← Quay lại trang sách

HỌA SĨ ĐIÊN Thứ Tư ngày 21 tháng Mười hai-5-Số phận nơi cuống họng

Cuộc đời đâu có tặng quà.

*Jacques BREL

Chú Thích

(1929-1978): nhạc sĩ, nhà thơ, đạo diễn người Bỉ sáng tác bằng tiếng Pháp.

1.

Đầu ong ong. Tim đập thình thịch và co thắt. Giấc ngủ không yên bỗng nhiên tan nát.

Tiếng cửa ra vào đóng sập lại khiến Gaspard giật mình và bứt anh ra khỏi cơn gà gật. Anh mất nhiều giây mới trồi lên được. Thoạt tiên, anh không biết mình đang ở đâu, rồi anh nhận ra thực tại đáng buồn: anh đã ngủ thiếp đi trên chiếc ghế bành Eames cũ kỹ của Sean Lorenz trong tư thế nằm nghiêng co ro. Chiếc áo phông anh mặc ướt sũng mồ hôi và dính chặt vào lớp da bọc ghế còn mặt anh tì vào tay vịn ghế. Anh khó nhọc đứng lên, dụi mắt, xoa xoa gáy và hai mạng sườn. Cảm giác đầu đau họng rát đang vô cùng tàn bạo: đầu đau như búa bổ, miệng đắng ngắt như vừa nếm xi măng, cảm giác nôn nao, các khớp xương cùn nhụt. Tình huống quen thuộc mà lần nào sau đó anh cũng thề sống thề chết sẽ không đụng đến một giọt rượu nào nữa. Nhưng anh biết quyết định này không được dứt khoát và ngay buổi trưa chắc anh sẽ muốn uống một ly.

Liếc nhìn đồng hồ đeo tay: 8 giờ sáng; liếc nhìn qua khung cửa kính rộng: bầu trời nhợt nhạt, nhưng không có mưa. Anh đoán Madeline vừa ra ngoài và hơi ngượng vì cô đã nhìn thấy anh trong tình trạng này. Anh lê lết tới tận phòng tắm, đứng dưới vòi sen mười lăm phút, uống chừng nửa lít nước âm ấm chảy trực tiếp từ vòi. Anh vớ lấy một chiếc khăn tắm quấn quanh hông rồi vừa bước ra khỏi khoang tắm vừa day day hai thái dương.

Con đau nửa đầu đang nặng thêm, ngoan cố cào cấu xương sọ anh. Anh cần gấp hai viên ibuprofen. Anh lục lọi trong túi du lịch, nhưng không tìm thấy thứ gì ít nhiều giống với một loại thuốc. Sau giây lát ngập ngừng, anh leo lên gác nơi Madeline ở, tia thấy túi đựng đồ cá nhân của cô rồi bắt tay vào tìm kiếm thứ anh cần. Thật may là một số người được sắp đặt dành cho những người khác.

Sau khi uống hai viên giảm đau Advil, anh về phòng mình và xỏ vào người bộ quần áo hôm qua trước khi quay ra bếp tìm một gói cà phê đen. Quả là có một bình pha cà phê nhưng lại chẳng có gì để tiếp liệu cho nó. Anh đã mở tất cả các ngăn tủ bếp nhưng vô ích, chẳng có gói cà phê nào chờ sẵn anh cả, nên rốt cuộc anh đành cam chịu chuẩn bị một bát xúp gà rồi ra sân hiên ngồi ăn. Thoạt tiên, không khí mát lành khiến anh cảm thấy dễ chịu trước khi buộc anh phải rút lui vào phòng khách cho ấm áp. Ở đó anh đã lục trong kệ đĩa hát để tìm lại những đĩa nhạc mà Pauline đã nói với anh ngày hôm qua. Những đĩa nhạc Sean Lorenz nghe đi nghe lại suốt nhiều ngày trước khi ông qua đời.

Chiếc đĩa than đầu tiên là một tuyển tập mà bất cứ kệ đĩa hát cổ điển nào cũng ắt phải có: Bản Giao hưởng số 5 của Beethoven, chỉ huy dàn nhạc Carlos Kleiber. Trên mặt sau của vỏ đĩa, một nhà nghiên cứu âm nhạc nhắc lại ý chí đã khích lệ nhà soạn nhạc suốt cả cuộc đời “nắm bắt số phận nơi cuống họng”. Thực ra, Bản giao hưởng số 5 hoàn toàn được xoay chuyển theo hướng sự đối mặt của con người với số phận của mình. “Số phận đang gõ cửa như thế”, Beethoven thường nói để tượng trưng hóa hiệu quả của bốn nốt nhạc mở đầu bản giao hưởng của mình.

Bản ghi âm thứ hai đậm chất thập niên 1980: một hộp đựng hai chiếc đĩa than hiệu Máy hát Đức của Bản giao hưởng số 2 của Gustav Mahler, chỉ huy dàn nhạc Leonard Bernstein. Với các ngôi sao khách mời Barbara Hendricks và Christa Ludwig. Bản giao hưởng thứ hai mang tên “Phục sinh” của nhà soạn nhạc người Áo đối với Gaspard không mấy quen thuộc. Nhờ đọc tập giới thiệu nhỏ mà anh hiểu rằng đây là một tác phẩm tôn giáo, bấy giờ Mahler vừa mới cải đạo Cơ Đốc. Tác phẩm này ca ngợi những chủ đề về cuộc sống vĩnh hằng và sự hồi sinh của những xác chết. Những chú thích của tập giới thiệu kia khép lại bằng lời của Leonard Bernstein: “Âm nhạc của Mahler gợi lên quá đỗi chân thực những hoang mang của chúng ta liên quan tới sự sống và cái chết. Thứ âm nhạc này quá đỗi chân thực, nó nói lên những điều thật đáng sợ khi phải nghe.”

Những điều thật đáng sợ khi phải nghe…

Gaspard gãi đầu. Tại sao Lorenz, người cực kỳ hâm mộ thể loại jazz và âm nhạc tối giản, lúc cuối đời lại đam mê hai bản giao hưởng đồ sộ này nhỉ?

Anh đổ phần còn lại của thứ nước dùng âm ấm kia vào bồn rửa rồi ngồi vào bàn phòng khách với quyển sổ gáy xoắn và cây bút để suy nghĩ về việc viết vở kịch của mình. Anh khó lòng tập trung nổi. Anh đã trải qua một đêm kỳ lạ, hầu như lơ lửng, bồng bềnh trôi nổi trong những giấc mơ giữa những cảnh sắc tựa ảo giác được xăm trên cơ thể bị trói chặt của cô hàng xóm xinh đẹp. Một hình ảnh không bạo lực, nhưng khiến người ta phát lo.

Trong khoảng hai chục phút, anh khiến được bản thân tin rằng mình sắp làm việc, nhưng ảo tưởng này không kéo dài bao lâu. Anh vẫn luôn có cảm giác là bức chân dung khổ lớn của Lorenz đang nhìn anh, vẫy gọi anh, phán xét anh.

Sau một hồi, không chịu nổi nữa, Gaspard đứng dậy rồi ra đứng trước bức tường có treo ảnh. Lúc này anh đã hiểu ra rằng thứ khiến anh thấy phiền không phải là bức ảnh chụp họa sĩ. Mà là những bức ảnh chụp cậu nhóc.

Cậu nhóc đã qua đời… thế mà lại đầy ắp niềm vui và sức sống trên những bức ảnh tráng bạc.

Khỉ thật! Chính cô nàng Madeline Greene kia khi chia sẻ với anh về tình trạng bất ổn của mình đã khiến nó lây cả sang anh!

Anh thở dài, đoạn buông mình xuống sofa. Trong cái chai để trên mặt bàn thấp trước mặt anh, ánh phản chiếu sắc hổ phách của rượu whisky đã nháy mắt hòng quyến rũ anh, nhưng anh cưỡng lại cám dỗ. Anh chăm chú quan sát suốt nhiều phút liền một bức ảnh chụp lấy ngay trong đó người ta nhìn thấy cậu nhóc Julian đang cưỡi lên một con ngựa gỗ kiểu cổ, oai vệ nắm lấy thanh ngang. Đối diện với vòng đua ngựa gỗ, người ta nhận thấy bóng dáng ân cần của Sean Lorenz, đôi mắt dõi nhìn con trai mình. Gaspard lục túi quần jean để rút từ trong đó ra chiếc ví. Trong ngăn nhỏ của phần nắp lật, anh tìm thấy một bức ảnh cũ đã phai màu mà anh đã không còn nhìn ngắm từ nhiều năm qua: anh lúc ba tuổi, cùng với cha anh, trên một trong những con vật của vòng quay Garnier ở vườn Luxembourg. Bức ảnh được chụp năm 1977. Giữa hai bức ảnh này có ngót bốn chục năm chia cách. Tuy không cùng một thời điểm, nhưng vẫn là vòng quay ngựa gỗ đó, vẫn là thứ ánh sáng đó lấp lánh trong mắt những cậu bé và vẫn niềm hãnh diện đó nhuốm trong ánh mắt những người cha.

