← Quay lại trang sách

GIỮA MÙA ĐÔNG Thứ Ba ngày 20 tháng Mười hai-1-Hội chứng Paris

Paris luôn là một ý hay.

Audrey HEPBURN

1.

Sân bay Roissy-Charles-de-Gaulle, sảnh đến.

Một định nghĩa nhất định về địa ngục nơi trần thế.

Trong phòng kiểm tra hộ chiếu, hàng trăm du khách đang bị dồn lại thành một hàng người đứng đợi trong tình trạng tắc nghẽn, thuôn dài và uốn khúc như một con trăn béo phì. Gaspard Coutances nghển cổ nhìn về dãy ca bin kính đằng trước anh, cách chừng hai chục mét. Đằng sau dãy quầy đó chỉ có nhõn hai cảnh sát khốn khổ kiểm soát dòng hành khách đông đúc này. Gaspard thở dài bực bội. Mỗi lần đặt chân tới sân bay này anh lại tự hỏi làm thế nào nhà chức trách có thể lờ đi những hậu quả tàn khốc của hình ảnh một tủ kính trưng bày đáng ghét đến nhường này về nước Pháp.

Anh nuốt nước bọt. Tình hình càng thêm tồi tệ vì trời đang nóng chảy mỡ. Không khí ẩm ướt, nặng nề, nồng nặc mùi mồ hôi kinh khủng. Gaspard đang đứng giữa một thiếu niên có vẻ ngoài của dân chơi mô tô phân khối lớn và một nhóm người Á. Sự căng thẳng hiển hiện như có thể sờ thấy: đang bị lệch múi giờ sau chuyến bay kéo dài mươi mười lăm tiếng, những hành khách với khuôn mặt xác sống đang bực bội vì nhận ra mình vẫn chưa đi đến cuối con đường thập giá.

Chỉ sau khi máy bay hạ cánh, khổ hình mới bắt đầu. Tuy chuyến bay khởi hành từ Seattle của anh đến đúng giờ – máy bay đã hạ cánh trước 9 giờ sáng một chút –, nhưng anh đã phải chờ hơn hai mươi phút để người ta mở cầu nối rồi mới có thể rời khỏi máy bay. Tiếp đến là màn cuốc bộ không hồi kết trong các hành lang cũ kỹ. Một trò tìm đường gây phẫn nộ khi phải giải mã những tấm biển tín hiệu phức tạp, khi chân muốn gãy rời trên các cầu thang máy hỏng, khi phải chiến đấu để xương khỏi nát vụn trên một chuyến tàu chật ních, để rốt cuộc bị nhồi vào căn phòng thảm thê này chẳng khác nào lũ súc vật. Chào mừng tới nước Pháp!

Túi du lịch khoác trên vai, Gaspard đang vã mồ hôi hột. Anh có cảm giác đã đi qua ba cây số kể từ khi rời máy bay. Kiệt sức, anh tự hỏi mình đang làm cái quái gì ở đây. Tại sao năm nào anh cũng bắt bản thân phải chịu đựng một tháng giam mình tại Paris để viết một vở kịch mới nhỉ? Anh bật cười vẻ bồn chồn. Câu trả lời thật đơn giản và nghe kêu như một khẩu hiệu: kỹ năng viết giữa môi trường thù nghịch. Năm nào cũng vậy, vào đúng ngày này, Karen, người đại diện của anh, lại thuê cho anh một ngôi nhà hoặc một căn hộ nơi anh có thể yên tĩnh làm việc. Gaspard thậm ghét Paris – đặc biệt là Paris vào dịp Giáng sinh – nên anh không thấy khó chịu chút nào với việc nhốt mình giữa bốn bức tường hai tư trên hai tư giờ. Kết quả: vở kịch được tự viết nên, hoặc gần như thế. Dẫu sao chăng nữa, vở kịch của anh luôn được hoàn thành vào cuối tháng Một.

Dòng người đang thưa dần với một tốc độ chậm rãi đến tuyệt vọng. Chờ đợi trở thành thử thách. Những đứa nhóc quá đỗi phấn khích đang vừa chạy thi giữa những thanh chắn vừa hò hét, một cặp vợ chồng già đang tựa vào nhau để khỏi ngã quỵ, một em bé đang trớ hết ra cổ mẹ chỗ sữa vừa tu trong bình.

Kỳ nghỉ Giáng sinh chết tiệt…, Gaspard than vãn trong lúc hớp lấy một ngụm không khí ô nhiễm. Khi thấy vẻ bất mãn trên gương mặt những bạn đồng hành bất hạnh, anh nhớ lại một bài viết về “hội chứng Paris” đọc được trong một tạp chí. Mỗi năm, có hàng chục du khách Nhật Bản và Trung Quốc đã nhập viện và thường phải hồi hương vì mắc những hội chứng rối loạn tâm lý nặng nề trong chuyến thăm đầu tiên tới thủ đô nước Pháp. Vừa hạ cánh xuống đất Pháp, những du khách này bắt đầu có những triệu chứng kỳ lạ – mê sảng, trầm uất, ảo giác, hoang tưởng. Theo thời gian, rốt cuộc các chuyên gia tâm lý đã tìm ra một cách lý giải: cảm giác khó ở của các du khách xuất phát từ sự chênh lệch giữa hình dung của họ về vẻ tao nhã của Kinh đô Ánh sáng với thực tế. Họ ngỡ được khám phá thế giới huyền diệu của Amélie Poulain, thế giới được ngợi ca trong những thước phim và những đoạn quảng cáo, đến nơi rồi họ mới phát hiện ra một thành phố khắc nghiệt và thù nghịch. Paris trong mộng tưởng của họ – Paris của những quán cà phê lãng mạn, của những người bán sách cũ ven sông Seine, của đồi Montmartre và của Saint-Germain-des-Prés – đã vấp phải thực tại: vẻ lem luốc, nạn móc túi, thiếu an toàn, ô nhiễm khắp nơi, những quần thể đô thị lớn xấu xí, hệ thống vận tải công cộng xuống cấp.

Để nghĩ sang chuyện khác, Gaspard lấy từ trong túi áo ra nhiều tờ giấy được gập làm tư. Mô tả và ảnh chụp nhà tù mạ vàng mà người đại diện đã thuê cho anh tại quận 6. Trước kia nơi đó là xưởng vẽ của họa sĩ Sean Lorenz. Những bức ảnh quyến rũ và gieo hy vọng về một không gian mở, sáng sủa, thư thái, hoàn hảo cho cuộc marathon viết lách đang chờ đợi anh. Thường thì anh không mấy tin những bức ảnh, nhưng Karen đã thị sát nơi này và chính cô đảm bảo với anh là nó sẽ khiến anh hài lòng. Và thậm chí còn hơn thế ấy chứ, cô còn nói thêm, vẻ bí hiểm.

Dẫu sao anh cũng phải tới đó thật nhanh.

Anh kiên nhẫn chờ thêm hơn mười lăm phút nữa mới được một nhân viên hải quan thuận tình ngó đến hộ chiếu của anh. Mặt mũi khó đăm đăm, gã này không xin chào chẳng cảm ơn cũng không đáp lại câu chúc ngày mới tốt lành của anh khi trả lại anh giấy tờ tùy thân.

Lại lúng ta lúng túng như gà mắc tóc trước những tấm biển chỉ dẫn. Gaspard đi nhầm hướng nên phải quay trở lại. Dòng thác lũ những cầu thang máy. Cả loạt cửa tự động luôn mở ra chậm trễ. Anh vội vã vượt qua thảm băng chuyền trả hành lý. Tạ ơn Chúa, anh chưa mất nhận thức đến mức ký gửi hành lý.

Lúc này, anh không còn cách lối ra của địa ngục bao xa. Anh cố sức tách khỏi đám huyên náo hiếm thấy đang làm tắc nghẽn sảnh đến, rẽ đám đông, xô nhào một cặp đôi đang ôm hôn nhau, bước qua những hành khách đang nằm ngủ vạ vật dưới sàn. Nằm gọn trong tầm ngắm của anh, cánh cửa quay bên trên gắn tấm biển “Lối ra – Taxi” đang cụ thể hóa màn kết khổ hình của anh. Thế đấy, chỉ thêm vài mét nữa là anh được giải thoát khỏi cơn ác mộng này. Anh sẽ lên một chiếc taxi, đeo tai nghe rồi để trí óc được đào thoát bằng cách lắng nghe tiếng dương cầm của Brad Mehldau và tiếng contrebasse của Larry Grenadier. Rồi, ngay chiều nay, anh sẽ bắt tay vào viết và anh…

Cơn mưa như tạt gáo nước lạnh vào niềm hào hứng trong anh. Những luồng nước như máng xối giội ào ào xuống mặt đường rải nhựa. Một bầu trời xám xịt. Một vẻ âm u ảm đạm và bầu không khí thì như nhiễm điện. Phía chân trời chẳng thấy bóng dáng chiếc taxi nào. Thay vào đó là những chiếc xe của cảnh sát trật tự và các hành khách đang ngơ ngác.

