước chân nặng nề khi anh đi ra cửa. Anh cúi đầu, tay đặt lên nắm đấm.
Anh mở cửa.
Quản Lý đứng ngoài hiên. Nó mặc cái áo phông có dòng chữ BẠN NGHĨ TÔI XINH Ư, BẠN PHẢI GẶP DÌ TÔI CƠ. Hoa rủ xuống từ tóc nó, cánh hoa mở rồi lại khép, mở rồi lại khép.
“Hugo.” Thằng bé chào anh. “Thật vui khi được gặp lại cậu. Cậu vẫn khỏe, nhỉ. Hay là khỏe như người ta có thể mong đợi.”
Hugo lùi lại một bước nhưng không trả lời.
Quản Lý bước vào trong tiệm trà, ván sàn cọt kẹt dưới đôi chân trần của nó, tường và trần bắt đầu gợn sóng như hôm trước. Nó lần lượt nhìn từng người, ánh mắt nấn ná ở Mei rồi nhìn sang Nelson và Apollo, chú chó gầm gừ với nó nhưng vẫn giữ khoảng cách.
“Chó ngoan,” thằng bé nói.
Apollo giận dữ sủa lên đáp trả.
“Chà, suýt ngoan mới đúng. Mei, cô bước chân vào công việc Thần Chết này như cá gặp nước vậy. Ta biết cử cô tới chỗ Hugo là việc đúng đắn mà. Ta thấy ấn tượng đấy.”
“Thành thật mà nói, tôi đếch quan tâm ông—”
“Ầy,” thằng bé nói. “Không cần nói vậy. Sau cùng, ta vẫn là sếp cô đấy nhé. Ta không muốn nghĩ rằng cô cần bị đánh dấu trong hồ sơ cố định đâu.” Nó khịt mũi. “Nelson. Vẫn ở đây, nhỉ. Mới... đúng như mong đợi làm sao.”
“Đúng vậy,” Nelson càu nhàu. Ông cụ chĩa đầu gậy vào Quản Lý. “Và đừng tưởng ông ép được ai làm bất kỳ việc gì họ không muốn làm. Ta sẽ không để yên đâu.”
Đứa trẻ nhìn chằm chằm ông cụ một lúc lâu. “Thú vị đấy. Ta thật sự đã tin vào lời đe dọa đó, dù nó vô thưởng vô phạt như vậy. Xin hãy nhớ rằng chẳng có mấy điều ông làm được với ta để ngăn chặn những việc phải diễn ra. Ta là cả vũ trụ này. Ông là một hạt cát li ti. Ta thích ông đây, Nelson ạ. Đừng để ta hối hận vì đã thích ông nhé.”
Nelson nhìn nó đầy cảnh giác, nhưng không trả lời.
Quản Lý đi về phía bàn. Wallace ngồi im như phỗng trong khi Hugo đóng cửa. Khóa xoay trong ổ lách cách.
Thằng bé dừng lại bên bàn, ở phía đối diện Wallace, săm soi ấm trà và tách. Nó lướt ngón tay dọc vòi ấm. Nó gạt lấy một giọt nước ở đầu vòi rồi quệt nước ấy lên lưỡi mình. “Bạc hà à,” nó nói, giọng khoái chí. “Kẹo que à. Đúng không, Wallace? Mẹ anh làm kẹo que trong bếp vào mùa đông. Thật lạ làm sao khi một ký ức ấm lòng đến vậy lại tới từ người sau này anh chán ghét.”
“Tôi không chán ghét mẹ,” Wallace cứng giọng.
Đứa trẻ nhướn một bên mày. “Thế à? Tại sao không nhỉ? Bà ta tốt lắm thì cũng là xa cách. Cả bố lẫn mẹ anh đều vậy. Nói ta nghe xem, Wallace, anh sẽ làm gì khi gặp lại họ? Anh sẽ nói gì?”
Hắn chưa từng nghĩ tới việc ấy. Hắn không biết như vậy khiến hắn trở thành một con người thế nào nữa.
Thằng bé gật đầu. “Hiểu rồi. Chà, ta nghĩ việc đấy tốt nhất là nên để anh lo thay vì ta. Ngồi xuống đi, Hugo, để chúng ta có thể bắt đầu nào.”
Hugo trở lại bàn, kéo ghế ra rồi ngồi xuống, vẻ mặt vô cảm và lạnh lùng. Wallace ghét phải thấy biểu cảm này nơi anh.
Thằng bé vỗ tay. “Tốt hơn rồi đây. Chờ một chút nhé.” Nó đi tới cái bàn gần họ, kéo ghế ra và kéo lê nó trên sàn trở lại bàn của họ. Nó đẩy ghế vào giữa Mei và Nelson rồi leo lên, quỳ gối ngồi trên đó. Nó gác khuỷu tay lên mặt bàn, hai tay chống cằm. “Được rồi đấy. Giờ thì tất cả chúng ta đều ngồi như nhau rồi. Ta muốn một tách trà. Ta vẫn luôn thích trà của cậu, Hugo ạ. Cậu rót cho ta một tách chứ?”
Và Wallace nói, “Đừng rót.”
Thằng bé chậm rãi chớp mắt, lông mi đen như nhọ nồi trên làn da bánh mật. “Anh nói gì cơ?” nó hỏi, giọng cao vút và ngọt ngào, như dao lam bọc trong đường mật.
“Ông sẽ không được uống trà,” Wallace nói.
“Ồ.” Thằng bé nghiêng đầu. “Tại sao không?”
“Vì ông sẽ phải nghe tôi nói. Và tôi không muốn ông bị phân tâm.”
Hugo mở miệng, “Wallace, anh không thể—”
Quản Lý giơ tay lên. “Không, không sao đâu. Rõ ràng là Wallace có điều muốn nói. Anh ta là một vật nhỏ lạ kỳ vậy đấy. Ta muốn nghe anh ta nói.” Nó chưa từng rời mắt khỏi Wallace. “Nói đi. Ta đang nghe đây. Hãy chắc chắn là anh đang nắm mép bàn chặt hết sức trong khi nói nhé. Ta không muốn anh bay đi trong khi đang... mấy người nói thế nào ấy nhỉ? Cho ta biết tay.”
Miệng Wallace khô khốc. Hắn đã không nghĩ rằng mình làm được đến bước này. “Ông sai rồi.”
“Thật à? Chính xác là sai về cái gì?”
“Cameron.”
“À,” Quản Lý nói. “Tên Trấu đó à.”
“Phải.”
“Cậu ta đi qua cửa rồi.”
“Vì chúng tôi đã giúp cậu ấy.”
“Thật ư” Nó gác khuỷu tay lên bàn, hai tay chống cằm, ngón tay gõ gõ lên má. “Thú vị thật đấy.”