2.

Madeline đỗ chiếc xe tay ga ở góc đại lộ Montparnasse giao phố Sèvres. Còn chưa đến 9 giờ sáng, thế mà bầu không khí đã tràn ngập một dạng hơi ẩm dính dáp. Khi cởi găng tay và khăn quàng ra, cô mới nhận thấy mình đang mướt mồ hôi.

Cứ nói ta đang ở giữa mùa đông đi…

Nhưng buổi sáng nay có điều gì đó còn đáng lo ngại hơn là sự nóng lên của khí hậu: không tài nào nhận ra khu phố nữa. Cuộc biểu tình hôm qua đã tàn phá và hủy hoại mọi thứ, những nhà chờ xe buýt, những quầy kính cửa hàng, những biển báo giao thông. Trên vỉa hè và lòng đường là vô số mảnh kính vỡ, gạch lát, những mảng nhựa đường bị bửa ra. Một quang cảnh chiến tranh, siêu thực, mà cô không bao giờ nghĩ lại trông thấy tại Paris. Và, khắp nơi, hàng trăm lời lẽ thể hiện cơn thịnh nộ khiến mọi thứ biến dạng: Mọi người đều ghét cảnh sát/ Tao tư duy nên tao đập vỡ/ Từ tro tàn, mọi thứ trở nên khả dĩ/ Tư bản giãy chết/ Chiến thắng nhờ hỗn loạn/ Bọn tao ỉa vào luật lệ của tụi bay.

Thái độ của những người qua đường khiến cô chưng hửng. Một vài người cũng giống như cô, sững sờ như bị thôi miên, những người khác thì dửng dưng, những người khác nữa thì mỉm cười giễu cợt, dừng chân để chụp những bức ảnh tự sướng. Ngay đến bức tường cổng chính của Viện Thanh niên Khiếm thị Quốc gia cũng bị hư hại và viết bậy những câu hằn học. Cảnh tượng tan hoang này khiến cô muốn khóc. Trong đất nước này đang xảy ra điều gì đó mà cô không còn hiểu nổi nữa.

Khi tới trước trung tâm y tế nơi cô có cuộc hẹn, Madeline phát hiện ra rằng những ô cửa kính của nó cũng đã bị vỡ tan tành. Một nam công nhân đang thu dọn một tấm gỗ kê hàng trước đó vốn được dùng làm đạn phóng nhằm phá phách mặt tiền nhà. Trong khi Madeline đang lưỡng lự muốn thoái lui, người đàn ông đã hiểu ra sự bối rối của cô nên chỉ cho cô thấy một tấm biển chỉ dẫn tạm thời ghi rõ rằng cơ sở vẫn mở cửa bất chấp những sự cố vừa qua.

Cô bước vào đại sảnh rồi xưng tên mình ở quầy lễ tân. Vì đến sớm để lấy máu, thậm chí cô đã tránh được phòng chờ và chỉ mất ba phút việc lấy máu đã xong xuôi: kim tiêm, ống nghiệm chuyển sang màu đỏ, một mảnh bông băng ở hõm cánh tay. Rồi người ta đề nghị cô đi thang máy lên tầng ba chuyên khoa Siêu âm và chẩn đoán hình ảnh.

Trong khi người ta chụp chiếu cho Madeline, cô nhớ tới cuộc trò chuyện sôi nổi tối qua cùng Coutances. Tuy nhà soạn kịch đã ghi nhận đúng, nhưng anh ta đã nhầm khi nhẫn nhục cam chịu và theo đuổi hư vô chủ nghĩa. Bởi sẽ luôn có những người phản kháng, chiến đấu chống lại bạo lực xã hội và không cam chịu những thảm họa đã được báo trước. Và con cô sẽ là một trong số đó.

Rốt cuộc, nói như thế là hơi vội, vì cô còn chưa cấn thai.

Nhưng bốn tháng trước, trong đợt đi nghỉ ở Tây Ban Nha, cô đã mạnh dạn vượt qua chính mình và tìm tới một bệnh viện tư chuyên điều trị hiếm muộn tại Madrid. Chẳng bao lâu nữa cô sẽ bước sang tuổi bốn mươi mà tìm mỏi mắt vẫn không thấy bóng dáng mối quan hệ nghiêm túc nào hết. Ngay cả khi những tổn thất còn có thể tệ hại hơn, không thể chối cãi là cơ thể cô đang già đi. Và nhất là, trái tim cô chẳng còn sức lực để yêu nữa.

Nếu một ngày nào đó Madeline muốn sinh con, cô chỉ còn một quân bài duy nhất để chơi. Vậy nên cô đã điền một bộ hồ sơ, gặp một bác sĩ, thực hiện những phân tích để tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm. Cụ thể mà nói, điều này có nghĩa là người ta sẽ chiết trứng của cô rồi thụ tinh cho chúng bằng tinh trùng của một người hiến vô danh. Dĩ nhiên đây không phải điều mà cô hằng mơ ước, nhưng cô đã trung thành với kế hoạch này bằng toàn bộ sức lực và niềm hào hứng. Để có một đứa con, cô sẽ chịu đựng một khổ hình thường nhật. Trước tiên là một đợt điều trị hoóc môn bắt buộc: mỗi tối, cô tự tiêm vào bụng dưới mình một liều hoóc môn nhằm kích thích nang trứng. Rồi cứ hai ngày một lần, cô đi lấy máu và siêu âm để kiểm tra sự tiến triển về số lượng và kích thước các nang. Rồi cô phải tự mình thông báo kết quả cho người của bệnh viện bên Tây Ban Nha qua điện thoại.

Đợt điều trị này khiến cô kiệt sức. Bụng cô trướng lên, ngực căng, hai chân nặng đến cả tấn và cơn đau nửa đầu cùng tình trạng dễ nổi cáu không mấy khi cho phép cô nghỉ ngơi.

Căn phòng tối om. Trong khi bác sĩ di chuyển đầu dò siêu âm trong phần bụng dưới của cô, Madeline nhắm mắt lại. Cô tự thuyết phục bản thân rằng mình đã quyết định đúng. Cô sắp có một đứa con để neo đậu lại cuộc đời này. Suốt một thời gian quá dài, trong quá trình làm nghề, cô đã điều tra về những cái chết, nhưng những người quá cố luôn kéo bạn vào bóng tối của họ. Rồi cô đã dâng hiến mọi thứ vì tình yêu của một người đàn ông. Nhưng tình yêu của con người vốn nhiều biến động, mong manh và dễ đổi thay. Để tự tiếp thêm can đảm cho mình, cô nhớ lại những lời vĩnh biệt của một người khá quan trọng với cô: Danny Doyle, mối tình đầu của cô thời trung học, sau đó trở thành một trong những ông trùm đạo tặc của Manchester, đã đi theo một quỹ đạo đối lập với quỹ đạo của cô. Danny Doyle mà cô đã đương đầu, sau khi trở thành cảnh sát, nhưng cũng là người không bao giờ ngừng dõi theo cô từ xa.