– Xảy ra chuyện gì vậy? anh hỏi một nhân viên phụ trách hành lý đang điềm nhiên hút thuốc gần một cây gạt tàn.

– Anh không biết gì sao? Đang có đình công đó, thưa anh.

2.

Cùng thời điểm đó, tại ga Bắc, Madeline Greene đang xuống khỏi tàu Eurostar chuyến 9 giờ 47 khởi hành từ London.

Những bước chân đầu tiên của cô trên đất Pháp khá ngập ngừng, cô gái thấy khó lòng thích nghi được với hoàn cảnh. Đôi chân cô nặng trĩu, run run. Thêm vào cơn mệt mỏi là cảm giác chóng mặt, nôn nao đến ám ảnh và những cơn trào ngược dịch vị đang nung đốt thực quản cô. Bác sĩ đã cảnh báo cô những tác dụng phụ của quá trình điều trị này mà vô ích, cô vẫn không hình dung mình sẽ trải qua dịp Giáng sinh trong tình trạng sức khỏe èo uột như vậy.

Chiếc va li cô đang kéo lê đằng sau như nặng cả tấn. Biến dạng, bị khuếch đại, âm thanh những bánh xe lăn trên mặt đường bê tông đang vang vọng trong đầu và cào nát sọ cô, gia tăng cơn đau nửa đầu tra tấn cô kể từ khi thức giấc.

Madeline dừng phắt lại để kéo kín khóa chiếc áo khoác dáng ngắn chất liệu da lót lông cừu. Tuy đang vã mồ hôi như tắm, nhưng cô thốt rùng mình. Cô thở dốc, và có lúc ngỡ mình sắp xỉu đến nơi, nhưng cô đã tìm lại được chút sức lực để tới cuối sân ga, như thể không khí náo nhiệt bao trùm nơi này kích thích cô và kết nối cô hầu như tức khắc với cuộc sống.

Bất chấp tiếng tăm không lấy gì làm tốt đẹp của ga Bắc, Madeline vẫn bị nơi này quyến rũ. Ở nơi những người khác nhìn thấy cảnh hỗn loạn và nỗi sợ hãi thì cô lại nhận ra sự tập trung năng lượng thô mộc và dễ lây lan. Một tổ ong thường xuyên biến động thì đúng hơn là chốn tụ tập đám người tật nguyền ăn xin thoắt ẩn thoắt hiện. Hàng nghìn sinh mệnh, số phận đang giao thoa, dệt nên tấm mạng nhện khổng lồ. Một dòng chảy xiết khiến người ta ngất ngư, một dòng chảy ồ ạt cần phải biết cách chế ngự để khỏi chết đuối.

Nhất là đối với cô, nhà ga này có vẻ như một sân khấu kịch có sự tham gia của hàng nghìn diễn viên: du khách, dân ngoại ô, doanh nhân, lũ vô lại, cảnh sát tuần tra, người bán hàng rong, bọn bán lẻ ma túy, nhân viên quán cà phê và các hàng quán xung quanh… Khi quan sát thế giới thu nhỏ bên dưới mái vòm kính lớn, Madeline nghĩ tới một trong những quả cầu tuyết mà mỗi lần đi du lịch về bà cô thường tặng cho cháu gái. Một quả cầu vĩ đại, ồn ã, không có những vảy trang kim bằng nhựa và nứt rạn dưới sức nặng của số đông.

Cô cuốc bộ ra sân trước nhà ga để rồi được đón tiếp bởi một trận cuồng phong, về mặt thời tiết, còn tệ hại hơn cả London: trận mưa nặng hạt, bầu trời nhớp nhúa, bầu không khí nóng ẩm đến khó chịu. Đúng như Takumi đã thông báo với cô, vài chục chiếc taxi đang tắc nghẽn ở lối vào ga. Chẳng xe buýt hay ô tô nào có thể nhận hành khách lên xe nên đành trả đám khách bộ hành về với cảnh khổ cực của họ. Trước máy quay truyền hình, những bộ não đang bừng bừng giận dữ: những người bãi công và người sử dụng dịch vụ diễn lại cái màn muôn thuở được báo chí và các kênh thông tin yêu thích.

Madeline vội đi vòng qua nhóm người này. Tại sao mình lại không nghĩ đến việc mang theo một cái ô nhỉ? cô nguyền rủa bản thân trong lúc sang đường đi về hướng đại lộ Magenta. Vì đi bộ quá sát lề đường, cô đã bị bùn bắn lên người khi một chiếc ô tô chạy ngang qua vũng nước. Ướt sũng và tức điên, cô xuôi xuống phố Saint-Vincent-de-Paul tới tận lối vào giáo xứ. Ở đó, Takumi đã có mặt đúng hẹn, ngồi sau tay lái một chiếc xe van nhỏ đang đỗ hàng đôi. Chiếc Estafette sặc sỡ của cậu ta được trang trí bằng một dòng chữ vui mắt đối lập với vẻ âm u của khung cảnh xung quanh: “Khu vườn Kỳ diệu – Cửa hàng hoa – số 3 bis, phố Delambre – 75014 Paris”. Thoạt trông thấy cậu ta, Madeline ra sức vẫy tay rồi nhao vào bên trong khoang lái.

– Hello, Madeline, chào mừng tới Paris! anh chàng chủ tiệm hoa chào đón cô, đoạn chìa cho cô một chiếc khăn mặt.

– Xin chào, anh bạn, gặp cậu tôi vui quá!

Cô vừa lau khô tóc vừa chăm chú quan sát chàng trai trẻ người Á. Takumi có mái tóc cắt ngắn, mặc chiếc vest nhung tăm và quàng khăn lụa. Đỉnh đầu tròn vo của cậu ta đội chiếc mũ lưỡi trai ca rô chất flannel, để lộ hai vành tai nhỏ vểnh lên khiến cậu ta trông giống một chú chuột nhắt. Khuôn mặt cậu ta bị vạch ngang bởi hàng ria mép lún phún gần giống ria mép của một cậu thiếu niên vừa dậy thì hơn là của *Thomas Magnum. Takumi chẳng già đi chút nào kể từ khi cô rời Paris, nhượng lại cho cậu ta cửa hàng hoa xinh xắn nơi chính cô đã tuyển cậu ta vào làm vài năm về trước.

Chú Thích

Nhân vật thám tử tư của xê ri phim truyền hình Mỹ Magnum, P.I. nổi tiếng vào những năm 1980. (Mọi chú thích không có lưu ý gì thêm là của người dịch.)

– Cậu thật tử tế khi tới đón tôi, cảm ơn nhé, Madeline nói trong lúc cài dây an toàn.

– Có gì đâu, hẳn là hôm nay chị đã phải vất vả một phen với chuyện tàu xe rồi.

Anh chàng chủ tiệm hoa vào số rồi tiến vào phố Abbeville.

– Như chị thấy đó, kể từ khi chị đi đất nước này chẳng có gì thay đổi, cậu ta khẳng định trong lúc chỉ vào nhóm người biểu tình. Thậm chí càng ngày mọi chuyện lại càng thê thảm hơn…

Hai thanh gạt nước của chiếc Renault cũ kỹ khó khăn lắm mới dẹp được những dòng nước mưa đang chảy tràn trên kính chắn gió.

Bất chấp cơn buồn nôn đang tấn công lần nữa, Madeline cố gắng gợi chuyện:

– Vậy cuộc sống cậu thế nào? Cậu không đi nghỉ Giáng sinh hả?

– Phải đến cuối tuần sau cơ. Bọn em sẽ lên đường đi đón năm mới cùng gia đình Marjolaine. Bố mẹ cô ấy có một nhà máy rượu ở Calvados.

– Nếu cậu vẫn uống kém như trước thì chuyện này nghe có vẻ hứa hẹn đấy!