Wallace nén cơn giận của mình xuống. Hắn đang đứng trước tòa, bào chữa cho vụ án của đời mình. Hắn không thể để cảm xúc lấn lướt mình. Không thể làm vậy khi việc này quan trọng hơn bất kỳ việc gì Wallace từng làm. Giữ cho giọng điềm tĩnh hết mức có thể, hắn nói, “Ông mặc cho cậu ấy bị như vậy. Ông đã có thể can thiệp vào bất cứ lúc nào để giúp cậu ấy.”
“Tại sao ta lại làm vậy chứ?” Quản lý hỏi. “Cậu ta đã lựa chọn rồi. Ta đã bảo anh rồi mà, Wallace. Tinh thần tự quyết là tối thượng. Việc ấy mang tính sống còn đối với—”
“Cho tới khi ông quyết định rằng nó không tối thượng nữa mà thôi. Đây không phải một trò chơi. Ông không được chọn lựa khi nào thì mình nhúng tay vào.”
“Thế ư?” thằng bé hỏi. Nó nhìn quanh những người khác như thể để nói mấy người tin nổi gã này không? “Nhưng thôi, để phục vụ mục đích tranh luận, sao anh không nói với ta những gì mà ta, một thực thể vô hạn tạo thành bởi cát bụi và tinh tú, lẽ ra nên làm nhỉ. Cứ nói đi.”
Wallace siết mép bàn chặt tới nỗi hắn tưởng ngón tay mình sẽ gãy. “Cậu ấy đang đau thương. Mất mát. Tên Thần Chết dẫn cậu ấy tới đây biết là vậy. Hắn thích mê việc ấy. Vậy nhưng ông vẫn chẳng làm gì hết. Ngay cả sau khi Cameron biến thành Trấu, ông không nhúc nhích dù chỉ một ngón tay. Mãi cho tới chuyện của Lea thì ông mới quyết định làm gì đó. Lẽ ra ông không nên để lâu đến vậy.”
Thằng bé nhăn mặt. “Có lẽ vậy, nhưng cuối cùng mọi chuyện cũng đâu vào đấy đấy thôi. Mẹ của Lea đang trong quá trình chữa lành. Cameron đã tìm lại được chính mình và tiếp tục hành trình tới miền vĩ đại hoang sơ phía trước. Ta chẳng thấy có vấn đề gì ở đây cả. Ai cũng hạnh phúc hết.” Nó cười toe toét. “Anh nên thấy tự hào về bản thân mình đi. Khen thưởng đủ kiểu luôn. Hoan hô!” Nó vỗ tay.
“Khi ấy ông có giúp được cậu ấy không?” Hugo hỏi.
Quản Lý chậm rãi quay đầu sang.
Hugo không quay mặt đi.
“Chà,” Quản Lý nói, giọng dài ra đến cả chục chữ a. “Ý ta là, chắc chắn rồi, nếu bàn đến vấn đề căn bản. Ta có thể làm gần như mọi việc ta muốn.” Nó nheo mắt. Wallace cảm thấy cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng mình khi giọng thằng bé trở nên nhát ngừng. “Ta đã có thể ngăn không cho bố mẹ cậu chết, Hugo ạ. Ta đã có thể giữ cho trái tim Wallace tiếp tục đánh cái nhịp vui vẻ kia. Ta đã có thể túm gáy Cameron lại vào cái ngày cậu ta quyết định bỏ trốn và ép cậu ta bước qua cánh cửa.”
“Nhưng ông không làm vậy,” Hugo nói.
“Đúng vậy,” thằng bé đồng tình. “Vì thế gian này có trật tự của nó. Có kế hoạch, một kế hoạch vượt xa quyền hạn của cậu. Nhớ vậy thì tốt hơn cho cậu đấy. Ta không chắc là ta thích cái giọng của cậu đâu.” Nó bĩu môi, môi dưới trề ra. “Nghe chẳng lịch sự lắm đâu.”
“Kế hoạch kia là gì?” Wallace hỏi.
Đứa trẻ lại nhìn sang hắn. “Anh nói gì cơ?”
“Kế hoạch,” Wallace nói. “Là gì?”
“Là thứ vượt quá khả năng thấu hiểu của anh. Là—”
“Hẳn rồi,” Wallace nói. “Bên kia cánh cửa là gì?”
Chỉ là thoáng qua, xuất hiện rồi biến mất trong nháy mắt, nhưng Wallace đã thấy được vẻ không thể tin nổi trước khi nó bay biến. “Chà, là tất cả mọi thứ, dĩ nhiên rồi.”
“Chi tiết hơn đi. Kể tôi nghe một điều ngoài những gì chúng tôi đã biết đi.”
Môi dưới nó càng trề ra. “Ôi, Wallace ơi. Chẳng có gì mà anh phải sợ hết. Ta đã bảo anh rồi mà. Anh sẽ tìm thấy—”
“Ờ, nghe này, tôi không nghĩ là ông biết những việc ấy,” Wallace nói. Hắn nghiêng tới trước trong khi Mei hít vào một hơi, trong khi Nelson gõ gậy lên sàn. “Tôi nghĩ là ông muốn biết. Ông cố gắng bắt chước chúng tôi. Ông cố gắng khiến chúng tôi nghĩ là ông hiểu nhưng ông làm sao mà hiểu được? Ông đâu có nhân tính của chúng tôi. Ông không biết có một trái tim còn đập là như thế nào, cảm nhận nó vỡ tan như thế nào. Ông không biết hạnh phúc nghĩa là gì, đau buồn nghĩa là gì. Có lẽ phần nào đó trong ông ghen tị với tất cả những gì ở chúng tôi mà ông không bao giờ có thể trở thành, và dù ông có thể không tin tôi, nhưng tôi mong ông có được những điều ấy hơn là ông tưởng đấy. Vì bản thân tôi biết có gì đó ở phía bên kia cánh cửa kia. Tôi đã cảm nhận được nó. Tôi đã nghe thấy những tiếng thì thầm. Tôi đã nghe thấy những bài hát của nó. Tôi đã thấy ánh sáng tràn qua từ khung cửa. Ông có thể tưởng tượng nổi những điều ấy ra sao không?”
“Cẩn thận đấy, Wallace,” Quản Lý nói, vẻ bĩu môi đã chuyển thành sắt đá. “Hãy nhớ anh đang nói chuyện với ai.”
“Anh ấy biết chứ,” Hugo khẽ nói. “Chúng tôi đều biết cả.”
Quản Lý cau mày nhìn Hugo. “Thật à? Ta hy vọng là vậy đấy.”
“Trấu là sinh vật gì vậy?” Wallace ngừng lại, suy nghĩ kỹ càng hơn bao giờ hết. “Là hiện thân của một cuộc đời sống dựa trên nỗi lo sợ?” Đó dường như là hướng đi đúng đắn, nhưng hắn chưa hoàn toàn hình dung rõ được toàn cảnh. “Họ... sao nhỉ. Dễ bị tổn thương hơn bởi...”