Tôi biết nỗi sợ đã hình thành trong em. Tôi biết hằng đêm em đều ngủ không yên giấc, chiêm bao đầy những bóng ma, xác chết và quỷ dữ. Tôi biết quyết tâm của em, nhưng cũng biết phần bóng tối và phần tự hủy hoại bản thân mà em mang trong mình. Em đã sẵn có nó khi chúng ta gặp nhau ở trường trung học và diễn biến mọi việc chỉ làm khuếch đại nó lên. Em đang bước đi bên cạnh cuộc đời mình, Maddie. Em cần phải ra khỏi vòng xoáy trôn ốc này trước khi ngã xuống một vực thẳm nơi em sẽ không còn trở lên được nữa. Tôi không muốn em sống cuộc sống như thế này. Tôi không muốn em đi theo con đường nơi tôi đã lạc lối: con đường tiến sâu vào bóng tối, bạo lực, đau khổ và chết chóc…

Cuộc đời không ban tặng nhiều cơ hội. Những cơ hội mất đi rồi sẽ mãi mãi mất đi. Cuộc đời đâu có tặng quà. Cuộc đời là một trục lăn, một bạo chúa cai trị vương quốc của riêng mình bằng cách cho nỗi khiếp sợ ngự trị ở đó nhờ vào cánh tay thép: Thời gian. Và cuối cùng Thời gian luôn chiến thắng. Thời gian là kẻ hủy diệt vĩ đại nhất trong lịch sử. Kẻ hủy diệt mà không cảnh sát nào có thể giam nhốt lại.

3.

Gaspard đứng dậy khỏi sofa. Một chiếc điện thoại di động – dĩ nhiên là do Madeline để quên – vừa bắt đầu rung lên trên quầy bếp. Vì luôn từ chối sở hữu một trong những cái máy tương tự thế này, anh nhìn nó trong giây lát với vẻ hồ nghi, nhưng dẫu sao anh vẫn quyết định cầm chiếc điện thoại lên. Là Madeline. Anh đã lên tiếng để trả lời cô, nhưng lại sơ ý làm gián đoạn cuộc trò chuyện vì sượt qua màn hình nhầm chỗ.

Anh buột ra một câu chửi thề rồi nhét điện thoại vào túi quần.

Anh thở dài. Cơn đau nửa đầu của anh đã dịu bớt nhưng tâm trí anh vẫn còn xáo trộn. Thêm cả nỗi đau khổ khi phải trì hoãn nữa: anh cần cà phê! Và không chỉ một tách.

Anh vớ lấy một trong những chai vang thượng thặng đã mua hôm qua rồi rời khỏi nhà để đi gặp cô hàng xóm dễ ưa.

Lần này, Pauline Delatour trả lời ngay từ hồi chuông đầu tiên. Như thể bấy giờ đang là mùa xuân, cô lại mặc một bộ đồ mỏng nhẹ: quần soóc jean tua rua và áo sơ mi kiểu lính chất liệu kaki phanh cúc để lộ áo ba lỗ mặc trong.

– Một chai Pinot Noir đổi lấy một ly đúp expresso nhé? anh đề xuất đoạn giơ cái chai lên lắc lắc.

Cô mỉm cười và khoát tay mời anh vào.

4.

Sau khi thăm khám, Madeline đã tìm ra nơi nương náu tại phố Faubourg-Saint-Honoré trong không gian tiện nghi khiến người ta yên lòng của nhà hàng Caravella, nhà hàng Ý mà Bernard Benedick đã giới thiệu cho cô. Lấy máu thì cần nhịn ăn nên từ hôm qua tới giờ cô vẫn chưa có gì bỏ bụng và đầu cô bắt đầu quay quay. Cô gọi một tách cà phê sữa cùng vài chiếc bánh quy rồi toan gọi cho bệnh viện chuyên điều trị hiếm muộn thì bỗng nhận ra là mình đã bỏ quên điện thoại ở phố Cherche-Midi.

Chỉ còn thiếu mỗi nước đó thôi! cô cáu kỉnh đập tay xuống bàn.

– Cô đang lo lắng chuyện gì chăng? người phục vụ hỏi trong lúc mang bữa sáng ra cho cô.

Cô nhận ra Grégory, anh chàng chủ quán trẻ tuổi mà hôm qua ông chủ phòng tranh đã giới thiệu với cô.

– Tôi để quên điện thoại di động mà lại đang cần gọi một cuộc quan trọng.

– Cô dùng tạm điện thoại của tôi nhé? anh chàng đề nghị rồi rút từ túi quần ra một chiếc điện thoại có phần ốp lưng in hình cờ của đội AC Milan.

– Cảm ơn, anh thật tử tế!

Cô gọi cho bệnh viện tại Madrid rồi yêu cầu được nói chuyện với Louisa. Ở bộ phận điều phối của bệnh viện, cô đã ăn ý với nữ y tá có anh trai cũng làm cảnh sát này. Cô đã thuộc giờ giấc làm việc của Louisa, và nếu cần thì có thể gọi trực tiếp vào điện thoại di động của cô ấy để tránh việc một nửa xứ Castille biết về kích thước buồng trứng của cô. Louisa ghi lại kết quả rồi chuyển tới một bác sĩ, vị này sẽ đánh giá phản ứng của buồng trứng và nếu cần sẽ thay đổi liều lượng hoóc môn cần tiêm. Dĩ nhiên, còn lâu mới được như bác sĩ gia đình. Chúng ta đang trong một nền y khoa 2.0, được toàn cầu hóa, Uber hóa, giá hơi thấp và có phần buồn tẻ. Nhưng nếu cần phải vượt qua ngưỡng đó để có một đứa con thì cô vẫn sẵn lòng.

Madeline tranh thủ mượn luôn điện thoại của Grégory để gọi vào số của mình. May sao Coutances đã bắt máy:

– Gaspard à, anh đang ở đâu vậy? Anh có thể mang điện thoại đến cho tôi được không?

Anh chàng kịch tác gia lẩm bẩm vài câu không thể hiểu nổi rồi bỗng dưng đường truyền bị ngắt. Hiểu rằng cô có tiếp tục gọi cũng chẳng ích gì, Madeline đành nhắn một tin SMS: Anh có thể mang điện thoại đến cho tôi được không? Nếu được, hẹn anh trưa nay tại nhà hàng Le Grand Café trên phố Delambre. Cảm ơn anh. Maddie.

Vì tách cà phê của cô đã nguội, Madeline gọi một tách khác rồi uống liền một hơi cạn sạch. Đêm qua cô ngủ rất chập chờn. Những bức tranh đẹp mê hồn của Lorenz đã giăng kín trong giấc ngủ của cô. Cả đêm, cô du hành trong cõi mộng với những chân trời rực rỡ sắc màu, những khu rừng nhục cảm với những dây leo sống động, những vách đá khiến người ta chóng mặt, những thành phố được quét qua bởi một làn gió nóng ran. Khi thức giấc, cô không thể nói liệu chuyến lang thang dài ấy giống với giấc mơ đẹp hay cơn ác mộng. Nhưng cô bắt đầu hiểu rằng mấu chốt tác phẩm của Sean Lorenz nằm chính trong tính hai mặt này.

Cô nhìn thấy Bernard Benedick đang mở cánh cửa nhôm cuốn ở vỉa hè đối diện. Cô gõ vào cửa kính quán cà phê để báo hiệu cho ông biết sự hiện diện của mình, và đúng như cô hy vọng, ông chủ phòng tranh liền lập tức tới gặp cô.

– Tôi chắc chắn sẽ gặp lại cô mà! ông đắc chí thốt lên, đoạn ngồi xuống ghế đối diện cô. Người ta không cưỡng nổi hội họa của Sean Lorenz, phải không nào?

Madeline đáp lại bằng một lời trách cứ:

– Thế mà ông chẳng nói cho tôi biết là con trai của Lorenz đã bị sát hại.

– Đúng thế, ông thừa nhận bằng giọng đều đều không cảm xúc, nhưng đó là bởi tôi ghét phải nhắc tới chuyện ấy. Julian là con trai đỡ đầu của tôi mà. Thảm kịch ấy đã hủy hoại tất cả chúng tôi.

– Chính xác thì đã xảy ra chuyện gì vậy?

– Mọi chuyện đều đã được viết ra trên các mặt báo hết rồi, ông nói khẽ.

– Vừa hay. Những gì được viết ra trên các mặt báo thường hiếm khi là sự thật.

Benedick tán thưởng lý lẽ này bằng một cái gật đầu.

– Để hiểu rõ sự việc hơn, ông thở dài, cần phải ngược dòng thời gian lâu thật lâu. Thậm chí là cực kỳ lâu đấy…

Ông giơ cao cánh tay để tới lượt mình cũng gọi một tách cà phê và tự tiếp thêm can đảm.

– Tôi đã giải thích với cô rồi: ngay sau khi gặp gỡ Sean, tôi đã huy động toàn bộ mạng lưới của riêng mình để giới thiệu và hé lộ tác phẩm của ông ấy với công chúng. Sean vốn có nhiều tham vọng và khao khát được gặp gỡ. Tôi đã giúp anh ấy liên hệ với những nhân vật hết sức khác biệt tại London, Berlin, Hong Kong… Nhưng có một nơi anh ấy không bao giờ muốn đặt chân tới: New York.