Gương mặt anh chàng chủ tiệm hoa chuyển sang đỏ tía. Cái cậu Takumi này vẫn nhạy cảm như thế đấy, Madeline thích thú ngắm nhìn cảnh vật như đang hóa lỏng qua cửa kính xe. Chiếc xe van nhỏ đã tới đại lộ Haussmann và đi tiếp năm trăm mét nữa trước khi rẽ sang phố Tronchet. Bất chấp cơn mưa như trút, bất chấp tác động từ bầu không khí xã hội tệ hại, Madeline hài lòng khi có mặt ở đây.

Cô vẫn thích sống tại Manhattan, nhưng ở đó cô không thể thu nhận được thứ năng lượng mạo xưng mà một vài cô bạn hết lời ca ngợi. Thực ra, New York khiến cô kiệt sức. Thành phố cô tôn sùng vẫn luôn là Paris, bởi đó chính là nơi cô đã quay trở lại để băng bó những vết thương của mình. Cô đã sống tại đây suốt bốn năm trời. Không nhất thiết là những năm tháng tươi đẹp nhất, nhưng dẫu sao cũng là những năm tháng quan trọng nhất: những năm tháng phục hồi, tái thiết, tái sinh.

Cho đến năm 2009, cô làm việc ở Anh, trong đội cảnh sát hình sự Manchester. Tại đó, một cuộc điều tra kinh khủng do cô phụ trách – vụ *Alice Dixon – khiến cô mệt nhoài và buộc phải ra khỏi ngành. Thất bại này khiến cô mất đi mọi thứ: nghề nghiệp, sự tôn trọng của các đồng nghiệp, lòng tự tin. Đến Paris, cô mua lại một tiệm hoa nhỏ rồi làm lại cuộc đời trong khu phố Montparnasse, xa khỏi những cuộc điều tra án mạng hay trẻ em mất tích. Cuộc sống yên ổn hơn ấy thêm lần nữa có bước ngoặt căn bản khi một cuộc gặp gỡ đã hướng cô vào một hướng điều tra bất ngờ và cho phép Madeline tiếp tục cuộc điều tra từng phá nát cuộc đời mình. Cuối cùng, vụ Alice Dixon đã có được kết cuộc mỹ mãn tại New York. Hoàn cảnh dẫn tới thành công này đã cho cô cơ hội bước vào cơ quan hành chính của WITSEC, chương trình bảo vệ nhân chứng liên bang. Cô đã nhượng lại cửa hàng hoa của mình cho Takumi rồi bay tới New York. Một năm sau, NYPD – Sở Cảnh sát New York – đề xuất với cô vị trí làm cố vấn trong cơ quan chuyên trách xử lý những vụ án đã bị xếp lại. Nhiệm vụ của Madeline là mang đến cái nhìn mới mẻ cho một số vụ điều tra cũ chưa có kết quả. Dạng công việc có lẽ sẽ khiến người ta hưng phấn trong bộ phim truyền hình dài tập hoặc trong một tiểu thuyết trinh thám của Harlan Coben, nhưng trên thực tế hóa ra chỉ là một công việc bàn giấy hết sức nhàm chán. Suốt bốn năm, Madeline không đi thực địa một lần nào. Cô cũng không cho mở lại được bất kỳ cuộc điều tra nào. Cơ quan mà cô trực thuộc không đủ khả năng tài chính và luôn vấp phải thói quan liêu hẳn sẽ khiến chính quyền Pháp phải đỏ mặt vì còn thua xa. Toàn bộ các phân tích ADN nếu muốn đề xuất đều cần phải điền đầy đủ hàng tập mẫu khai in sẵn, hay muốn xin bất cứ giấy phép gì để thẩm vấn một nhân chứng cũ hoặc tiếp cận một vài tài liệu trong trình tự tố tụng cũng đòi hỏi cả đống thủ tục giấy tờ khiến người ta phát điên rồi đa phần đều vấp phải một lời từ chối dứt khoát từ phía FBI vốn đang ngồi chiếu trên trong những cuộc điều tra hình sự thú vị nhất.

Chú Thích

Xem tiểu thuyết Cuộc gọi từ thiên thần của cùng tác giả.

Rốt cuộc, cô đã rời bỏ công việc này không chút tiếc nuối để quay về Anh sinh sống. Thậm chí cô còn trách cứ bản thân vì đã chơi trò gia hạn lâu la đến thế. Bởi lẽ kể từ khi Jonathan Lempereur – người đàn ông mà cô từng yêu và theo đuổi ở Manhattan – quay về bên vợ, chẳng còn điều gì thực sự níu giữ cô ở lại Mỹ nữa.

– Marjolaine và em đang chờ đón em bé vào mùa xuân tới, anh chàng chủ tiệm hoa bỗng tâm sự.

Tiết lộ này kéo Madeline ra khỏi dòng suy tư.

– Tôi… tôi rất mừng cho cậu, cô ấp úng trong lúc cố gắng thể hiện niềm vui qua giọng nói.

Nhưng phản ứng của cô vẫn có vẻ giả dối. Đến nỗi Takumi nói lảng luôn sang chuyện khác:

– Chị vẫn chưa nói em biết cơn gió nào đưa chị tới Paris, Madeline?

– Đủ thứ chuyện ấy mà, cô đáp giọng thoái thác.

– Nếu chị muốn đến nhà dự bữa tối Giáng sinh cùng bọn em thì chị luôn được hoan nghênh nhé.

– Cậu tử tế quá, nhưng tôi không muốn làm vậy. Đừng giận tôi nhé, tôi thực sự cần được ở một mình.

– Chị muốn sao cũng được mà.

Im lặng lại bao trùm. Nặng nề. Madeline không gợi chuyện nữa. Dán mũi vào cửa kính xe, cô đang cố gắng tái thích nghi, nỗ lực gắn mỗi địa điểm với một ký ức về cuộc sống của mình tại Paris. Quảng trường Madeleine khiến cô nhớ tới một cuộc triển lãm tác phẩm của danh họa Dufy tại bảo tàng tranh; con phố Royale nhắc cô nhớ tới một quán rượu có món ragu thịt bê ngon bá cháy; cây cầu Alexandre-III gắn liền với vụ tai nạn cô đã gặp phải vào một ngày mưa khi đang lái mô tô…

– Chị đi công chuyện à? Takumi gặng hỏi.

– Dĩ nhiên rồi, cô nói dối.

– Mà dạo gần đây chị có gặp lại Jonathan không?

Đừng có xía mũi vào chuyện của người khác như thế chứ!

– Được rồi, màn tra hỏi của cậu kết thúc chưa nhỉ? Báo để cậu biết, tôi mới là cảnh sát đấy nhé.

– Nói cho đúng ra thì chị đâu còn là cảnh sát nữa, theo như em được biết…

Cô thở dài. Anh chàng vụng về này thực sự bắt đầu khiến cô bực mình.

– OK, tôi sẽ thẳng thắn nhé, cô nói; tôi muốn cậu dừng ngay những câu hỏi của cậu lại. Cậu là nhân viên học việc của tôi và tôi đã nhượng lại cửa hàng cho cậu, chuyện đó không cho cậu cái quyền được tra hỏi tôi về cuộc sống riêng đâu!

Trong khi chiếc xe van nhỏ của Takumi băng qua quảng trường phía trước điện Invalides, anh chàng liếc sang Madeline. Cô vẫn giống như cậu từng biết với tính cách bộc trực, chiếc áo khoác da rộng dáng ngắn, những lọn tóc vàng và kiểu đầu vuông hơi old schoolcũ.

Vẫn đang giận dữ, Madeline hạ cửa kính xe rồi châm một điếu thuốc.

– Chị vẫn hút thuốc sao, không đùa đấy chứ? anh chàng chủ tiệm hoa quở trách. Chị chẳng biết điều chút nào.

– Cẩn thận cái miệng cậu, cô đáp đoạn nhả một cuộn khói về phía Takumi để khiêu khích cậu.

– Không! Không phải trong xe em! Em không muốn xe mình sặc mùi thuốc lá đâu!

Madeline tranh thủ lúc chiếc Estafette vừa dừng chờ đèn đỏ để vơ lấy va li rồi mở cửa xe.

– Nhưng… Madeline, chị đang làm gì vậy?

– Tôi đã qua cái tuổi phải nhận những bài học đạo đức ba xu rồi. Tôi đi bộ tiếp đây.