“Cuộc đời sống dựa trên nỗi lo sợ à,” Quản Lý chậm rãi lặp lại. “Cái này... hờ.” Nó nheo mắt nhìn Wallace. “Anh đã tự mình nghiệm ra điều ấy, phải không? Tốt cho anh thôi. Phải, Wallace ạ. Những người sống trong sợ hãi và tuyệt vọng thì... anh nói thế nào ấy nhỉ? Dễ bị tổn thương hơn. Tất cả những gì họ biết tới là khiếp sợ, và cảm giác ấy theo họ qua thế giới bên kia. Dù nó không ảnh hưởng đến tất cả bọn họ theo cùng một kiểu, những người như Cameron đôi khi không chấp nhận được thực tại mới của họ. Họ bỏ chạy khỏi nó và... chà. Anh biết điều gì xảy ra tiếp theo rồi đấy.”
“Họ có bao nhiêu người ngoài kia?” Hugo hỏi.
Quản Lý giật mình. “Gì cơ?”
Hugo nhìn nó chằm chằm, gần như chẳng chớp mắt. “Những người như Cameron ấy. Những người được đưa tới chỗ Người lái đò trên khắp thế giới và lạc lối. Có bao nhiêu người ngoài kia?”
“Ta không thấy việc ấy có liên quan gì tới—”
“Đó là toàn bộ vấn đề đấy,” Wallace thốt lên. “Đây không phải là về riêng ai hết. Đây là về tất cả chúng tôi, và những gì chúng tôi làm cho nhau. Cánh cửa kia không phân biệt đối xử. Nó ở đó cho tất cả những người đủ dũng cảm để ngẩng lên nhìn nó. Vài người lạc đường, nhưng đó không phải là lỗi của họ. Họ sợ. Trời ơi, dĩ nhiên là họ sợ rồi. Làm sao họ không sợ cho được? Ai cũng lạc lối ở một thời điểm nào đó, và đó không phải chỉ vì lỗi lầm của họ hay những quyết định họ làm ra. Đó là bởi vì họ con người đến khủng khiếp, đến tuyệt vời. Và một điều tôi đã học được về con người là chúng ta không thể làm việc này một mình được. Khi chúng ta đi lạc, chúng ta cần được giúp đỡ để cố gắng tìm lại con đường của mình. Ở đây chúng tôi có cơ hội để làm một việc quan trọng, một việc chưa ai làm trước đây.”
“Chúng tôi,” Quản Lý nói. “Ý anh là họ chứ hả? Bởi vì, trong trường hợp anh quên, anh đã chết rồi mà.”
“Tôi biết chứ,” Wallace nói. “Tôi biết chứ.”
Thằng bé cau mày. “Ta từng nói với anh một lần rồi, Wallace ạ. Ta không thỏa thuận. Ta không mặc cả gì hết. Ta tưởng chúng ta đã qua giai đoạn đó rồi.” Nó nặng nề thở dài. “Ta thất vọng về anh quá. Ta đã nói rất rõ về vấn đề này rồi. Và anh nói về đám Trấu như thể anh biết cái gì về chúng ấy.”
“Tôi đã thấy họ,” Wallace nói. “Cận cảnh. Cameron. Tôi đã thấy cậu ấy là con người như thế nào, bất chấp những gì cậu ấy đã trở thành.”
“Một thôi,” Quản Lý nói. “Anh đã thấy một trong số chúng.”
“Thế là đủ rồi,” Hugo nói. “Thậm chí là hơn cả đủ. Bởi vì nếu những Trấu còn lại giống Cameron, thì họ xứng đáng có được một cơ hội, cũng như chúng tôi vậy.” Anh nghiêng người tới trước, ánh mắt chưa từng rời khỏi Quản Lý. “Tôi làm được việc này. Ông biết là tôi làm được mà.” Anh nhìn những người khác quanh bàn. “Chúng tôi làm được mà.”
Quản Lý im lặng một lúc lâu. Wallace phải ngăn mình cựa quậy. Suýt nữa thì hắn không kìm được mà hét lên nhẹ nhõm khi Quản Lý nói, “Anh có được sự chú ý của ta rồi đấy. Đừng có phí phạm nhé.”
Cần những lời bào chữa cuối cùng, nhưng không phải từ miệng Wallace mà ra. Không thể như vậy được. Hắn nhìn sang con người biết rõ sự sống và cái chết hơn bất kỳ ai trong tiệm trà này. Hugo vươn thẳng vai, hít thật sâu và chậm rãi thở ra. “Số Trấu kia. Hãy mang họ tới đây. Để chúng tôi giúp họ. Họ không xứng đáng phải giữ nguyên tình trạng như vậy. Họ phải có khả năng tìm đường về nhà như mọi người khác.” Anh liếc Wallace, người vẫn đang nắm mép bàn chặt hết mức có thể. Việc này mỗi lúc một khó khăn hơn. Mông hắn bay lên khỏi mặt ghế vài tấc, đầu gối hắn áp lên mặt dưới bàn, chân hắn lơ lửng trên mặt đất. Và nếu dỏng tai nghe, nếu thật sự cố gắng, hắn có thể nghe được tiếng thì thầm từ cánh cửa một lần nữa. Tất cả sắp chấm hết rồi.
Quản Lý nhìn anh chằm chằm. “Tại sao ta lại phải đồng ý với điều này?”
“Vì ông biết chúng tôi làm được,” Mei nói. “Hoặc, chí ít, chúng tôi có thể thử.”
“Và vì đó là điều nên làm,” Wallace nói, và hắn chưa từng tin vào điều gì hơn thế này. Thật giản đơn làm sao. Thật sâu sắc đến khiếp sợ. “Lý do duy nhất các Trấu lựa chọn như họ đã làm là vì họ sợ những gì mà họ chưa biết.”
Quản Lý chậm rãi gật đầu. “Cứ cho là ta hoan nghênh ý tưởng này đi. Cứ cho là, trong chốc lát, là ta cân nhắc lời đề nghị của các ngươi đi. Các ngươi sẽ cho lại ta cái gì?”
Và Wallace nói, “Tôi sẽ buông bỏ.”
Hugo hoảng hồn. “Wallace, không, đừng—”
“Anh thật là kỳ lạ,” Quản Lý nói. “Anh đã thay đổi rồi. Điều gì đã gây ra sự thay đổi này? Anh có biết không ấy chứ?”
Wallace bật cười, điên cuồng và tươi tắn. “Là ông đấy, tôi nghĩ vậy. Hoặc ít nhất ông là một phần của nguyên do, kể cả khi chẳng có việc gì ông làm là có lý cả. Nhưng điều đó là lẽ đương nhiên khi ta tồn tại vì đời chẳng có nghĩa lý gì sất, và trong trường hợp chúng ta tìm được thứ gì đó thật sự có ý nghĩa, chúng ta sẽ dồn hết sức bình sinh bám lấy nó. Tôi tìm được bản thân mình là nhờ có ông. Nhưng ông còn kém xa Mei. Kém xa Nelson. Apollo.” Hắn nuốt khan. “Và Hugo nữa.”