– Tôi không hiểu.

– Mỗi lần tôi đề nghị Sean gặp gỡ các nhà sưu tầm tại Manhattan, anh ấy đều lẩn tránh, Benedick giải thích. Điều này nghe thì có vẻ khó tin, nhưng từ năm 1992 đến cái năm 2014 bi thảm đó, Sean Lorenz chưa từng quay trở lại thành phố quê hương mình.

– Vẫn còn gia đình ông ấy ở đó chứ?

– Chỉ có mẹ anh ấy thôi, nhưng anh ấy đã đưa bà cụ tới Paris từ cuối thập niên 1990. Hồi đó bà cụ đã rất ốm yếu và ít lâu sau thì bà cụ mất.

Benedick nhúng một lát bánh *crostini vào tách cà phê của mình.

Chú Thích

Bánh mì dùng kèm phô mai và rau tùy chọn.

– Sau một thời gian, vì bị tôi gặng hỏi suốt, Sean đã không còn cách nào khác là hé lộ cho tôi biết vài mẩu sự thật.

– Chuyện này bắt nguồn từ những hoàn cảnh khiến ông ấy ra đi chăng? Madeline hỏi.

Ông chủ phòng tranh gật đầu xác nhận.

– Mùa thu năm 1992, sau “mùa hè tình yêu” của anh ấy với Pénélope, Sean còn lại một mình ở New York. Anh ấy suy sụp và không có mục đích nào khác ngoài việc tìm đường sang Paris để gặp lại cô gái kia. Điểm mấu chốt, đó là trong túi anh ấy không có lấy một xu. Để kiếm tiền mua vé máy bay, anh ấy bắt đầu phạm những vụ ăn cắp vặt với sự đồng lõa của LadyBird.

– Nhân tố nữ của nhóm “Thợ pháo hoa”, Madeline nhớ lại.

– Tên thật là Beatriz Muñoz. Đó là con gái một cặp vợ chồng dân nhập cư gốc Chile lao động cực nhọc trong các nhà máy khu Bắc Bronx. Một người đàn bà kỳ lạ, khép kín, hoang dại, gần như tự kỷ, bị giam trong hình thể một đô vật. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, cô ta yêu Sean và sẵn sàng gieo mình qua cửa sổ nếu anh ấy bảo cô ta làm vậy.

– Ông nghĩ là ông ấy đã lợi dụng điều này chăng?

– Thành thực mà nói, tôi không rõ. Sean là một thiên tài, vậy nên theo định nghĩa cũng là một kẻ rầy rà, một gã sống phức tạp, nhưng không thể nào là một gã tồi được. Anh ấy manh động, nóng nảy, ám ảnh nhiều thứ, nhưng tôi chưa từng thấy anh ấy khinh bỉ những kẻ yếu ớt nhất. Tôi nghĩ là, trong suốt những năm tháng ấy, vì không muốn Beatriz phải buồn lòng, Sean đã không cự tuyệt cô ta.

– Nhưng Pénélope đã khiến mọi chuyện đảo lộn.

– Chắc chắn rồi. Muñoz hẳn đã tuyệt vọng khi biết được kế hoạch tới Pháp của Sean, nhưng dẫu sao cô ta vẫn giúp anh ấy kiếm tiền bằng cách cướp các cửa hàng tạp hóa.

Con người cảnh sát trong Madeline lại thắng thế.

– Thế mà ông gọi là những “vụ ăn cắp vặt” ư? Với tôi đó là cướp có vũ trang đấy.

– Cô thôi đi! Vũ khí duy nhất của họ, đó là những khẩu súng phun nước và mặt nạ cao su hình Mario và Luigi!

Madeline không buông tha:

– Vũ khí có là đồ giả hay không thì một vụ cướp vũ trang vẫn cứ là một vụ cướp vũ trang, và kinh nghiệm cá nhân của tôi cho thấy mấy vụ này thường hiếm khi kết thúc có hậu.

– Bản thân tôi còn nghĩ rằng “chuyện này đã không kết thúc có hậu cho lắm” chỉ là một lối nói uyển ngữ, Benedick thừa nhận. Một buổi tối, tại Chinatown, một chủ tiệm tạp hóa đã không đang tâm để mình bị cướp. Ông ta đã rút từ sau quầy ra một khẩu súng rồi nã đạn. Trong khi Sean chạy thoát với số tiền cướp được, Beatriz bị trúng một phát đạn vào lưng rồi ngã gục trong cửa tiệm.

Madeline ngồi thụt sâu vào trong lòng ghế. Benedick tiếp tục bằng giọng cam chịu:

– Khi cảnh sát bắt giữ người phụ nữ Chile, họ liền có ngay một hồ sơ dày cả tấc để chống lại cô ta.

– Các video giám sát về những vụ cướp có vũ khí trước đó, cựu điều tra viên phỏng đoán.

– Đúng thế. Đó là cửa hàng thứ tư họ tấn công nội trong tháng đó. Những chiếc mặt nạ hình thợ sửa ống nước để ria mép của họ bị nhận diện trên mọi cuốn băng. Đó là thứ đã phản thùng họ thay vì bảo vệ danh tính cho họ. Rủi thay cho Beatriz Muñoz là cô ta từng bị bắt nhiều lần vì vụ vẽ graffiti. Cô ta có nhiều tiền án tiền sự. Đối với cảnh sát và ngài biện lý, đó là giải xổ số, và họ vui vẻ trao giải cho nhau thôi. Hệ thống tư pháp Mỹ là vậy đó: mạnh với những kẻ yếu, yếu với những kẻ mạnh.

– Bà ta đã không khai tên Sean trong các cuộc hỏi cung ư?

– Không đời nào. Người đàn bà bất hạnh đã bị tuyên án tám năm tù giam và chịu thêm bốn năm nữa vì mưu toan vượt ngục và những vụ bạo lực liên tiếp với các bạn tù.

– Sean chưa từng tự thú sao?

Benedick nở nụ cười bồn chồn.

– Beatriz bị bắt ngày hôm trước thì hôm sau ông ấy đã đáp một chuyến bay để tới Paris gặp Pénélope rồi. Quan điểm của Sean rất đơn giản: anh ấy không cảm thấy mình phải chịu ơn Beatriz, bởi lẽ anh ấy chưa từng đòi hỏi cô ta điều gì. Cô ta bao che cho anh ấy, nhưng đó là lựa chọn của bản thân cô ta.

– Vậy là ông ấy đã cắt đứt mọi liên hệ với bạn bè thuở nhỏ sao?

– Hoàn toàn.

– Và ông nghĩ rằng chính vì nguyên do này mà ông ấy không bao giờ muốn quay trở lại New York?

– Chuyện này có vẻ hiển nhiên mà, không phải sao? Anh ấy lờ mờ cảm thấy thành phố này đại diện cho một mối nguy hiểm. Và anh ấy đã đúng. Năm 2004, khi Beatriz Muñoz ra tù, cô ta đã trở thành một người kiệt quệ. Cả thể chất lẫn tinh thần. Cô ta đã làm hết việc vặt này đến việc vặt nọ và đã thử bắt đầu vẽ lại, nhưng cô ta không có mạng lưới, không có chủ phòng tranh, không có thị giá. Nói thật với cô, tuy không cho Sean biết chuyện này đâu, nhưng tôi đã mua một vài bức tranh của cô ta thông qua trung gian là một trung tâm bảo trợ xã hội của Harlem. Nếu cô muốn, tôi sẽ cho cô xem những bức tranh cô ta vẽ. Hội họa của cô ta thời kỳ sau khi ở tù ra tựa như xác ướp, mất hết sinh khí, thật đáng sợ.

– Bà ta biết Sean đã trở nên như thế nào rồi chứ?

Benedick nhún vai.

– Làm sao cô muốn sự thể khác đi được? Thời buổi bây giờ, chỉ cần gõ một cái tên trên công cụ tìm kiếm là đủ để khám phá ra phần lớn cuộc đời anh ấy. Beatriz biết phiên bản “giấy láng” của Lorenz: người họa sĩ thành công trở thành triệu phú, kết hôn với một người mẫu và là cha của một cậu nhóc đáng yêu. Và hình ảnh đó khiến cô ta phát điên.