– Không, chờ đã, chị…

Cô đóng sập cửa xe rồi sải từng bước dài, một mình, trên vỉa hè phố Grenelle.

Trời vẫn đang mưa như trút nước.

3.

Đình công ư? Gaspard lầm bầm. Đình công gì thế?

Vẻ cam chịu số mệnh an bài, nhân viên phụ trách hành lý nhún vai rồi phác một cử chỉ mơ hồ.

– Dào ôi, như mọi khi ấy mà, anh thừa biết rồi đấy…

Để tự bảo vệ mình trước trận mưa xối xả, Gaspard khum bàn tay thành vành chắn che mặt. Dĩ nhiên, anh đã không nghĩ đến chuyện mang theo một chiếc ô.

– Vậy là không có taxi sao?

– Lấy đâu ra. Anh có thể thử đi tàu RER tuyến B, nhưng chỉ có một phần ba số tàu hoạt động thôi.

Thế đấy, thà chết còn hơn.

– Còn xe buýt thì sao?

– Tôi chẳng rõ đâu, người nhân viên nhăn mặt, đoạn rít nốt hơi thuốc cuối cùng.

Gaspard bực bội quay vào bên trong sảnh sân bay. Anh lật trang tờ Người Paris số ra cùng ngày trong một quầy Relay. Nhan đề thật hùng hồn: “Tắc nghẽn quy mô lớn”. Tài xế taxi, công nhân đường sắt, nhân viên Công ty quản lý giao thông công cộng Paris, kiểm soát viên không lưu, tiếp viên hàng không, tài xế xe tải, công nhân bốc vác, nhân viên bưu điện, lao công: tất cả đã đồng tâm hiệp lực cam đoan sẽ khiến đất nước tê liệt nếu chính phủ không rút lại một văn bản luật gây nhiều tranh cãi. Bài báo nói rõ có thể sắp diễn ra những cuộc đình công khác và do việc phong tỏa những nhà máy lọc dầu thì từ giờ đến một vài ngày nữa nước Pháp có khả năng thiếu xăng dầu. Họa vô đơn chí, sau khi tình trạng ô nhiễm môi trường kéo dài không dứt lên mức đỉnh điểm hồi đầu tháng, giờ đến lượt sông Seine phải hứng chịu trận lũ lịch sử. Lụt lội lan khắp Paris, càng khiến cho tình hình giao thông trở nên phức tạp.

Gaspard dụi mắt. Vẫn cái điệp khúc nhàm tai mỗi lần mình đặt chân tới đất nước này… Cơn ác mộng tiếp diễn, nhưng dần dà cảm giác chán nản lấn át cơn giận dữ.

Biết làm gì đây? Nếu có trong tay một chiếc điện thoại di động, anh đã có thể gọi cho Karen để cô tìm ra một giải pháp. Có điều Gaspard chưa bao giờ muốn dùng điện thoại di động. Cũng giống như việc anh không có máy tính, máy tính bảng hay địa chỉ thư điện tử và cũng chẳng bao giờ truy cập Internet.

Có phần ngô nghê, anh bắt đầu tìm kiếm một ca bin điện thoại trong đại sảnh cảng hàng không, nhưng dường như chúng cũng đã tuyệt chủng cả rồi.

Những chiếc xe buýt là tia hy vọng cuối cùng của anh. Anh ra ngoài và tìm một nhân viên để hỏi thăm thông tin nhưng vô ích, anh mất đến mười lăm phút mới hiểu ra hoạt động tinh vi của những tuyến xe khách Air France khác nhau, rồi phát bực vì tận mắt chứng kiến hai chiếc xe buýt rời bến, chiếc nào chiếc nấy đông nghẹt không thể nhận thêm hành khách nào nữa.

Sau nửa giờ đồng hồ tiếp tục chờ đợi, và trong khi cơn mưa rào càng nặng hạt hơn, rốt cuộc anh đã có thể leo lên một chiếc xe buýt. Chẳng còn chỗ ngồi, không – đừng nên mơ mộng thế chứ – nhưng ít nhất anh cũng đi đúng tuyến: tới ga Montparnasse.

Bị nhồi nhét như cá đóng hộp, nước mưa rỏ giọt tong tỏng, đám hành khách nhẫn nhịn chịu đựng. Siết chặt túi xách vào người, Gaspard nghĩ tới định nghĩa của Dostoyevsky về con người: “một sinh vật quen với mọi thứ”. Với việc bị giẫm nghiến chân, bị xô đẩy, bị người ta hắt hơi vào tận mặt, mướt mồ hôi cùng những người xa lạ trong một nơi ngột ngạt, cùng bám vào một thanh kim loại đầy vi khuẩn vi trùng…

Lại một lần nữa anh toan bỏ cuộc và rời khỏi Pháp, nhưng rồi lại an ủi bản thân bằng cách tự nhủ khổ hình của mình sẽ không kéo dài quá một tháng. Nếu có thể viết xong vở kịch đúng hạn định, thì chưa đầy năm tuần lễ nữa anh sẽ lại lên đường tới Hy Lạp nghỉ ngơi dịp cuối đông và đầu xuân, ở đó anh có một chiếc thuyền buồm đang neo trên đảo Sifnos. Tiếp theo là sáu tháng lênh đênh giữa quần đảo Cyclades, sống ở chế độ ảnh hưởng qua lại với các yếu tố môi trường trong sự bùng nổ về cảm giác và màu sắc: màu trắng chói lóa của mặt trời trên lớp vôi tường, màu xanh cô ban của bầu trời, chiều sâu lam ngọc của biển Aegean. Ở Hy Lạp, Gaspard hòa hợp với cảnh sắc thiên nhiên, cây cỏ và những mùi hương trong một dạng hợp nhất theo thuyết phiếm thần. Sau khi đã say sưa với không khí biển, anh tan chảy vào truông, men theo những bức tường đá khô, thích thú với mùi húng tây, hoa xôn xanh, mùi dầu ô liu và mực nướng. Một niềm hạnh phúc kéo dài cho tới giữa tháng Sáu. Khi đám du khách bắt đầu gây hoại thư những hòn đảo, anh chạy trốn về đất Mỹ, trong căn nhà gỗ của mình tại Montana.

Ở đó là một lối sống khác: một cuộc trở về với thiên nhiên hoang dã nhất và khắc nghiệt nhất. Ngày tháng điểm nhịp bằng những chuyến câu cá hồi sông, những chuyến lang thang triền miên trong rừng bạch dương, quanh những ao hồ, dọc theo triền sông triền suối. Một cuộc sống đơn độc nhưng có chiều sâu, xa khỏi chứng ung thư của các thành phố và đám thị dân bạc nhược.

Chiếc xe buýt nhích từng mét một trên quốc lộ A3. Thi thoảng Gaspard lại nhìn thấy qua ô cửa kính xe nhòe nhoẹt những mảng biển báo lần lượt điểm danh các thị trấn vùng ngoại ô phía Đông Bắc: Aulnay-sous-Bois, Drancy, Livry-Gargan, Bobigny, Bondy…

Anh cần những chuyến lặn dài lâu ấy, một mình trong thiên nhiên, để tự gột rửa, để rửa sạch vết lở loét của văn minh. Bởi lẽ bấy lâu nay, Gaspard Coutances đang chiến đấu chống lại sự biến động và hỗn loạn của một thế giới đang tiến dần đến sự diệt vong. Một thế giới tứ bề rạn nứt mà anh không còn hiểu được nữa. Vốn thuộc típ ghét người chân chính, anh cảm thấy gần gũi với lũ gấu, chim săn mồi và rắn hơn là với những kẻ tự nhận là anh em đồng loại của mình. Và anh hãnh diện vì đã ly khai với cái thế giới anh căm ghét. Hãnh diện vì có thể sống phần lớn thời gian bên ngoài xã hội cùng những quy tắc của nó. Tương tự, anh không còn bật ti vi kể từ hai mươi lăm năm nay, hầu như tảng lờ hết thảy mọi thứ trên Internet và chạy một chiếc Dodge xuất xưởng cuối thập niên 1970.