Hugo đột ngột đứng phắt dậy, khiến cái ghế bật ngửa đổ xuống sàn. “Không,” anh gay gắt nói. “Tôi sẽ không để anh làm vậy đâu. Tôi sẽ—”
“Đây không phải là về tôi,” Wallace nói với anh. “Hay về chúng ta. Anh đã cho tôi nhiều hơn những gì tôi có thể đòi hỏi. Hugo, anh không thấy được ư? Tôi là tôi vì anh đã soi đường chỉ lối cho tôi. Anh không chịu bỏ cuộc với tôi. Bằng cách đó tôi biết rằng anh sẽ giúp tất cả những người tới sau tôi và họ cần anh nhiều như tôi cần vậy.”
“Được thôi,” Quản Lý đột ngột lên tiếng, và toàn bộ không khí như bị hút ra khỏi phòng. “Các người thỏa thuận thành công rồi đấy. Ta sẽ mang đám Trấu tới đây, từng tên một. Nếu các ngươi chữa lành được cho chúng, thì vậy đi. Nếu không, chúng vẫn y như cũ. Đằng nào thì cũng vất vả cả, và ta không biết việc này sẽ thành công tới đâu.”
Bàn tay đang giữ bàn của Wallace đơ ra trong khi hàm hắn rớt xuống. “Ông nói thật chứ?”
“Thật,” Quản lý nói. “Lời ta nói là ràng buộc của ta.”
“Tại sao vậy?” Wallace hỏi. Quản Lý đã đồng ý nhanh hơn là hắn tưởng. Phải còn uẩn khúc gì khác chứ.
Quản lý nhún vai. “Vì tò mò. Ta muốn xem chuyện gì sẽ xảy ra. Đồng hành với trật tự là vòng lặp. Vòng lặp có thể dẫn tới chán chường, đặc biệt là khi nó cứ lặp đi lặp lại mãi. Chuyện này... khác biệt đấy.” Mắt nó nheo lại khi nhìn Hugo và Mei. “Đừng lầm tưởng sự ưng thuận của ta thành dấu hiệu cho thấy ta hài lòng nhé.”
“Ông thề chứ?” Wallace khăng khăng hỏi.
“Phải,” Quản lý nói, đảo mắt. “Ta thề. Ta đã nghe lời bào chữa cuối cùng rồi, thưa hội đồng. Bồi thẩm đoàn đã quay lại với phán quyết thuận theo ý anh. Chúng ta đã đạt thành thỏa thuận. Đến lúc rồi, Wallace. Đến lúc buông tay rồi.”
Wallace nói, “Tôi...”
Hắn nhìn Mei. Một giọt nước mắt lăn xuống má cô.
Hắn nhìn Nelson. Mắt ông cụ nhắm nghiền trong khi cau hết cả mày lại.
Hắn nhìn Apollo. Chú chó rên rỉ và cúi đầu.
Hắn nhìn Hugo. Hugo, Hugo, Hugo. Hắn nhớ về ngày đầu tiên mình tới tiệm trà, và mình đã nghĩ Hugo là người vĩ đại nhất thế gian này ra sao. Giá như hắn đã biết được điều ấy đúng đến thế nào. Giá như khi ấy hắn biết được những điều mình biết lúc này.
Anh sẽ làm gì với khoảng thời gian còn lại?
Hắn đã biết. Ngay lúc này, ở cuối đường, hắn đã biết. “Tôi yêu mọi người. Tất cả mọi người. Mọi người đã khiến cho cái chết của tôi thật đáng giá. Cảm ơn mọi người vì đã giúp cho tôi được sống.”
Và rồi Wallace Price thả mép bàn ra.
Không còn gì níu kéo, không còn gì ràng buộc, hắn bay lên.
Đầu gối hắn đụng vào bàn, khiến bàn nảy lên. Ấm và tách trà trên bàn kêu lạch xạch. Thật tự do biết bao khi buông bỏ. Cuối cùng, sau cùng cũng đã buông bỏ. Hắn không sợ. Không còn sợ nữa.
Hắn nhắm mắt lại trong khi nổi lên trần nhà.
Sự lôi kéo của cánh cửa vẫn mạnh như mọi khi. Nó đang hát với hắn, thì thầm tên hắn.
Hắn mở mắt ra khi mình ngừng bay lên.
Hắn nhìn xuống.
Nelson đang túm lấy mắt cá hắn, ngón tay bấm sâu vào, trên mặt là vẻ quyết tâm đã biến thành kinh ngạc khi ông cụ cũng bắt đầu bay lên khỏi sàn.
Nhưng rồi Apollo nhào tới, hàm khép lại quanh đầu gậy của Nelson, giữ ông cụ đứng im tại chỗ. Chú chó rên rỉ khi hai chân trước rời khỏi sàn, đỉnh đầu Wallace gần chạm trần nhà.
Mei túm hai chân sau Apollo, đuôi chú chó quạt lên mặt cô nàng. “Không,” cô cáu kỉnh. “Chưa đến lúc. Anh không thể làm vậy. Anh không thể làm vậy được.”
Rồi cô bắt đầu bay lên, hai chân khua loạn khi rời sàn nhà.
Hugo cố túm cô lại, nhưng tay anh cứ liên tục xuyên qua cô.
Wallace cúi đầu mỉm cười với họ. “Không sao đâu. Tôi hứa đấy. Hãy buông tôi ra đi.”
“Không đời nào nhé,” Nelson càu nhàu, tay càng siết chặt hơn quanh mắt cá chân Wallace.
Tay ông cụ trượt xuống giày Wallace. Ông cụ trố mắt ra.
“Ôi không.”
“Tạm biệt,” Wallace thì thầm.
Chiếc giày tuột ra. Nelson, Apollo và Mei ngã xuống đất, chồng lên nhau.
Wallace ngửa mặt lên. Tiếng thì thầm càng to hơn.
Hắn bay xuyên qua trần tầng trệt để lên tầng hai. Hắn nghe thấy tiếng những người còn lại hò hét phía dưới trong khi chạy ra cầu thang. Nelson hiện ra từ không trung, vươn tay túm lấy hắn, nhưng Wallace đã bay quá cao rồi. Mei và Hugo lên đến tầng hai vừa kịp lúc để thấy hắn bay xuyên qua trần nhà.
“Wallace!” Hugo kêu lên.