– Chính xác thì đã xảy ra chuyện gì?

– Năm 2013, bên Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại MoMA đã liên hệ với Sean. Họ muốn năm sau đó sẽ tổ chức cuộc triển lãm lớn đầu tiên về sự nghiệp của anh ấy ở Mỹ. Sean có không muốn quay trở lại New York cũng vô ích, người ta đâu có từ chối MoMA bao giờ. Vậy nên tháng Mười hai năm 2014, anh ấy cùng vợ con bay sang New York để khai mạc triển lãm và trả lời vài cuộc phỏng vấn. Anh ấy dự định chỉ ở lại đó một tuần, nhưng thảm kịch đã diễn ra trong đúng khoảng thời gian ấy.

5.

Chỉ riêng mỗi Pauline Delatour cũng đã làm nên cả một buổi diễn chừng nào cô nỗ lực thể hiện vẻ gợi cảm trong từng động tác cử chỉ của bản thân: vén một lọn tóc ra sau tai, một động tác vắt chân, một cái đá lưỡi thật nhanh để liếm một giọt cà phê còn vương nơi khóe môi. Nhưng không điều gì ở cô lẳng lơ hay khêu gợi một cách thẳng thừng. Giống như một cô lính biên phòng thanh nhã, cô có một cách thức vui tươi để đánh thúc dục vọng gắn liền với một dạng ngợi ca sự sống và tuổi thanh xuân hoan hỉ của mình. Gaspard đã không buộc mình phải đáp lại sự bông lơn của cô, nhưng sau hai tách cà phê, anh đã lại hướng cuộc trò chuyện về điều duy nhất thực sự khiến anh quan tâm: Sean Lorenz. Và anh càng khó lòng kìm nén sự tò mò của mình hơn khi Pauline vừa thú nhận với anh rằng cô chính là người trông trẻ cho gia đình Lorenz trong chuyến đi của họ tới New York vào mùa đông năm 2014.

– Tôi đã trải nghiệm thảm kịch đó với tư cách người trong cuộc và hai năm sau, tôi vẫn còn gặp ác mộng về chuyện đó, cô tuyên bố. Quãng thời gian ấy, tôi thường trông nom Julian gần như suốt cả ngày. Sean bận từ sáng tới tối cho cuộc triển lãm ở MoMA. Pénélope thì vẫn duy trì nếp sống dễ chịu quen thuộc: shopping, làm móng, xông hơi…

– Họ đã ở đâu?

– Trong phòng khách sạn dạng căn hộ hạng sang tại Bridge Club, một khách sạn sang trọng thuộc khu TriBeCa.

Pauline mở cửa sổ bếp rồi ngồi lên bậu cửa trước khi châm một điếu thuốc.

– Cái ngày mọi chuyện diễn ra, Pénélope đã định đi mua sắm ở tiệm Dean et Deluca rồi ăn trưa tại ABC Kitchen, một nhà hàng gần Union Square. Đáng lẽ bà ta dẫn con trai theo cùng để mua quần áo cho cậu nhóc nhưng vào phút chót, bà ta lại hỏi xem tôi có thể trông Julian không.

Pauline rít một hơi thuốc. Trong vài giây, niềm vui sống của cô nhường chỗ cho một sự căng thẳng mà cô không tìm cách che giấu.

– Đó là ngày nghỉ của tôi. Vì đã có kế hoạch riêng nên tôi từ chối lời đề nghị. Bà ta đã trả lời tôi rằng không sao hết và bà ta sẽ dẫn Julian đi cùng. Nhưng sự thực, đó là bà ta chưa từng tới Greenwich Village hay Union Square. Bà ta đã đi gặp người tình ở đầu kia thành phố, mạn Bắc khu phía Thượng Manhattan, trong một khách sạn nằm trên đại lộ Amsterdam.

– Người tình đó là ai vậy?

– Philippe Careya, một nhà đầu tư bất động sản người Nice thường thực hiện các thương vụ giữa Côte d’Azur và Miami. Một gã có phần ngựa chứng từng là mối tình đầu của Pénélope thời trung học.

– Gã ta làm cái quái gì ở New York vậy?

– Pénélope đã thuyết phục gã đi theo mình. Hồi đó bà ta cảm thấy mình bị Sean bỏ rơi.

– Lorenz biết mình bị vợ cắm sừng chứ?

Pauline thở dài.

– Thực lòng mà nói, tôi không rõ. Vợ chồng họ hơi có phần giống với Ca khúc của những người tình cũ, anh thấy đấy. Kiểu quan hệ cần phải có xung đột và nóng bỏng thì mới nở rộ được. Tôi chưa bao giờ thực sự hiểu được bản chất của mối liên hệ đã kết nối họ với nhau. Ai lấn lướt ai, ai chi phối ai, ai bị ai cầm tù…

– Có với nhau một đứa con không giúp họ nguôi ngoai ư?

Cô nhún vai.

– Một đứa trẻ hiếm khi giảng hòa cho các cặp đôi lắm.

– Còn Sean, ông ấy có lừa dối vợ không?

– Tôi không biết.

Gaspard hỏi rõ hơn:

– Sean có lừa dối vợ bằng cách ngoại tình với cô không?

Pauline đẩy lại anh vào thế khó:

– Gã đàn ông thịt luôn cô giữ trẻ, đó là một kịch bản phim cấp ba dở tệ, không phải vậy sao?

Một thoáng im lặng. Rồi trái ngược với mọi mong đợi, Pauline chơi bài ngửa:

– Thực lòng mà nói, có thử làm vậy thì cũng không sai, nhưng chẳng hề có chuyện đó đâu.

Gaspard đứng dậy, và được sự cho phép của chủ nhà, anh tự rót cho mình một tách cà phê nữa.

– Thế thì vào cái ngày hôm đó, ở New York đã xảy ra chuyện gì vậy?

– Đầu giờ tối, khi thấy Pénélope không về và cũng không liên lạc gì, Sean đã bắt đầu lo lắng, nhưng ông ấy không báo cảnh sát ngay. Vợ ông ấy không thể liên lạc được vì lý do chính đáng là bà ta đã để quên điện thoại di động ở khách sạn. Nhiều giờ trôi qua và nỗi lo lắng tăng lên một bậc. Tới 11 giờ đêm, Sean quyết định liên hệ với ban an ninh khách sạn, họ đã trực tiếp gọi tới Sở Cảnh sát New York. Ngay lập tức họ coi sự việc là nghiêm trọng vì đứa trẻ đã mất tích và vì tiếng tăm của Sean. Cả đêm họ đã thông báo dấu hiệu nhận dạng tới các đội cảnh sát tuần tra khác nhau và bắt đầu xem lại các đoạn băng của camera giám sát ở những nơi Pénélope được cho là đã tới. Dĩ nhiên là họ chẳng tìm thấy gì hết.

Pauline dụi điếu thuốc vào chiếc đĩa lót tách cà phê. Gương mặt cô tái mét.

– Đến 7 giờ sáng, một nhân viên giao vận đã giao tới khách sạn một chiếc hộp các tông trong đó có một ngón tay trẻ con nhỏ xíu kèm theo đó là yêu cầu nộp tiền chuộc vấy máu. Thật kinh khủng. Đến đây thì FBI vào cuộc. Họ mở rộng phạm vi tìm kiếm, tung ra cảnh báo bắt cóc, hối thúc toàn bộ lực lượng cảnh sát khoa học… Cuối cùng, một camera giám sát ở đại lộ Amsterdam đã ghi hình được vụ bắt cóc Pénélope và con trai.

Pauline dụi mắt, thở dài:

– Hồi đó, tôi có thể thoáng nhìn thấy những hình ảnh. Lần này, chúng ta không còn ở trong bối cảnh một bộ phim khiêu dâm nữa rồi, mà đúng ra là một bộ phim kinh dị. Người ta thấy ở đó một con quỷ dữ với sức mạnh bò mộng đang đẩy Pénélope và Julian vào khoang sau một chiếc xe thùng cũ nát.

– Một con quỷ dữ nghĩa là sao?

– Một người da đỏ lưng gù, với đôi vai to bè và hai cánh tay lực lưỡng.

Gaspard bĩu môi nghi hoặc. Pauline kể tiếp:

– Những dấu vân tay thu được từ chiếc hộp các tông kia đã được tìm thấy trong hồ sơ lưu. Chúng thuộc về Beatriz Muñoz, một cựu nữ tù, cũng được biết đến với biệt danh LadyBird, từng giao du với Sean thời trẻ.