Cuộc sống ẩn dật của anh bắt nguồn từ một kiểu chủ nghĩa khổ hạnh kiên quyết, nhưng không triệt để. Thi thoảng khi thời cơ xuất hiện, anh tự cho phép mình làm một chuyện điên rồ. Có khi anh rời bỏ những ngọn núi hay hang ổ của mình ở Hy Lạp rồi đáp máy bay đi nghe hòa nhạc của Keith Jarrett tại Juan-les-Pins, dự triển lãm tranh của Bruegel tại Rotterdam hoặc một buổi trình diễn *Tosca trong đấu trường Verona. Thế rồi một tháng viết lách tại Paris này như đã nói ở trên. Sau một năm âm thầm nung nấu đến độ chín muồi vở kịch của mình, anh ngồi vào bàn làm việc mười sáu tiếng mỗi ngày. Mỗi lần như thế anh lại nghĩ mình đang bí ý tưởng, bí cảm hứng, bí khao khát, nhưng lần nào cũng vậy, một quy trình bí ẩn lại diễn ra. Những từ ngữ, những tình tiết, những lời thoại, những câu ứng đối tuôn ra dưới ngòi bút của anh rồi khớp lại thành một tổng thể chặt chẽ, theo một lối viết đanh gọn chứ không thống thiết giả tạo.

Chú Thích

Vở nhạc kịch ba hồi của soạn giả nổi tiếng Giacomo Puccini được Luigi Illica và Giuseppe Giacosa viết lời. Tác phẩm là sự kết hợp giữa âm nhạc làm mê đắm cả thế giới của Puccini và những thuật họa sống động về đòn tra tấn, ám sát và tự tử, tác phẩm này còn khơi nguồn cho biết bao màn trình diễn khó phai của những ca sĩ opera hàng đầu.

Đến nay, những vở kịch của anh đã được dịch ra gần hai mươi thứ tiếng và được trình diễn trên toàn thế giới. Chỉ tính riêng năm ngoái, gần mười lăm sáng tác đã được dàn dựng ở châu Âu và Mỹ. Một trong những vở kịch mới nhất của anh, Ghost TownThị trấn Ma, đã được công diễn tại Schaubühne, nhà hát huyền thoại của Berlin, và được đề cử giải Tony Awards. Những câu chuyện anh viết đặc biệt làm hài lòng giới báo chí thông thái chuyên luận giải quá đà và đánh giá hơi quá cao tác phẩm của anh.

Gaspard không bao giờ xem trình diễn những vở kịch của mình, cũng không bao giờ trả lời phỏng vấn. Ban đầu, Karen hơi lo ngại về lựa chọn không xuất hiện trước các phương tiện thông tin đại chúng này, nhưng cô đã biết lợi dụng sự giữ kẽ này để tạo nên một “Gaspard Coutances bí ẩn”. Rốt cuộc, anh càng ít nỗ lực thì báo chí lại càng ra sức tán tụng anh. Họ so sánh anh với Kundera, với Pinter, với Schopenhauer, với Kierkegaard. Gaspard không ham thích gì những lời khen ngợi ấy bởi anh luôn nghĩ rằng thành công này bắt nguồn từ một sự hiểu lầm.

Sau trạm dừng Bagnolet, xe buýt chôn chân trên đường vành đai trước khi tiến vào kè Bercy rồi tới tận ga Lyon. Đến đây, chiếc xe lại dừng một lúc lâu, đủ thời gian để phân nửa số hành khách xuống xe rồi lại nhằm thẳng hướng Tây.

Mọi vở kịch của Gaspard đều được tưới tắm trong cùng một thứ đất mùn: đất mùn của tính phi lý và bi kịch cuộc đời, đất mùn của nỗi cô đơn gắn liền với thân phận con người. Chúng chưng cất sự kinh tởm của Gaspard đối với cơn điên loạn của thời đại anh sống và không hề biết đến những ảo tưởng, chủ nghĩa lạc quan, những cảm xúc tích cực và các kiểu happy end. Ấy vậy mà, mặc dù đều bất đắc chí và tàn khốc nhưng vở kịch nào của anh cũng khôi hài. Dĩ nhiên không phải kiểu Pouic-Pouic, Chuồng nhốt bọn điên hay Ở nhà hát tối nay, mà đó là những vở kịch sắc sảo và sôi nổi. Như Karen thường nói, chúng khiến khán giả có cảm tưởng mình có thể được tự do, còn giới phê bình thì tưởng như mình thông thái. Có lẽ điều đó giải thích vì sao công chúng hâm mộ tác phẩm của anh còn những diễn viên ngôi sao thì tranh giành nhau để được trình diễn những kịch bản gay gắt của anh.

Xe buýt vừa đi qua sông Seine. Đại lộ Arago, những màn trang trí mùa Giáng sinh buồn tẻ và trơ trụi khiến Gaspard nhớ ra anh căm ghét quãng thời gian này xiết bao cùng thứ mà dịp lễ này đã biến tướng thành: thuần túy là một bãi nôn tầm thường mang tính thương mại. Rồi chiếc xe dừng khựng lại ở quảng trường Denfert-Rochereau ngay trước lối vào khu hầm mộ. Xung quanh tượng đồng Sư tử Belfort, một nhóm nhỏ người biểu tình đang vẫy những lá cờ mang màu của Tổng Liên đoàn Lao động CGT, của Sức mạnh Công nhân FO và của Liên minh Công đoàn Hợp nhất FSU. Tài xế hạ cửa kính xe nói chuyện với một cảnh sát đang điều tiết giao thông. Căng tai nghe ngóng, Gaspard hiểu rằng đại lộ Maine cũng như toàn bộ các lối vào tháp Montparnasse đã tắc nghẽn.

Những cánh cửa lên xuống xe mở ra như tiếng giác mút.

– Bến cuối rồi, mọi người xuống hết đi nhé! tài xế thông báo bằng giọng thích thú khi bỏ mặc hành khách của mình trong thảm cảnh.

Bên ngoài, cơn dông càng dữ dội hơn.

4.

Do đình công và những địa điểm xử lý rác thải bị phong tỏa, Paris oằn mình dưới rác rưởi. Hàng núi rác chất đống trước các nhà hàng, lối vào các tòa nhà và mặt tiền các cửa hàng. Thậm chí một vài du khách, vừa bực bội, ghê tởm vừa giận dữ, đã chụp vài bức ảnh selfie đầy mỉa mai trước những công ten nơ ngập tràn rác.

Dưới màn mưa quất xuống đường, Madeline ngược lên đầu phố Grenelle, kéo theo chiếc va li gắn bánh xe và thấy dường như cứ đi được một trăm mét nó lại nặng thêm một kí lô. Vốn kiên cường gan dạ, cô đã quyết không để mình bị hạ gục. Hòng tiếp thêm can đảm cho bản thân, cô thầm lập ra trong đầu kế hoạch cho những ngày tiếp theo. Những chuyến đi dạo trên đảo Saint-Louis, một vở nhạc kịch tại Châtelet, một vở kịch ở Édouard-VII, triển lãm Hergé tại Grand Palais, xem phim Manchester by the Sea ở rạp và dăm ba nhà hàng nhỏ, một thân một mình… Cô cần kỳ nghỉ này diễn ra thật suôn sẻ. Cô đã tới đây với hy vọng được nghỉ ngơi và tìm lại chính mình. Cô gán cho thành phố này kiểu tính năng thần diệu ấy.

Cô tiếp tục bước đi, cố gắng không nghĩ đến thủ thuật mà bản thân sẽ phải trải qua trong những ngày tiếp theo. Cô vừa đi hết phố Bourgogne thì cơn mưa bỗng tạnh. Khi tới phố Cherche-Midi, thậm chí một tia nắng yếu ớt còn le lói xuất hiện, trả lại cho cô nụ cười. Cô lục tìm trong chiếc điện thoại thông minh của mình để mở thư của sàn bất động sản nơi cô đã chọn thuê nhà.

“Một căn hộ tại Paris”: đó là dòng chữ cách đây một tháng cô đã nhập vào thanh công cụ tìm kiếm khi bắt tay đi tìm chỗ ở. Sau vài chục cú nhấp chuột và nửa giờ lướt mạng, cô đã hạ cánh xuống trang web của một hãng bất động sản chuyên cho thuê những “mặt hàng” đặc biệt. Căn nhà vượt quá xa ngân sách của cô, nhưng nó đã khiến Madeline thích tới mức cô không nghĩ đến chuyện sống ở đâu khác. Vì sợ để vuột mất nó, Madeline đã rút ngay thẻ tín dụng ra thanh toán tiền đặt chỗ.