Tầng ba. Hắn ước gì mình đã dành nhiều thời gian trong phòng Hugo hơn. Hắn tự hỏi họ đã có thể gây dựng một cuộc đời như thế nào cho hai người họ nếu hắn tìm ra đường tới nơi nhỏ bé này trước khi tim hắn ngừng đập. Hắn nghĩ cuộc đời ấy hẳn sẽ tuyệt vời lắm. Nhưng thà trải qua hết khoảng thời gian hắn đã trải qua, còn hơn là chưa từng sống như vậy. Suy nghĩ ấy mới lớn lao làm sao.
Nhưng đây cũng là một cái chết thật lớn lao, phải không nào? Vì những gì hắn tìm ra sau khi qua đời.
Tiếng thì thầm của cánh cửa vẫy gọi hắn, không ngừng ngân nga tên hắn, và trong ngực hắn, là một quầng sáng, như mặt trời. Nó cháy bỏng bên trong hắn. Hắn nằm song song với mặt sàn bên dưới, hai tay dang rộng như từng làm khi ngồi sau Hugo trên xe máy. Hắn chạm lên trần tầng ba, trần nhà không cản hắn lại khi hắn bay xuyên qua nó lên tầng bốn.
Hắn chẳng hề ngạc nhiên khi thấy Quản Lý đã đợi sẵn hắn dưới cánh cửa, đầu nghiêng nghiêng. Trong khoảnh khắc, Wallace tưởng mình sẽ tiếp tục bay lên, lên, lên mãi. Có lẽ cánh cửa sẽ không mở ra, và hắn sẽ bay qua mái nhà lên trời đêm và tinh tú bất tận. Đó cũng là một cách không tệ để ra đi.
Nhưng không.
Hắn dừng lại, lơ lửng trong không trung.
Lần đầu tiên từ trước tới nay, Quản Lý trông có vẻ phân vân. Trông chỉ như một đứa bé trai cài hoa trên tóc.
Wallace mỉm cười. “Tôi không sợ đâu. Không sợ ông. Không sợ cánh cửa kia. Không sợ bất kỳ thứ gì đã hoặc sắp xảy ra.”
Nelson vùi mặt vào tay.
“Không sợ à,” Quản Lý lặp lại. “Ta có thể thấy điều ấy. Anh thả mép bàn ra như thể...” Nó nhìn chằm chằm Wallace hồi lâu trước khi ngẩng lên nhìn cánh cửa trong khi những tiếng thì thầm trở nên ồn ào hơn, khó hiểu hơn. “Ta tự hỏi. Sẽ thế nào nếu...”
Những tiếng thì thầm biến thành một cơn lốc xoáy. Quản Lý bướng bỉnh lắc đầu, như một đứa trẻ bị từ chối. “Không, ta không nghĩ điều ấy là đúng đâu. Nhỡ đâu— các ngươi biết không? Ta dần thấy mệt mỏi với cái—”
Lốc xoáy biến thành vũ bão, cuồng nộ và đinh tai nhức óc.
“Ta đã làm mọi thứ các ngươi yêu cầu. Lúc nào cũng vậy.” Nó ngửa mặt lườm cánh cửa. “Và làm vậy đã đưa chúng ta tới đâu nào? Nếu việc này là vì tất cả mọi người, vậy thì nó cần phải vì tất cả mọi người. Các ngươi không muốn xem xem chuyện gì có thể xảy ra sao? Ta nghĩ cuối cùng họ có thể khiến tất cả chúng ta kinh ngạc đấy. Như bây giờ là họ đã chứng tỏ được bản thân rồi. Và họ sẽ cần mọi sự trợ giúp có thể quy tụ được. Làm vậy cũng có mất gì đâu?”
Cánh cửa rung lên lạch xạch trong khung cửa, chiếc lá trên tay nắm co cụm lại.
“Phải,” Quản Lý nói. “Ta biết chứ. Nhưng đây... đây là một lựa chọn. Lựa chọn của ta. Và đây sẽ là trách nhiệm của ta, dù có chuyện gì xảy ra đi nữa. Ta hứa với các ngươi đó. Ta sẽ chịu trách nhiệm với bất kỳ việc gì xảy ra sau này.”
Cơn vũ bão bay biến, im lặng bao trùm trong tầng bốn của tiệm trà.
“Hờ,” Quản Lý nói. “Ta không thể tin được là nói vậy có tác dụng. Không biết ta còn làm được những gì khác nhỉ?” Nó ngẩng lên nhìn Wallace rồi hất cằm. Wallace ngã xuống sàn, thô bạo đáp đất bằng hai chân, nhưng vẫn đứng thắng được. Lần đầu tiên kể từ khi đưa cho Cameron lưỡi câu của mình, hắn cảm thấy vững vàng, như thể hắn có trọng lượng vậy.
Mei đã lên tới chiếu nghỉ, vừa hổn hển vừa cúi gập người, hai tay chống gối. Móng chân Apollo trượt trên sàn khi chú chó nhảy qua vài bậc thang cuối cùng, lộn nhào rồi đáp đất bằng lưng. Nó chớp mắt nhìn lên Wallace, lưỡi thè ra khỏi miệng khi nó cười toe toét, đuôi vẫy loạn lên.
Hugo lên tới sau cùng. Anh khựng lại, miệng há hốc.
“Kế hoạch đã có thay đối,” Quản Lý nói, giọng nghe khoái chí một cách kỳ lạ. “Ta đã thay đổi kế hoạch.” Nó cười lớn, lắc lắc đầu. “Việc này sẽ vui lắm cho xem.” Không gian xung quanh họ đặc quánh lại rồi bùng nổ cùng tiếng bụp! hài hước. Quản Lý cầm một tập hồ sơ, cúi đầu cau mày trong khi giở nó ra, miệng mấp máy trong khi đọc không thành tiếng, lật qua các trang. Wallace thử nhìn xem nó đang đọc cái gì, nhưng Quản Lý đã đóng tập hồ sơ trước khi hắn kịp tới đủ gần. “Hay ho đấy. Sơ yếu lý lịch của anh rất kỹ càng. Quá kỹ càng, theo ta thấy là vậy, nhưng vì không ai hỏi ý ta, nên việc ấy chẳng liên quan gì sất.”
Wallace thấy mắt mình lồi cả ra. “Cái gì của tôi cơ?”
Quản Lý ném tập hồ sơ lên không trung. Nó bay lơ lửng trong chốc lát rồi biến mất. “Phỏng vấn xin việc ấy mà,” nó nói. “Cả đống giấy tờ chết tiệt này, nhưng cái chết cũng là một ngành nghề mà, nên ta nghĩ như vậy cũng cần thiết thôi. Ai mà đoán được nghề này sẽ biến thành một công việc bàn giấy kia chứ?” Nó rùng mình. “Thôi không sao. Chúc mừng anh, Wallace. Anh được nhận vào làm rồi nhé.” Nó toét miệng cười sắc lẻm. “Trên tinh thần tạm thời thôi, dĩ nhiên là vậy, điều khoản của công việc này sẽ được thỏa thuận nếu nó chuyển thành một vị trí cố định hơn.”