Khi nhắc đến biệt danh “nữ nhân điểu”, Gaspard nhớ lại những bức ảnh anh nhìn thấy hôm trước trong cuốn chuyên khảo về họa sĩ: những bức ảnh chụp nhóm “Thợ pháo hoa” trẻ tuổi đang xịt sơn vẽ lên các toa tàu điện ngầm hồi đầu thập niên 1990: Sean và chiếc áo khoác dáng ngắn rộng thùng thình, NightShift, gã người Mỹ Latinh kiêu căng với đôi tai vểnh, và LadyBird, cô gái người da đỏ không có thân hình nhẹ nhõm cho lắm, bất chấp biệt danh của mình, mái tóc đen nhánh tựa gỗ mun được bao quanh bằng một dải băng đô kiểu *Geronimo.

Chú Thích

(1829-1909): vị thủ lĩnh thổ dân Apache Chiricahua chống lại quân đội Hoa Kỳ và Mexico để đòi quyền tự trị.

– Ngay khi FBI tiếp nhận vụ việc, mọi chuyện được đẩy nhanh hơn. Trước 12 giờ trưa, họ đã định vị được khu đất lấn chiếm trái phép mà Beatriz Muñoz đã dẫn các nạn nhân của mình tới. Một nhà kho của một khu công nghiệp cũ thuộc địa phận quận Queens. Nhưng khi họ tấn công thì đã quá muộn: Julian đã thiệt mạng.

6.

Khoản tiền chuộc này mang ý nghĩa gì vậy? Madeline hỏi.

Bernard Benedick nheo mắt.

– Ý cô muốn nói đến tổng số tiền chuộc 4.290.000 đô?

– Vâng.

– Đó là cái giá của sự chịu đựng: số ngày Beatriz Muñoz đã trải qua trong tù, nhân lên một nghìn lần. Mười một năm và chín tháng địa ngục: 4.290 ngày.

Khoản tiền có vẻ gần như chẳng bõ bèn gì một khi được giới thiệu như thế.

– Lorenz đã cố gom đủ số tiền này, tôi hình dung là vậy.

– Dĩ nhiên, nhưng Muñoz đời nào muốn nhận tiền.

– Vậy thì bà ta muốn cái gì đây? Báo thù sao?

– Đúng thế, cái “công lý man dã” mà Francis Bacon thường nhắc đến. Cô ta muốn phá tan nát cuộc đời của Sean, bắt anh ấy phải chịu cùng nỗi đau khổ tàn bạo mà bản thân cô ta đã cảm nhận.

– Tuy nhiên bà ta lại tha mạng cho vợ của Lorenz ư?

– Cũng không hẳn như thế đâu. FBI đã tìm thấy Pénélope bị trói bằng dây thép gai vào một chiếc ghế tựa. Đến nay cô ta vẫn còn mang trên mình những vết sẹo. Nhưng điều kinh khủng nhất, đó là Beatriz đã đâm Julian bằng dao găm ngay trước mắt mẹ thằng bé.

Máu của Madeline đông đặc lại. Cô nhớ tới câu nói của anh bạn Danny: con đường của bóng tối, của đau đớn và chết chóc. Dù cô đi đâu chăng nữa, dù cô làm gì chăng nữa, mọi con đường đều dẫn cô tới ngã tư này và tới đoàn rước xác chết của cô.

– Beatriz Muñoz hiện đang ở tù sao?

– Không, cô ta đã rời khỏi hang ổ của mình trước cuộc vây bắt. Cô ta đã lao mình vào đoàn tàu đang chạy tại Harlem-Phố 125, một nhà ga nơi cô ta cùng Sean từng hay lui tới vẽ lên các toa tàu.

Benedick buột ra một tiếng thở dài buồn bã, như một người theo thuyết định mệnh.

Madeline tìm trong túi áo khoác ngắn của mình một thứ thuốc chống lại cảm giác nóng rực ở dạ dày.

– Có một câu hỏi tôi đã tự đặt ra cho mình từ hôm qua, cô nói tiếp sau khi đã nuốt chửng viên thuốc. Thời điểm Sean Lorenz qua đời cách đây một năm, khi đó ông ấy đang ở New York, phải không?

– Chính xác, anh ấy chết vì một cơn nhồi máu cơ tim ngay trên đường phố.

– Ông ấy quay lại đó để làm gì nhỉ? Tại sao lại quay lại thành phố chất chứa quá nhiều ký ức tang thương đến thế?

– Đúng ra thì anh ấy có hẹn với một bác sĩ chuyên khoa tim mạch. Dẫu sao đó cũng là điều anh ấy giải thích với tôi qua điện thoại, và tôi có những lý do chính đáng để tin rằng đó là sự thật.

– Những lý do nào thế?

Benedick mở chiếc cặp da hiệu Venezia mà ông đã đặt lên chiếc ghế tựa ngay cạnh mình.

– Vì biết thể nào cô cũng quay lại gặp nên tôi đã mang cái này theo, ông khẳng định rồi lấy từ trong cặp ra một cuốn sổ màu nâu sáng, đoạn chìa ra cho Madeline.

Cô xem xét nó vẻ chăm chú. Thực ra đó là một cuốn sổ lịch nhỏ hiệu Smythson bằng da in.

– Khi biết tin Sean qua đời, tôi đang ở Paris. Tôi đã đáp máy bay sang New York để lo liệu việc đưa thi thể anh ấy về nước. Tự tay tôi đã thu dọn đồ đạc cá nhân của Sean tại phòng khách sạn nơi anh ấy ở. Chỉ có một chiếc va li nhỏ đựng vài bộ quần áo cùng với cuốn sổ này.

Madeline lật qua cuốn sổ. Một điều chắc chắn: thời gian biểu của Sean Lorenz trong năm trước khi ông qua đời chỉ gói gọn trong những cuộc hẹn khám bệnh. Vào ngày ông qua đời, tức 23 tháng Mười hai năm 2015, họa sĩ đã viết: Hẹn Bs Stockhausen 10 giờ.

– Chính xác thì ông ấy bị bệnh gì vậy?

– Nhồi máu cơ tim tái phát nhiều lần. Nội trong năm cuối đời mình, Sean đã phải hết nong mạch vành lại đến phẫu thuật cầu nối chủ-vành. Cô còn nhớ ca khúc của Ferré không: “Trái tim, khi nó đập mạnh hơn, khỏi cần mất công đi tìm xa hơn nữa…”

– Tôi có thể giữ cuốn sổ này không?

Benedick thoáng do dự, nhưng vẫn gật đầu ra hiệu đồng ý.

– Ba bức tranh cuối cùng ấy, ông thực sự nghĩ chúng tồn tại chứ?

– Tôi chắc chắn như vậy, ông chủ phòng tranh vừa đáp vừa nhìn cô đau đáu. Cũng như tôi dám chắc cô sẽ tìm ra chúng.

Madeline đóng vai thận trọng.

– Để tìm ra chúng, tôi cần ông nói cho tôi biết là phải tìm ở đâu. Tôi có thể tới gặp những ai.

Benedick dành thời gian ngẫm nghĩ.

– Hãy ghé qua chỗ Diane Raphaël. Đó là một bác sĩ tâm thần giỏi và vô cùng dễ mến. Một trong những người hiếm hoi mà Sean trân trọng. Bà ấy đã gặp Sean vài tháng sau khi anh ấy tới Pháp, thời còn dự án Bệnh viện dã chiến. Thời đó, Diane đang điều hành một cơ sở lưu động quy mô nhỏ chuyên giúp đỡ những người nghiện ma túy. Bà ấy quan tâm đến những hình thức nghệ thuật mới mẻ và từng là một trong những người đầu tiên mua hai trong số những bức tranh của anh ấy. Sean vẫn luôn coi bà ấy phần nào như thiên thần hộ mệnh của mình.

Madeline thầm ghi nhớ những thông tin này, cùng lúc nhớ ra rằng Gaspard từng nhắc đến cái tên này trước mặt cô vào buổi tối qua.

– Còn ai khác không?

– Có lẽ là Jean-Michel Fayol, một người bán màu vẽ. Anh ta có một cửa hàng nhỏ trông ra kè. Sean thường tham khảo ý kiến của anh ta mỗi khi vẽ tranh.