Trong thư xác nhận cùng lúc xuất hiện địa chỉ cụ thể và mật mã mở khóa vào nhà. Theo chỉ dẫn, ngôi nhà nằm trong ngõ Jeanne-Hébuterne, một ngõ cụt bị chặn ngang bởi cánh cổng sắt nằm ngay đối diện nhà hàng Chez Dumonet. Madeline đã nhận ra cánh cổng tróc sơn, rồi mắt vẫn dán vào màn hình điện thoại, cô bấm bốn con số cho phép mở khóa cổng.

Đóng cánh cổng lại sau lưng, Madeline lọt ngay vào một ngôi đền cũ kỹ. Thoạt tiên cô cảm nhận được màu xanh – kim ngân, tre trúc, những khóm nhài, mộc lan – và những cây nhỡ – cam Mexico, tiên nữ Nhật, hoa bướm – đã biến nơi này thành một hộp nữ trang thôn dã và điền viên cách xa sự thô nhám của thành phố cả nghìn dặm. Thế rồi, khi tiến bước trên những phiến gạch lát, cô phát hiện ra một cụm bốn ngôi nhà nhỏ. Những căn nhà một tầng có vườn rau bao quanh, các mặt tiền khuất sau giàn thường xuân và lạc tiên.

Ngôi nhà cô thuê nằm ở cuối ngõ. Nó chẳng có gì liên quan với những ngôi nhà khác. Nhìn từ bên ngoài, đó là một khối bê tông cốt thép hình lập phương được nhấn nhá bằng một mảng tường gạch xen kẽ hai màu đỏ và đen. Madeline bấm một mật mã nữa để mở cánh cửa thép dày bên trên có gắn một dòng chữ mảnh bằng sắt rèn: “Cursum PerficioCon đường của tôi kết thúc tại đây”.

Ngay khi cô lọt vào tiền phòng, điều gì đó đã xảy ra: một cảm giác kinh ngạc đến thán phục không khác mối tình sét đánh là bao. Một sự choáng ngợp chạm đến tim cô. Ở đâu ra cái cảm giác thoải mái như đang ở nhà mình này nhỉ? Cái ấn tượng hòa hợp không thể định nghĩa này? Từ sự xếp đặt những cuốn sách này chăng? Từ những ánh phản chiếu màu nâu đỏ của ánh sáng tự nhiên chăng? Từ sự đối lập với không khí hỗn loạn đang bao trùm bên ngoài kia ư?

Madeline vẫn luôn mẫn cảm với những món đồ nội thất. Suốt một thời gian dài, thậm chí đó còn là một yếu tố cấu thành nghề nghiệp của cô: khiến những nơi chốn phải lên tiếng. Nhưng lúc bấy giờ những nơi chốn cô thường gặp lại có nét đặc thù là các hiện trường tội ác…

Cô đặt va li của mình vào một góc sảnh rồi thong thả dạo một lượt khắp các phòng. Cursum Perficio là một ngôi nhà kiêm xưởng vẽ của thập niên 1920, được trùng tu một cách hoàn hảo, dàn trải trên ba tầng nhà xung quanh một khoảng sân trong xanh mơn mởn.

Ở tầng trệt là một căn bếp trông ra phòng ăn và một phòng khách rộng rãi trống trơn. Men xuống cầu thang gỗ mộc, người ta sẽ đến với một mặt sàn dạng vườn-trệt, được chia thành hai phòng ngủ trông ra đài phun nước có các cây dây leo bao phủ. Còn toàn bộ diện tích tầng hai dành cho một xưởng vẽ rộng thênh thang, một phòng ngủ với khu vệ sinh khép kín.

Vẫn bị hớp hồn, Madeline cứ đứng ngây ra như thế trong xưởng vẽ suốt nhiều phút liền, ấn tượng mạnh với những khung cửa gỗ cao hơn bốn mét trông ra bầu trời và những ngọn cây. Trong phần mô tả do sàn bất động sản cung cấp, cô đã đọc thấy rằng ngôi nhà này từng thuộc về họa sĩ Sean Lorenz. Quả nhiên, xưởng vẽ trông như nguyên trạng mà họa sĩ để lại với nền nhà phủ chi chít những vệt màu, các giá vẽ và khung tranh đủ kích cỡ, những tấm toan trắng tinh được cất trong các ngăn tủ. Và khắp nơi là những lọ màu, bàn chải, cọ vẽ, bình xịt sơn.

Khó khăn lắm cô mới rời được xưởng vẽ. Thật ngây ngất và bối rối khi vận động trong không gian riêng tư của người họa sĩ. Quay về phòng khách, cô mở cánh cửa kính dẫn ra sân hiên. Ở đó, cô được đắm chìm trong hương thơm ngất ngây của các loài hoa mọc trên sân và môi cô hé nở nụ cười khi lặng ngắm hai chú oanh cổ đỏ đang bay lượn gần một máng ăn gắn trên tường. Ta đang ở nông thôn thì đúng hơn là ở Paris! Đây là điều cô sẽ làm: tắm bồn rồi ra ngồi trên sân hiên cùng một tách trà và một cuốn sách hay!

Ngôi nhà này đã giúp cô tìm lại được nụ cười. Cô đã đúng khi làm theo bản năng mà tới đây. Paris đúng là thành phố nơi mọi chuyện đều có thể xảy ra.

5.

Vừa nguyền rủa cơn mưa rào, Gaspard vừa nhảy từ vỉa hè này sang vỉa hè kia, áo vest giăng bên trên đầu, túi xách cứa vào vai. Rời khỏi Denfert, anh chạy một mạch không dừng tới tận bến tàu điện ngầm Edgar-Quinet. Tiến vào phố Delambre thì anh bỗng nhận ra mình đang ở một chỗ quen. Hai năm trước, Karen đã thuê cho anh một căn hộ rộng rãi nằm ở góc đường Square Delambre. Anh còn nhớ rất rõ con phố này: ngôi trường nhỏ, khách sạn Lenox, Khu vườn kỳ diệu với mặt tiền trang trí đầy hoa cũng như những nhà hàng nơi anh đã có lần tới dùng bữa: Sushi Gozen và Bistrot du Dôme.

Cuối cùng trời cũng tạnh mưa khi anh tới đại lộ Montparnasse. Gaspard tranh thủ mặc lại áo vest và lau kính. Có tiếng la ó ồm ồm không rõ cất lên từ con phố. Những tiếng pháo, tù và, còi, còi hiệu, những khẩu hiệu chống đối chính phủ. Tuyến phố chính đông nghịt người biểu tình. Một đoàn diễu hành dài đang chờ để ùa vào phố Rennes. Gaspard nhận ra những chiếc áo gi lê màu vàng phản quang và những chiếc áo choàng màu đỏ của Tổng Liên đoàn Lao động tụ lại quanh một khinh khí cầu căng tròn và một âm thanh đốc thúc một đám đông vội vã đi tới đi lui không mục đích cụ thể.

Nhà soạn kịch dấn bước vào giữa làn sóng những cờ quạt và băng rôn để nín thở tiến sang đại lộ Raspail. Nhẹ nhõm vì đã tìm lại được chút yên bình, anh tựa vào một cột đèn đường thở lấy hơi. Đứng đó, toát mồ hôi hột, anh lôi từ trong túi áo ra tờ giấy Karen gửi cho rồi đọc lại địa chỉ ngôi nhà và những chỉ dẫn để vào bên trong. Anh lại lên đường trong khi những tia nắng lấp ló đang khiến vỉa hè sáng loáng như mặt gương.

Ở góc phố Cherche-Midi, mặt tiền một cửa hàng rượu vang khiến tâm trạng anh phấn chấn. Đỏ và Đen. Anh kiểm tra để biết chắc cửa hàng đang vắng khách rồi mới bước vào. Biết chính xác thứ mình muốn, anh trao đổi ngắn gọn với chủ cửa hàng rồi mười phút sau trở ra, mang theo một thùng những loại vang hảo hạng: Gevrey-Chambertin, Chambolle-Musigny, Saint-Estèphe, Margaux, Saint-Julien…

Rượu…

Khi bắt gặp hình ảnh phản chiếu của mình trên các tủ kính bày rượu, anh thoáng nghĩ đến cảnh tượng kinh hoàng mở đầu bộ phim Leaving Las Vegas, khi nhân vật do Nicolas Cage thủ vai dừng chân trong một liquor storecửa hàng rượu để chất đầy xe đẩy hàng bằng hàng chục chai rượu. Một trạm dừng chân, khúc dạo đầu cho chuyến đi xuống địa ngục tự sát.