“Vị trí dành cho cái gì cơ?”
Quản Lý vươn tay lên bứt một bông hoa trên tóc nó, dây leo gãy giòn tan. Cánh hoa có màu vàng, hồng và cam. Nó chìa bông hoa ra cho Wallace, lòng bàn tay ngửa lên trần. Chiếc lá trên tay nắm cửa pha lê trên đầu họ phất phơ như có gió nhẹ thổi qua. Bông hoa bồng bềnh trên lòng bàn tay nó trong khi rực rỡ bung nở. “Đám Trấu được đưa tới đây sẽ là một công việc đồ sộ hơn anh tưởng đấy. Những người khác sẽ cần được trợ giúp. Theo sơ yếu lý lịch của anh mà nói, trông anh chắc chắn là đủ khả năng, và dù ta hẳn sẽ ưng một ai đó bớt... giống anh hơn, một sơ yếu lý lịch như thế này không bao giờ nói dối. Mở miệng ra, Wallace.”
“Sao cơ?” Wallace hỏi, bước giật lùi. “Tại sao cơ?”
Quản Lý thầm càu nhàu rồi nói, “Mở miệng ra đi trước khi ta đổi ý. Nếu anh biết ta đang đánh cược cái gì ở đây, anh sẽ mở ngay cái miệng chết tiệt của anh ra đấy.”
Wallace mở miệng.
Quản Lý nâng bàn tay, đụng lên đài hoa. Bông hoa lớn dần khi trôi về phía Wallace. Những cánh hoa cọ qua môi hắn. Chúng cọ lên mũi hắn nhồn nhột. Chúng khép mình chui vào miệng hắn, áp lên lưỡi hắn. Chúng có vị ngọt, như mật ong uống trà. Hắn hổn hển và sặc sụa khi bông hoa lấp đầy miệng mình. Hắn ngậm miệng lại, cố cản nó lại nhưng không nổi. Bông hoa đã trượt xuống họng hắn.
Hắn khuỵu xuống sàn trên tứ chi, vừa cúi đầu vừa nôn ọe.
Hắn cảm nhận được giây phút bông hoa xuống tới ngực hắn và bung nở.
Nó nảy lên một cái.
Hai cái.
Ba cái.
Cái nữa, cái nữa rồi lại cái nữa.
Ai đó cúi xuống cạnh hắn. “Wallace?” Hugo gọi, giọng lo lắng. “Ông đã làm gì anh ấy rồi?”
“Ừm, Hugo này?” Mei nói, giọng run rẩy.
“Điều ta muốn làm,” Quản Lý nói. “Đã đến lúc thay đổi rồi. Họ không thích vậy, nhưng họ già và bảo thủ rồi. Ta xử lý họ được.”
“Hugo.”
“Sao hả, Mei?”
Cô thì thầm, “Anh đang chạm vào anh ấy kìa.”
Wallace ngẩng đầu lên.
Hugo đang quỳ bên cạnh hắn, tay đặt trên lưng Wallace, vuốt lên vuốt xuống. Tay anh khựng lại khi Mei lên tiếng, sức nặng của nó như que sắt đóng dấu.
Hugo nghẹn họng. “Anh...?”
“Còn sống à?” Quản Lý hỏi. “Phải. Anh ta còn sống. Đây là một món quà, và là món quà không được coi nhẹ đâu đấy.” Nó khịt mũi. “Ta cũng có thể lấy nó đi một cách dễ dàng như vậy. Và ta sẽ là người đầu tiên xuất hiện đề đòi quà trong trường hợp cần phải làm vậy. Đừng khiên ta thất vọng nhé, Wallace. Ta đang đặt cược vào anh đấy. Ta không muốn hối hận đâu. Ta tin chắc là hậu quả của nỗi thất vọng ấy sẽ kéo dài đến vô tận đấy.”
“Tim tôi,” Wallace khản giọng thốt lên khi nhịp đập trong ngực hắn rung động khắp các xương sườn. “Tôi cảm nhận được—”
Hugo hôn hắn. Hai tay anh ôm lấy mặt Wallace, và anh hôn hắn như thể đây là việc cuối cùng anh làm trong đời mình. Tiếng thảng thốt của Wallace chìm nghỉm trong miệng anh, môi anh ấm áp và mềm mại. Những ngón tay Hugo bấu chặt lên má hắn, lực ấn khác hẳn bất kỳ đụng chạm nào Wallace từng cảm nhận trước đây.
Hắn làm điều duy nhất có thể làm, khi hai mắt đã nổ đom đóm.
Hắn hôn lại Hugo. Hắn hít thở mùi hương của anh, đeo đuổi dư vị bạc hà trên đầu lưỡi Hugo. Wallace hôn anh bằng cả con người mình, trao đi mọi thứ có thể trao. Hắn đang khóc, hoặc là Hugo đang khóc, hoặc cả hai đang khóc, nhưng chẳng quan trọng gì. Hắn dồn hết sức bình sinh mà hôn Hugo Freeman.
Hugo rời hắn ra, nhưng chỉ một chút, áp trán họ lên nhau. “Xin chào.”
“Chào anh, Hugo.”
Hugo cố mỉm cười, nhưng nụ cười tan vỡ. “Chuyện này có thật không?”
“Anh nghĩ vậy.”
Và Hugo lại hôn hắn, ngọt ngào và long lanh, Wallace cảm nhận nụ hôn ấy tới tận đầu ngón chân.
Anh hôn môi rồi hôn má rồi hôn mi mắt Wallace, khi Wallace không thể chịu nổi việc ngắm nhìn anh ở cự ly gần đến thế này nữa. Anh hôn những giọt lệ, nói rằng, “Anh có thật. Anh có thật. Anh có thật này.”
Cuối cùng, họ cũng rời nhau ra.
Cuối cùng, Hugo đứng dậy, khớp gối lạch cạch.
Anh chìa tay ra cho Wallace.
Wallace không chút lưỡng lự.
Tay Hugo bao trọn lấy tay hắn khi anh kéo Wallace dậy. Anh ngỡ ngàng nhìn xuống hai bàn tay đang nắm lấy nhau của họ rồi kéo Wallace lại gần. Anh ngả đầu lên ngực Wallace, tai áp lên bên trái lồng ngực. “Em nghe thấy nó rồi,” anh thì thầm. “Trái tim của anh ấy.”
Và rồi anh đứng thẳng dậy, ôm chặt Wallace. Hơi thở của Wallace bị ép cạn khỏi ngực khi Hugo siết lấy hắn mạnh hết mức có thể. Hắn bị nhấc bổng khỏi mặt đất khi Hugo bật cười, xoay vòng cả hai người họ.
“Hugo!” Wallace hét lên, chóng mặt khi căn phòng xoay vòng vòng quanh họ. “Em mà không buông tôi xuống là sẽ làm tôi nôn ra đây đấy!”