– Pénélope Lorenz vẫn đang sống ở Paris chứ?

Benedick gật đầu mà không trả lời thẳng.

– Ông có thể cho tôi địa chỉ của bà ta không?

Ông chủ phòng tranh rút trong túi ra một cây bút rồi xé một trang trong cuốn sổ lịch.

– Tôi sẽ ghi cho cô địa chỉ liên lạc của cô ta, nhưng cô sẽ không moi được gì từ cô ta đâu. Gặp Pénélope cùng lúc là vận may lớn và đại họa của Sean. Tia sáng đã phát lộ thiên tài của Sean để rồi sau đó thổi bùng lên vụ hỏa hoạn tàn phá cuộc đời anh ấy.

Ông chìa tờ giấy đã gấp lại cho Madeline rồi, mắt nhìn về phía xa xăm vô định, tự hỏi thành tiếng:

– Thực ra, còn gì buồn hơn khi phải chứng kiến tâm hồn đồng điệu với Sean trở thành tâm hồn đày đọa anh ấy chứ?

6

Một khoản hủy diệt

Mỗi bức tranh là một khoản hóa đơn tính tiền.

Ở tôi, mỗi bức tranh là một khoản hủy diệt.

Pablo PICASSO

1.

Đại lộ Saint-Germain chạy dài dưới vầng dương nhợt nhạt. Những cây tiêu huyền trụi lá, những tòa nhà bằng đá chạm trổ, những quán cà phê được bảo tàng hóa, những cửa hàng bán đồ xa xỉ tĩnh mịch.

Madeline vượt qua một chiếc ô tô điện rồi bật xi nhan để rẽ sang phố Saint-Guillaume. Sau chừng hai chục mét, cô dựng chiếc xe ga của mình vuông góc giữa một chiếc Smart méo mó và một chiếc SUV bóng lộn. Địa chỉ mà Bernard Benedick đưa cho cô là địa chỉ một trong những tòa nhà đẹp đẽ của con phố với mặt tiền rộng có những mặt đá nổi vừa được trát lại. Cô bấm chuông điện thoại nội bộ ở một cổng xe hoành tráng bằng gỗ đánh véc ni.

– Vâng? một giọng rít lên.

– Bà Lorenz phải không?

Không có lời đáp. Madeline chơi bài úp mở nước đôi:

– Chào bà, tôi là sĩ quan cảnh sát. Tôi đang điều tra về việc những bức tranh cuối cùng do chồng cũ của bà vẽ đã biến mất. Bà có thể cho tôi vài phút để…

– Xéo đi, con phóng viên khốn kiếp!

Madeline lùi lại một bước, kinh ngạc vì câu rủa xả cay nghiệt. Cố nài cũng vô ích. Nếu Pénélope Lorenz đang ở trong trạng thái như thế này, cô sẽ không thể làm được gì.

Cô lại ngồi lên chiếc Vespa với một ý tưởng khác trong đầu. Phố Đại học, phố Bac, đại lộ Raspail tới tận Montparnasse. Madeline tìm ra quán cà phê Internet mà cô đang kiếm trong phố Odessa, kẹt cứng giữa một tiệm bánh xèo và một tiệm đồ người lớn. Vừa đẩy cánh cửa, cô vừa thề sẽ không rời khỏi nơi này chừng nào chưa đạt được mục đích.

2.

Gaspard đến nhà hàng trước. Nằm cạnh một quầy bán cá, Grand Café là một quán rượu của khu phố với lối trang trí có phần cổ lỗ nhưng ấm cúng: gỗ ốp tường, ghế tựa Baumann bằng gỗ uốn cong, những bàn rượu nhỏ, gương lớn, sàn lát gạch vuông họa tiết bàn cờ. Nét điểm xuyết Địa Trung Hải hoàn thiện bức tranh bằng một cây nho giả gắn trên trần nhà tựa như bên dưới một giàn vòm.

Thời điểm 12 rưỡi trưa, quán trống đến ba phần tư số bàn, nhưng bắt đầu đông khách dần. Gaspard hỏi một bàn cho hai người rồi không vội ngồi xuống mà đặt lên đó chiếc điện thoại đang khiến túi áo vest phồng to trước khi khoác tấm áo lên lưng ghế. Rồi anh tiến về phía quầy, gọi một ly quincy và hỏi liệu anh có thể gọi điện thoại được không. Người bồi bàn nhìn anh vẻ ngạc nhiên, thậm chí còn ngờ vực, rồi chỉ chiếc điện thoại được bỏ lại trên bàn:

– Nó bị hỏng sao?

Gaspard thậm chí không ngoái nhìn.

– Không, mà vì tôi không biết cách sử dụng. Vậy tôi có thể sử dụng điện thoại của anh được không?

Nhân viên phục vụ bàn gật đầu rồi chìa cho anh một ống nghe kiểu cổ. Gaspard đeo kính để đọc số điện thoại Pauline ghi cho.

Một may mắn: Diane Raphaël nhấc máy sau hồi chuông thứ ba, xin lỗi ngay vì chất lượng cuộc gọi không được tốt. Nữ bác sĩ chuyên khoa tâm thần hiện không ở Paris, mà đang có mặt trên một chuyến tàu siêu tốc TGV tới Marseille, bà phải tới gặp một bệnh nhân tại bệnh viện Sainte-Marguerite. Gaspard tự giới thiệu và nói rõ rằng anh gọi cho bà sau khi được Pauline Delatour cho số điện thoại. Diane Raphaël, vốn sống phần nhiều thời gian ở New York, đảm bảo đã từng xem vở Nhà thương điên tại đó, một trong những vở kịch u ám nhất của anh, một lời phê phán về những sự chệch hướng của phân tâm học. Với vở kịch này, Gaspard không chỉ kết được bạn trong giới chuyên gia tâm lý mà còn gây thù, nhưng Diane không phải dạng người thù dai và cam đoan với anh “đã nhiều phen bật cười thành tiếng”.

Vì vốn không biết nói dối, Gaspard bèn chơi bài ngửa. Anh giải thích rằng mình đang thuê căn nhà trước đây vốn thuộc về Sean Lorenz và muốn giúp một cô bạn làm nghề cảnh sát, người hạ quyết tâm tìm lại ba bức tranh cuối cùng của họa sĩ.

– Nếu chúng tồn tại, tôi rất nóng lòng muốn được chiêm ngưỡng chúng!

– Pauline đã nói với tôi rằng bà chăm lo cho Sean rất nhiều vào năm cuối đời của ông ấy.

– Ý cậu là hai thập niên cuối đời chứ gì! Tôi là bạn kiêm bác sĩ tâm thần của ông ấy suốt hơn hai chục năm mà!

– Tôi nghĩ làm sao kiêm được hai việc đó cùng lúc?

– Tôi không thích những câu giáo điều đâu. Tôi đã cố gắng giúp đỡ ông ấy hết khả năng, nhưng cần phải tin rằng có một lời nguyền dành cho các thiên tài.

– Ý bà muốn nói gì?

– Nguyên tắc cũ mèm của sự phá hủy mang tính sáng tạo. Để xây dựng một tác phẩm như tác phẩm của ông ấy, có lẽ không thể tránh khỏi chuyện Sean tự hủy hoại mình và hủy hoại những người khác.

Bất chấp chất lượng cuộc gọi kém, Gaspard vẫn bị giọng nói của Diane Raphaël quyến rũ: du dương, thâm trầm, với những âm điệu thân thiện.

– Theo Pauline, Lorenz đã bị chệch hướng sau khi con trai ông ấy qua đời…

– Ai cũng biết chuyện đó mà, nữ bác sĩ chuyên khoa tâm thần ngắt lời anh. Sean hầu như đã chết theo Julian. Chẳng còn gì để bám víu, thậm chí ông ấy còn không buồn vờ như đang sống. Vả lại, ông ấy đã bị hủy hoại về thể chất. Những tháng cuối đời, ông ấy đã trải qua hai cuộc phẫu thuật lớn. Ông ấy chết đi sống lại nhiều lần. Nhưng ông ấy vẫn chịu đựng nỗi đau này như một hình phạt sám hối.

– Hội họa không cứu rỗi được ông ấy chút nào sao?

– Hội họa không thể làm gì nổi trước cái chết của một đứa con.

Gaspard nhắm mắt lại một thoáng rồi nuốt ngụm vang trắng cuối cùng trong ly, ngay sau đó ra hiệu cho nhân viên quầy bar để người ta rót thêm cho anh.