Dĩ nhiên, Gaspard còn chưa đến mức ấy, nhưng rượu đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống đời thường của anh. Phần lớn thời gian anh uống một mình, nhưng cũng có lúc anh say những trận nhớ đời trong những quán rượu tồi tàn ở Columbia Falls, Whitefish hay Sifnos. Những cơn say bí tỉ cùng những gã trai thô lậu cóc cần quan tâm đến Brueghel, Schopenhauer, Milan Kundera hay Harold Pinter.

Đây là thứ thuốc bổ giản tiện nhất để bít lấp những vết rạn nứt và giúp cho cuộc sống của anh đỡ phần bi thảm. Sự đồng lõa giúp anh đánh cắp từ cuộc sống dăm ba mảnh vô tư lự. Đôi khi là bạn hữu, đôi lúc là kẻ thù, rượu là lá chắn giúp anh tránh xa cảm xúc, là bộ đồ bảo hộ che chắn anh trước những phiền lo, là thứ thuốc ngủ công hiệu nhất. Anh còn nhớ câu nói của Hemingway: “Một người đàn ông thông minh đôi khi buộc phải uống để có thể sống giữa những kẻ ngu độn.” Là vậy đó. Rượu không giải quyết được triệt để vấn đề nào cả, nhưng nó ban tặng một phương cách nhất thời để chống đỡ liên minh vĩ đại của tính tầm thường, mà theo anh, đã lây nhiễm khắp nhân loại.

Gaspard tỉnh táo, anh biết không thể không có chuyện kết cuộc rượu giành phần thắng. Thậm chí anh còn hình dung khá cụ thể về cách chuyện này có thể xảy ra: sẽ đến một ngày khi anh thấy cuộc đời dường như không thể chịu đựng nổi, tới mức anh không còn có thể đương đầu với nó nếu không uống rượu. Hình ảnh cái xác của chính mình đang chìm xuống những vực sâu rượu chè thoáng lướt qua tâm trí Gaspard. Anh vội xua cơn ác mộng này đi và nhận ra mình đã tới trước một cánh cổng được phủ một lớp sơn sắc xanh Phổ.

Kẹp chặt thùng rượu dưới cánh tay, Gaspard bấm bốn chữ số của mã bảo vệ lối vào ngõ Jeanne-Hébuterne. Vừa tiến vào ngõ cụt nhỏ này, điều gì đó trong anh bỗng chùng lại. Anh dừng bước, hồ nghi hồi lâu khi nhìn thấy đám cây cối và dáng dấp tỉnh lẻ, gần như lỗi thời, của con ngõ nhỏ um tùm cây cối. Ở đây, thời gian dường như trôi chậm hơn nơi khác, như thể nơi này bị một múi giờ song song đi qua. Hai chú mèo ươn lười đang phơi nắng. Lũ chim kêu ríu rít trong mấy tán anh đào. Sự hỗn loạn bên ngoài bỗng chốc dường như đã lùi rất xa và người ta khó lòng tin rằng mình đang chỉ cách tháp Montparnasse khủng khiếp kia có vài trăm mét.

Gaspard tiến vài bước trên những viên đá lát khấp kha khấp khểnh. Hơi lùi về sau một chút, gần như bị che khuất sau rặng cây thân gỗ, người ta thoáng thấy những ngôi nhà nhỏ bằng đá cối với mặt tường trát vữa nhám. Đằng sau những cánh cổng hoen gỉ, mặt tiền màu đất son của chúng khuất lấp sau đám dây leo thường xuân và dây leo lông chim. Sau cùng, cuối lối đi nhô lên một công trình lớn có dạng khối hình học. Một hình hộp bằng bê tông cốt thép được bao quanh bởi một dải rộng ốp kính trắng đục chạy dọc mặt tiền bằng gạch đen và đỏ phân bố dạng bàn cờ. Bên trên cánh cửa gắn một dòng chữ bằng sắt rèn: “Cursum Perficio”, tên ngôi nhà cuối cùng của Marilyn Monroe. Một bộ khóa được mã hóa chờ nhập những chữ số mới. Gaspard làm theo chỉ dẫn của Karen và từ cánh cửa bằng thép khẽ vang lên một tiếng cạch nhẹ báo hiệu đã mở chốt.

Tò mò muốn khám phá bên trong, Gaspard đi qua tiền sảnh vào thẳng phòng khách. Không đẹp như trên ảnh chụp. Mà còn đẹp hơn thế. Ngôi nhà được bố trí một cách khéo léo quanh một mảnh sân trong hình chữ nhật, thêm vào đó là một khoảnh sân hiên dạng chữ L.

Khỉ thật…, anh khẽ thốt lên, ngẩn người trước vẻ thanh lịch của nơi này. Toàn bộ cảm giác căng thẳng tích tụ trong anh những giờ vừa qua bỗng chốc tiêu tan. Ta đang ở đây, trong một chiều không gian khác, một không gian cùng lúc vừa thân thuộc vừa vỗ về an ủi. Thiết dụng, mời chào và thuần khiết. Anh cố gắng dành chút thời gian phân tích căn nguyên của cảm giác này, nhưng cả kiến trúc lẫn sự hài hòa về tỷ lệ đều không phải lĩnh vực mà anh thông thuộc các quy tắc.

Thông thường thì anh không nhạy cảm với đồ nội thất. Mà anh nhạy cảm với phong cảnh: với hình ảnh phản chiếu của dãy núi tuyết phủ trên mặt hồ, với sắc trắng phơn phớt xanh của sông băng, với sự bao la đến ngất ngây của rừng thông. Anh không tin vào lời phỉnh phờ về phong thủy và ảnh hưởng của cách bày biện đồ đạc lên sự lưu thông năng lượng trong một căn phòng. Nhưng Gaspard buộc phải ghi nhận điều anh cảm nhận được ở nơi đây nếu không phải những “sóng tích cực”, thì ít nhất cũng là niềm tin chắc rằng anh sẽ cảm thấy dễ chịu và vui vẻ khi làm việc tại đây.

Anh mở cửa kính, bước ra sân hiên rồi dựa vào lan can, tận hưởng trọn vẹn tiếng chim líu lo và bầu không khí đồng quê đang khiến anh hân hoan vui sướng. Gió đã nổi lên, nhưng trời vẫn đẹp và ánh nắng chan hòa trên gương mặt anh. Lần đầu tiên kể từ rất lâu rồi, Gaspard mỉm cười. Để chào mừng bản thân đã tới nơi, anh sẽ mở một chai Gevrey-Chambertin rồi tự rót cho mình một ly và vừa ung dung thưởng thức vừa…

Một tiếng động kéo anh ra khỏi trạng thái hạnh phúc tột đỉnh. Có ai đó trong ngôi nhà này. Có lẽ là người giúp việc hoặc một nhân viên phụ trách duy tu bảo dưỡng. Anh quay vào bên trong để kiểm tra xem sao.

Đúng lúc ấy anh trông thấy một phụ nữ đang đứng đối diện mình. Trên người cô không mặc gì ngoại trừ chiếc khăn tắm đang quấn quanh ngực và buông xuống ngang đùi.

– Cô là ai? Và cô đang làm gì trong nhà tôi vậy? anh hỏi.

Cô giận dữ nhìn anh.

– Đó chính xác là câu tôi định hỏi anh đây, cô đáp.

2

Lý thuyết 21 gram

Chúng ta thấy các nghệ sĩ lôi cuốn một phần chính là nhờ sự khác biệt của họ, sự chối từ chủ nghĩa xu thời, ngón giữa của họ giơ vào mặt xã hội.

Jesse KELLERMAN

1.

Thật lòng mà nói, tôi không chắc mình hiểu rõ điều cô đang trách cứ tôi, cô Green ạ.

Mái tóc nhuốm bạc và lưng hơi gù, Bernard Benedick tạo cảm giác đang đứng gác trước một bức tranh đơn sắc khổ lớn được trưng bày ở cuối phòng tranh của mình trên phố Faubourg-Saint-Honoré. Như thể vừa giảm cân, ông bơi trong chiếc áo cổ Tàu và chiếc vest đi rừng màu xanh ngải cứu. Cặp kính Le Corbusier to cộ che mất nửa mặt nhưng lại làm nổi bật đôi mắt tròn cùng ánh nhìn sắc sảo và linh hoạt của ông.