Hugo buông hắn xuống. Anh định bước lùi lại, nhưng Wallace không cho anh rời xa khỏi mình. Hắn đan ngón tay mình vào ngón tay Hugo, lòng bàn tay mình vào bàn tay anh. Hắn hầu như không có thời gian để phản ứng khi Mei nhào lên hắn, hai chân quặp quanh eo hắn, tóc cô cọ lên mũi hắn. Hắn bật cười khi cô bắt đầu đấm lên ngực hắn, yêu cầu hắn không bao giờ được làm việc ngu ngốc như vậy nữa, làm sao anh có thể ngu đến vậy, hả Wallace, làm sao anh có thể nghĩ rằng anh tạm biệt được chúng em kia chứ?
Hắn hôn lên tóc cô. Lên trán cô. Cô ré lên khi hắn cù lên sườn cô, nhảy xuống khỏi người hắn.
Và rồi Nelson và Apollo chạy tới.
Chỉ có điều họ xuyên thẳng qua người hắn.
Nelson suýt nữa thì ngã xuống. Apollo thì ngã thật, đâm sầm vào bức tường sau lưng họ. Cửa sổ trong tháp rung lạch xạch. Chú chó đứng dậy, lắc lắc đầu, trông thật hoang mang.
“Anh ta sống rồi,” Quản Lý tỉnh queo nói. “Mấy người không chạm vào anh ta được đâu. Ít ra là chưa được. Mei sẽ phải dạy anh đấy.”
Họ nhìn Quản Lý. “Ý ông là gì?” Wallace hỏi, vẫn còn chuếnh choáng. “Làm sao tôi—”
Mei nói, “Một Thần Chết.”
Quản Lý gật đầu, “Công việc này sẽ đồ sộ hơn khả năng xử lý của mấy người. Nếu chuẩn bị chăm sóc đám Trấu, thì các cô cậu sẽ cần một Thần Chết khác để giúp đỡ mình. Wallace vốn đã hiểu công việc này vận hành thế nào. Ai cùng biết rằng giữ chân nhân viên mình đang có thì rẻ hơn là thuê người mới mà. Wallace, đưa tay ra đây.”
Wallace nhìn Hugo, anh gật đầu. Hắn chìa tay ra.
“Mei,” Quản Lý nói. “Cô biết phải làm gì mà.”
“Chuẩn không cần chỉnh,” Mei nói. “Wallace, quan sát em này, được chứ?” Cô giơ một tay lên, ngón tay xòe ra. Cô giơ tay kia lên và đánh một nhịp quen thuộc lên lòng bàn tay. Ánh sáng thoáng lóe lên trong tay cô.
Wallace buông Hugo ra, dù hắn ghét phải làm vậy. Hắn đánh theo nhịp kia lên lòng bàn tay mình.
Thoạt tiên chẳng có gì xảy ra cả.
Hắn cau mày. “Có lẽ tôi làm sai—”
Căn phòng rung lắc lên. Da hắn run lên. Gai ốc nổi dọc gáy hắn. Tay hắn run rẩy. Không trung quanh hắn giãn ra như thể nó nằm trên bề mặt bong bóng xà phòng. Bong bóng vỡ tung.
Wallace ngẩng lên nhìn.
Màu sắc ở tầng bốn trông sắc nét hơn. Hắn thấy được những vân sần trên tường, những vết nứt nông trên sàn. Hăn vươn tay về phía Hugo, và tay hắn xuyên qua anh. Hắn phát hoảng tới khi Quản Lý nói, “Anh có thể đổi lại mà, như Mei vậy. Lặp lại nhịp kia, và anh sẽ lại đứng ở dương gian. Đó là một đặc điểm của Thần Chết. Như vậy sẽ cho phép anh tương tác với những người đã khuất.” Nó méo mặt. “Với đám Trấu nữa, cái đám sinh vật tội nghiệp ấy.”
Apollo chậm rãi tới gần hắn, cánh mũi phập phồng. Chú chó rướn cổ tới khi mũi áp lên bàn tay Wallace. Đuôi nó bắt đầu điên cuồng vẫy loạn trong khi nó liếm ngón tay Wallace.
“Ừ,” Wallace vừa nói vừa nhăn mặt. “Tao cũng vui khi chạm được vào mày.”
Và rồi Nelson nhào lên người hắn, ôm hắn chặt gần bằng cháu trai ông. “Ta biết mà,” Nelson thì thào. “Ta biết là chúng ta sẽ tìm ra cách mà.”
Wallace ôm lại ông cụ. “Thật hả cụ?”
Nelson cười khẩy khi buông hắn ra. “Dĩ nhiên là thật rồi. Ta chưa bao giờ nghi ngờ việc ấy, dù chỉ trong giây lát nhé.”
“Đổi lại đi,” Quản Lý nói.
Wallace lại đánh theo nhịp kia lên lòng bàn tay. Căn phòng lại run lên quanh hắn, sự sắc nét phai đi cũng nhanh như khi nó ùa tới vậy. Cần được an tâm rằng làm vậy đã có tác dụng, hắn lại vươn sang Hugo, nắm tay anh trong tay mình. Hắn đưa tay Hugo lên môi, hôn lên mu bàn tay anh. Hugo ngỡ ngàng nhìn hắn. “Là thật đấy,” Wallace thì thầm với anh.
“Em không hiểu,” Hugo thú nhận. “Sao lại thế này?”
Họ lại quay sang phía Quản Lý. Thằng bé thở dài, khoanh tay. “Phải, phải. Anh sống lại rồi. Tuyệt vời biết bao cho hai người các anh.” Mặt nó trông thật u ám. “Đây không phải là điều để anh coi nhẹ, Wallace ạ. Trong suốt chiều dài lịch sử, mới có duy nhất một người được hồi sinh theo cách đó thôi.”
Wallace há hốc mồm nhìn nó. “Ôi trời ơi. Tôi giống như Jesus ư?”
Quản Lý cau mày. “Cái gì? Dĩ nhiên là không rồi. Tên anh ta là Pablo. Anh ta sống ở Tây Ban Nha vào thế kỷ 15. Anh ta... chà. Anh ta là ai cũng chẳng quan trọng. Tất cả những gì quan trọng là anh phải biết rằng đây là một món quà, và là món quà có thể bị lấy đi cũng dễ dàng như trao tặng.” Nó lắc đầu. “Anh không thể quay trở lại cuộc đời mình từng sống, Wallace ạ. Về căn bản, cuộc đời đó vẫn là đã khuất. Những người từng biết anh, những người... từng chịu đựng anh, đối với họ, anh đã chết và đã chôn mà không còn gì ngoài một tấm bia đá để chứng tỏ rằng anh có tồn tại. Anh không thể trở lại đâu. Như vậy sẽ gây rối loạn, và ta sẽ không chấp nhận đâu. Anh đã được trao cho cơ hội thứ hai. Anh sẽ không có được cơ hội nào khác đâu. Ta gợi ý rằng anh nên kiểm tra trái tim kia càng nhanh càng tốt. Cẩn tắc vô ưu. Anh hiểu chứ?”