– Đâu phải bậc cha mẹ nào mất đi một đứa con cũng đi đến chỗ tự tử, anh nhận xét.

– Anh nói đúng, bà công nhận. Mỗi cá nhân phản ứng theo cách của riêng mình. Tôi sẽ không bàn với anh về hồ sơ bệnh án của Sean, nhưng ở ông ấy mọi thứ đều bị khuếch đại. Ông ấy luôn có một phương diện mắc chứng tâm lý chu kỳ ảnh hưởng đến năng lực sáng tạo riêng.

– Ông ấy bị lưỡng cực sao?

– Cứ cho là giống như ở nhiều nghệ sĩ, các phản ứng và tâm trạng của ông ấy bị kịch phát. Nếu vào thời kỳ hưng phấn ông ấy là bằng chứng của cơn khao khát sống đến khó tin thì khi đắm chìm trong những suy nghĩ u ám, ông ấy có thể tụt xuống rất thấp.

Gaspard cởi một cúc áo sơ mi. Tại sao ngay giữa tháng Mười hai trời lại nóng phát điên thế này chứ?

– Lorenz nghiện ma túy ư?

Lần đầu tiên Diane nổi cáu:

– Anh đặt ra quá nhiều câu hỏi rồi đấy, anh Coutances.

– Tôi công nhận, anh xin lỗi.

Ở đầu dây bên kia, anh thoáng nghe thấy thông báo từ hãng Đường sắt quốc gia cảnh báo rằng đoàn tàu sắp tiến vào ga Saint-Charles.

– Tất cả những gì Sean muốn, đó là tự đánh thuốc mê và lãng quên, nữ bác sĩ chuyên khoa tâm thần nói tiếp. Ông ấy có một nỗi đau vô bờ bến, tỷ lệ thuận với tình yêu thương dành cho con trai, và ông ấy không muốn được cứu chữa hay thuyết phục. Vậy nên, mọi phương cách đều tốt: thuốc ngủ, thuốc an thần cùng những thuốc đi kèm. Chính tôi đã kê đơn những loại thuốc đó cho ông ấy, bởi tôi biết kiểu gì thì ông ấy cũng sẽ dùng đến chúng. Ít ra thì việc kê đơn này cũng cho phép tôi để mắt đến những thứ ông ấy nốc vào.

Tín hiệu điện thoại ngày càng tệ. Dẫu sao Gaspard vẫn thử liều hỏi một câu cuối cùng:

– Bà có tin vào giả thuyết về những bức tranh bị giấu nhẹm kia không?

Thật không may, câu trả lời của nữ bác sĩ chuyên khoa tâm thần đã lẫn vào tiếng ồn ào khi tàu vào ga.

Anh gác máy rồi lại nốc cạn ly rượu. Khi quay lại, anh nhìn thấy Madeline vừa bước vào nhà hàng.

3.

Hai vị dùng rượu khai vị chứ? người bồi bàn đề xuất sau khi đặt xuống cạnh bàn họ tấm bảng lớn liệt kê những món ăn trong ngày.

Madeline gọi một chai nước khoáng có ga còn Gaspard gọi ly vang thứ ba.

Rồi, nở một nụ cười, nhà soạn kịch đẩy về phía Madeline chiếc điện thoại mà lúc ra khỏi nhà cô đã để quên.

– Cảm ơn vì đã mang tới cho tôi, cô nói rồi nhận lại chiếc điện thoại.

Gaspard nghĩ đã đến lúc thích hợp để nói lời xin lỗi:

– Thứ lỗi cho tôi chuyện tối qua nhé. Tôi nóng nảy quá.

– Được rồi, cho qua đi.

– Tôi không biết là cô đang cố gắng sinh con.

Madeline đỏ lựng mặt.

– Sao anh nói vậy?

– Tôi… tôi suy ra thế thôi, anh lắp bắp khi nhận ra sự vụng về của mình. Sáng nay cô có tin nhắn từ một bệnh viện ở Madrid thông báo đã nhận được kết quả…

– Đi mà lo chuyện riêng của anh đi, khỉ thật! Anh nghĩ tôi muốn nói đến chuyện đó bên bàn ăn với anh sao?

– Tôi xin lỗi, tôi không cố tình đọc tin nhắn đó đâu.

– Không cố tình ư? cô nạt nộ.

Họ không nói với nhau lời nào, cũng không nhìn nhau lấy một lần nào nữa cho đến khi phục vụ mang ra những món họ đã gọi và chủ nhà hàng tới chỗ họ để lắng nghe phản hồi. Madeline tranh thủ sự hiện diện của ông ta để lôi ra bao diêm có logo của nhà hàng mà Benedick đã đưa cho cô.

– Sean Lorenz là khách hàng thường xuyên ghé quán ông, phải vậy không?

– Còn hơn cả một khách hàng ấy chứ, đó là một người bạn của quán chúng tôi! chủ nhà hàng trả lời với vẻ tự hào.

Đó là một người đàn ông thấp bé mồm mép liến thoắng, đầu cạo nhẵn thín, mặc một bộ com lê rộng thùng thình và đeo một chiếc cà vạt trắng điểm những chấm bi to màu đen. Những điệu bộ biểu cảm trên khuôn mặt khiến ông trông hao hao *Louis de Funès.

Chú Thích

(1914-1983): diễn viên hài nổi tiếng người Pháp với vai diễn cảnh sát.

– Suốt hàng năm trời, gần như trưa nào ông Lorenz cũng tới dùng bữa tại nhà hàng chúng tôi.

Đôi mắt sáng long lanh của ông chủ nhà hàng bỗng nhòa đi.

– Dĩ nhiên, chúng tôi ít gặp ông ấy hơn sau khi con trai ông ấy qua đời. Một buổi tối, sau khi đóng cửa nhà hàng ra về, thậm chí tôi còn gặp ông ấy say bí tỉ nằm rũ trên một băng ghế. Tôi đã đưa ông ấy về tận ngôi nhà trên phố Cherche-Midi. Chuyện này thực sự khiến tôi thấy đau lòng.

Như thể không muốn dừng lại ở ký ức buồn bã này, người đàn ông tặc lưỡi rồi vội vàng nói thêm:

– Vài ba tháng cuối đời, ông ấy có khá hơn. Ông ấy đã nhiều lần quay trở lại nhà hàng và…

– Ông nghĩ là ông ấy đã lại bắt đầu vẽ tranh sao? Gaspard ngắt lời chủ nhà hàng.

– Nhất định rồi! Ông ấy lại vừa dùng bữa trưa vừa vẽ kín các trang trong cuốn sổ ký họa. Một dấu hiệu không lẫn vào đâu được!

– Ông có biết ông ấy vẽ gì không?

De Funès nở một nụ cười ra điều thông thạo.

– Vì cũng tò mò muốn biết nên khi mang các món ra cho ông ấy, tôi lúc nào cũng tranh thủ liếc nhìn qua vai ông ấy. Ông ấy vẽ những mê cung.

– Những mê cung ư?

– Đúng thế, những mê cung ngột ngạt như trong tiểu thuyết của Kafka, không lối vào cũng chẳng lối ra. Những mê cung với các đường nhánh vô tận nhìn đến chóng mặt.

Madeline và Gaspard nhìn nhau vẻ hồ nghi, nhưng người đối thoại với họ đã giữ lại một thông tin mấu chốt.

– Vài ngày trước khi qua đời, ông Lorenz đã tặng cho chúng tôi một món quà tu-y-ệt vơ-ời: ông ấy đã để lại một bức tranh ghép mảnh trong nhà hàng.

– Ở đây sao? Gaspard kinh ngạc.

– Chính xác, ông hãnh diện khẳng định, ở góc trong cùng căn phòng thứ hai. Đó là một trong những bức tranh ghép mảnh hiếm hoi của Sean Lorenz và dẫu sao chăng nữa cũng là bức tranh ghép mảnh lớn nhất ông ấy từng sáng tác. Những người ái mộ nghệ thuật thường viếng thăm nơi này để chiêm ngưỡng hoặc chụp ảnh nó. Nhất là dân châu Á.

Ông chủ nhà hàng không đợi hai thực khách phải khẩn nài đã dẫn họ vào tận góc trong cùng căn phòng nơi một bức tranh tường đa sắc giăng trên mặt tường.

– Ông Lorenz muố