– Sàn bất động sản quảng cáo rõ điêu, Madeline cao giọng lặp lại. Trong đó chưa bao giờ đề cập đến chuyện đây là căn hộ thuê chung cả.

Ông chủ phòng tranh lắc đầu.

– Nhà của Sean Lorenz đâu có được đem cho thuê chung, ông cam đoan.

– Ông tự xem lại đi, Madeline tức tối chìa ra hai tờ giấy in: hợp đồng thuê của cô và hợp đồng thuê của gã Gaspard Coutances kia, giống nhau y đúc, gã đã cho cô xem, cái gã cô vừa mặt đối mặt cách đây một giờ khi vừa ở bồn tắm bước ra.

Ông chủ phòng tranh cầm giấy tờ rồi đọc lướt qua với vẻ chẳng hiểu mô tê gì sất.

– Quả thật, có vẻ như đã có nhầm lẫn, rốt cuộc ông đành phải thừa nhận trong lúc vặn vẹo cặp kính. Chắc chắn đây là một sai sót liên quan đến tin học, nhưng, thẳng thắn mà nói, tôi không biết gì nhiều về mấy thứ đó đâu. Việc đăng quảng cáo trên trang điện tử là do Nadia, một nữ thực tập sinh ở chỗ chúng tôi, phụ trách. Tôi sẽ thử liên lạc với cô ấy, nhưng đúng sáng nay cô ấy đã lên đường tới Chicago nghỉ lễ, thế nên…

– Tôi đã gửi phản hồi lên giao diện website và việc đó sẽ không giải quyết được vấn đề của tôi chứ gì, Madeline ngắt lời ông. Người đàn ông hiện đang ở trong ngôi nhà này đến từ Mỹ và anh ta không có ý định rời đi.

Gương mặt ông chủ phòng tranh thoắt trở nên u ám.

– Đáng lẽ mình không bao giờ nên cho thuê căn nhà này mới phải! Ngay cả khi đã nằm sâu dưới mộ thì Lorenz vẫn cứ tiếp tục khiến cuộc đời mình trở nên tệ hại! ông ca cẩm, trách giận bản thân.

Ông thở dài, vẻ bực bội.

– Cô biết sao không? ông nói giọng dứt khoát. Tôi sẽ hoàn tiền cho cô.

– Tôi không cần tiền. Tôi muốn làm theo đúng thỏa thuận: sống trong ngôi nhà này, một mình.

Madeline nhấn mạnh những lời này cùng lúc cảm thấy trong mình rung lên niềm tin phi lý rằng cô phải ở nơi đó.

– Trong trường hợp này, tôi sẽ hoàn tiền cho cái cậu Coutances kia. Cô có muốn tôi gọi cho cậu ta không?

– Ông sẽ không tin tôi đâu, nhưng anh ta không có điện thoại.

– Vậy thì cô chuyển lời đề nghị của tôi đến cậu ta nhé.

– Tôi mới chỉ gặp anh ta có năm phút thôi. Anh ta có vẻ không đơn giản đâu.

– Cô cũng vậy, cô cũng có vẻ chẳng đơn giản đâu, Benedick vặn lại rồi chìa cho cô một tấm danh thiếp. Lúc nào cô nói chuyện được với cậu ta thì hãy gọi cho tôi nhé. Và nếu cô muốn dạo một vòng quanh phòng tranh, việc này sẽ cho tôi chút thời gian viết cho cậu ta mấy dòng để xin lỗi và đề nghị bồi thường.

Madeline nhét mảnh giấy hình chữ nhật vào túi quần jean rồi quay gót mà không cảm ơn người tiếp chuyện mình, hồ nghi về hiệu quả lời nhắn ông chủ phòng tranh gửi cho gã Coutances kia, kẻ rõ ràng là một con gấu hung hăng và ngoan cố.

Lúc này là giờ ăn trưa. Vì không đông người nên Madeline tranh thủ ngó qua các bức tranh. Phòng tranh chuyên về nghệ thuật đô thị và đương đại. Trong căn phòng đầu tiên chỉ trưng bày những bức tranh khổ siêu lớn, tất cả đều mang tên Vô đề. Những bề mặt đơn sắc, những mặt phẳng với các gam màu u tối, bị đâm rạch nhiều nhát và đục lỗ bằng những cây đinh hoen gỉ. Trái lại, căn phòng thứ hai ngập tràn năng lượng và những màu sắc rực rỡ. Những tác phẩm được trưng bày đều nằm ở ranh giới giữa tranh phun sơn graffiti và thư pháp châu Á. Madeline quan sát chúng với vẻ hứng thú, nhưng không mảy may xúc động.

Dạng tranh này thường khiến cô tránh xa. Nói đúng ra, cô chưa từng cảm nhận được nghệ thuật đương đại. Giống như tất cả mọi người, cô đã đọc những bài báo và xem các phóng sự về thành công của nhiều nghệ sĩ hàng sao – chiếc đầu lâu nạm kim cương và những con vật được đông đặc trong phoóc môn của Damien Hirst, những con tôm hùm của Jeff Koons từng gây tranh cãi tại lâu đài Versailles, những tác phẩm kích động của Bansky, cây thông hình đồ chơi tình dục của Paul McCarthy bị phá hoại ở quảng trường Vendôme –, nhưng cô vẫn chưa tìm ra chiếc chìa khóa cho phép mình bước vào thế giới này. Tuy tâm trạng đầy hồ nghi nhưng cô vẫn bước vào căn phòng cuối cùng nơi giới thiệu các tác phẩm đủ thể loại. Đây chính là sự xằng xiên vĩ đại, cô nhận định đoạn nán lại, có phần miễn cưỡng, trước loạt tác phẩm điêu khắc trương phồng mang hình dáng dương vật với những màu sắc cường toan, rồi trước những nhân vật manga phiên bản khiêu dâm được đúc khuôn bằng chất liệu nhựa màu hồng. Cuộc triển lãm tiếp tục với hai bộ xương lớn bất động trong một tư thế Kamasutra quá khích, những tác phẩm điêu khắc hoành tráng bằng các miếng xếp hình Lego và một bức tượng người lai thú bằng đá cẩm thạch trắng với khuôn mặt và nửa thân trên của Kate Moss gắn với phần thân sau của sư tử. Xa hơn, phía cuối phòng, người ta trưng bày một bộ sưu tập vũ khí – súng trường, súng nòng loe, súng hỏa mai – được tạo nên bằng những vật liệu tái sinh: hộp cá mòi, bóng đèn đã qua sử dụng, dụng cụ nhà bếp bằng sắt hoặc gỗ được gắn với nhau bằng dây thép, băng dính cách điện và những mẩu dây mảnh.

– Cô thích chứ?

Madeline giật mình quay lại. Mải ngắm các tác phẩm, cô không nghe thấy tiếng chân của Bernard Benedick lại gần.

– Tôi không hiểu gì hết, nhưng trước tiên đây không phải thứ tôi khoái lắm.

– Vậy thứ cô “khoái” đúng ra là gì nhỉ? ông chủ phòng tranh hỏi vẻ thích thú, đoạn chìa cho cô một chiếc phong bì, cô nhét luôn nó vào túi quần jean.

– Matisse, Brancusi, Nicolas de Staël, Giacometti…

– Tôi sẵn lòng nhất trí với cô rằng ở đây chúng tôi không cùng trình độ thiên tài ấy, ông mỉm cười chỉ thẳng vào khu rừng sặc sỡ những dương vật đang cương cứng. Cô sẽ bật cười cho mà xem, nhưng đó chính là thứ tôi bán chạy nhất vào thời điểm này.

Madeline bĩu môi hoài nghi.

– Ở đây ông có tác phẩm của Sean Lorenz không?

Gương mặt Benedick cho tới lúc bấy giờ vẫn đang hơn hớn bỗng sắt lại.

– Không, khốn nỗi. Lorenz là nghệ sĩ sáng tác không nhiều. Đến giờ, hầu như không thể tìm ra tác phẩm của anh ấy và mỗi tác phẩm đều trị giá cả gia tài.

– Ông ấy qua đời chính xác khi nào?

– Cách đây một năm. Hưởng dương bốn mươi chín tuổi.

– Hơi yểu mệnh nhỉ.

Benedick đồng ý:

– Sức khỏe của Sean trước giờ vốn không được tốt. Suốt một thời gian dài, anh ấy gặp vấn đề về tim mạch và đã trải qua nhiều cuộc phẫu thuật bắc cầu động mạch vành.

– Ông là chủ ph?