Không. Hắn thật sự không hiểu. “Nhỡ đâu ai đó từng biết tôi bắt gặp tôi thì sao?” Hắn nghĩ khả năng ấy cũng nhỏ thôi, nhưng những tuần gần đây đã cho hắn thấy thế giới này thật sự lạ lùng đến thế nào.
“Khi ấy chúng ta sẽ xử lý việc đó,” Quản Lý nói. “Ta nghiêm túc đấy, Wallace. Chỗ đứng của anh là—”
“Ở đây,” Wallace nói, siết chặt tay Hugo vì hắn có thể. “Chỗ đứng của tôi là ở đây.”
“Chính xác. Anh còn nhiều việc phía trước lắm. Chứng tỏ niềm tin ta đặt vào anh có nhầm chỗ hay không là phụ thuộc vào anh đấy. Không áp lực gì đâu nhé.” Quản Lý ngoác miệng ngáp, khớp hàm kẽo kẹt. “Ta nghĩ như vậy là đủ phấn khích cho một ngày rồi. Ta sẽ sớm quay lại để vạch ra những công việc tiếp theo. Mei sẽ đảm nhiệm vai trò huấn luyện viên của anh. Nghe lời cô ta đi nhé. Cô ta giỏi việc lắm đấy. Có khi còn là người giỏi nhất ta từng gặp kìa.”
Mei đỏ mặt ngay cả khi cô nàng tiếp tục lườm thằng bé.
“Giờ ta đi đây,” nó nói. “Ta sẽ giám sát tất cả mấy người đấy. Hãy coi đó như bảng đánh giá những nhân viên làm việc cho chúng ta. Hãy tự điều chỉnh sao cho hợp với dương gian đi nhé.” Nó nhìn Hugo rồi lại nhìn Wallace. “Hãy làm việc con người làm khi họ yêu nhau ấy. Xả hết ra đi. Ta không muốn quay lại và bắt gặp hai người đang flagrante delicto đâu.” Nó giơ hai tay làm một cử chỉ tục tĩu, cử chỉ mà Wallace không bao giờ muốn thấy một đứa trẻ làm ra, cả khi đứa trẻ này có vẻ cổ xưa như vũ trụ vậy.
Hugo lắp bắp.
“Ôi trời ơi,” Wallace lầm bầm, biết rằng má hắn đang đỏ lựng.
“Phải,” Quản Lý nói. “Ta biết chứ. Cái việc ấy thật bực mình khủng khiếp. Ta không hiểu làm sao mấy người chịu được. Tình yêu tình báo trông rõ là mệt người.” Thằng bé quay về phía cầu thang, gạc hươu bắt đầu mọc lên trên đầu, hoa nở ra từ lớp nhung. Nó ngừng bước, ngoái đầu lại nhìn. Nó toét miệng cười, nháy mắt, rồi xuống cầu thang. Tới khi nó xuống tầng trệt, họ có thể nghe thấy tiếng móng guốc trên sàn tiệm trà. Ánh sáng xanh bùng lên qua khung cửa sổ hướng về mặt trước nhà.
Và rồi nó— Quản Lý— biến mất.
Họ đứng chết lặng, lắng nghe tiếng đồng hồ dưới tiệm trà bắt đầu tích tắc trở lại.
Nelson lên tiếng đầu tiên. “Quả là một ngày kỳ quặc. Mei, ta nghĩ ta cần một tách trà đấy. Cháu đi cùng ta chứ?”
“Vâng,” cô nàng nói, chưa gì đã đi về phía cầu thang. “Cháu đang nghĩ xem làm món gì sang sang để ăn mừng đây.”
“Ý tưởng lớn gặp nhau đấy,” Nelson trả lời. Ông cụ tập tễnh ra cầu thang, Apollo và Mei theo sau. Cũng như Quản Lý, ông dừng lại trước khi xuống cầu thang. Khi quay lại nhìn Wallace và Hugo, mắt ông cụ ướt đẫm, và ông đang cười. “Cháu trai yêu quý của ta,” ông nói. “Hugo đáng yêu của ta. Lúc này là thời điểm dành cho cháu. Hãy tận dụng nó nhé.”
Nói rồi, ông cụ xuống cầu thang, bảo Mei và Apollo ông đang nghĩ tới Đại Hồng Bào, cái tên khiến Mei thảng thốt đầy vui sướng. Hình ảnh cuối cùng của họ mà hai người thấy được là chóp đuôi Apollo vẫy qua vẫy lại.
“Trời ạ,” Wallace nói, đưa tay xoa mặt. “Anh không thể tin nổi mình mệt đến mức nào. Cảm thấy như anh có thể ngủ cả—”
“Em cũng yêu anh,” Hugo nói.
Wallace hít vào một hơi rồi nhắm mắt lại. “Sao cơ?”
Hắn cảm giác được Hugo đang đứng trước mặt mình. Tay anh vuốt ve sườn mặt hắn. Hắn ngả mình về phía anh. Wallace sẽ không bao giờ hiểu làm sao hắn sống được suốt những tuần vừa qua mà thiếu vắng những đụng chạm của anh. “Em cũng yêu anh,” Hugo lặp lại, và lời ấy thốt lên cùng nỗi sùng kính lặng thầm như một lời cầu nguyện vậy.
Wallace mở mắt ra. Hugo lấp đầy thế giới quanh hắn tới khi anh là tất cả những gì Wallace thấy được. “Thật ư?”
Hugo gật đầu.
Wallace sụt sịt. “Dĩ nhiên là em yêu tôi rồi. Em may lắm thì mới có—”
Hugo lại hôn hắn lần nữa.
“Tôi nghĩ,” Wallace thì thầm trên môi Hugo, “rằng chúng ta nên bỏ qua bữa trà đi, ít nhất là vào lúc này.”
“Anh có ý tưởng gì vậy?” Hugo hỏi, mũi cọ lên mũi Wallace.
Wallace nhún vai. “Có khi em cho tôi tham quan phòng ngủ của em đi.”
“Anh từng thấy phòng em trước đây rồi mà.”
“Ừ,” Wallace nói. “Nhưng đó là khi tôi còn mặc quần áo. Tôi nghĩ là chỗ đó sẽ khác hẳn khi chúng ta cởi hết—” Hắn kêu lên khi thế giới chao đảo vì Hugo đã nhấc bổng hắn lên, vắt hắn qua vai mình. “Ôi trời ơi. Hugo, thả tôi xuống!” Hắn đập tay lên lưng Hugo, vừa đập vừa cười.
“Không b