← Quay lại trang sách

Chương bốn

"Hẳn các ông thấy đấy” ông Tưởng nói. “Chúng tôi cũng không đến nỗi man rợ như các ông tưởng.

Conway, chiều muộn hôm đó, không muốn cãi lại điều ông Tưởng đã nói. Anh thích thú với cái cảm giác dễ chịu trong cơ thể hòa lẫn với sự tỉnh táo trong tình thần, và dường như đối với anh trong mọi cảm giác, đây là cảm giác thực sự văn minh nhất. Cho đến lúc này, những đồ dùng thiết bị ở Shangri-La đã có đủ tất cả những gì anh có thể mong muốn, và chắc chắn có nhiều hơn sự mong đợi của anh. Một tu viện ở Tây Tạng mà có một hệ thống sưởi tập trung bằng hơi nước, có lẽ không có gì là ghê gớm lắm ở một thời đại mà ngay cả ở Lhasa người ta cũng đã có lắp đường dây điện thoại; nhưng sự kết hợp cơ khí của khoa vệ sinh phương Tây với nhiều cái của phương Đông và của truyền thống thì anh thấy cực kỳ kỳ lạ. Như cái bồn tắm chẳng hạn, trong đó anh vừa được hưởng thú vị tắm rửa, là một dụng cụ bằng sứ màu men xanh lục mịn màng, một sản phẩm theo như nhãn đề thì là của hãng Akron ở Ohio bên Mỹ, nhưng người thổ dân phục vụ anh lại phục vụ anh theo kiểu Trung Quốc, anh ta lau tai, lau lỗ mũi cho anh, rồi dùng một miếng gạc bằng lụa mỏng để lau qua hai hàng mi mắt dưới của anh. Lúc đó anh nghĩ không biết ba người bạn của anh có nhận được sự chăm sóc như vậy không.

Conway đã sống gần một thập kỷ ở Trung Quốc, và không phải lúc nào cũng ở thành phố lớn; và nghĩ kỹ lại thì anh cho thời gian ấy là những ngày sung sướng nhất trong cuộc đời anh. Anh mến người Trung Quốc, anh quen với lối sống của người dân ở đây. Đặc biệt anh thích cách nấu ăn của người Trung Quốc, với các món gia vị của họ; và do đó bữa ăn đầu tiên ở Shangri-La đã đem đến cho anh cái không khí thân quen và sự ân cần tiếp đãi. Anh cũng đã có ý ngờ vực trong thức ăn có thứ cỏ hoặc thuốc để làm người ta dễ thở, vì không những bản thân anh cảm thấy có một sự biến đổi khác, mà còn thấy rất rõ điều đó ở mấy người cùng đi với anh. Anh để ý thấy ông Tưởng không ăn gì ngoài một ít thứ rau xà lách xanh và không uống vang. Ngay lúc bắt đầu ngồi vào mâm ông ta đã nói: “Xin lỗi các ông, chúng tôi có chế độ ăn kiêng rất nghiêm ngặt: Tôi bắt buộc phải giữ gìn sức khỏe của mình.”

Đây cũng là lý do ông ta đã từng viện ra từ trước, và Conway nghĩ không biết ông ta mắc phải chứng bệnh gì. Giờ đây nhìn kỹ ông Tưởng, Conway thấy thực khó mà đoán đúng ông ta bao nhiêu tuổi; những nét nhỏ nhắn trên bộ mặt có phần khó xác định, cùng với nước da màu đất sét ẩm đã khiến nhìn ông ta thấy đây hoặc là một thanh niên sớm già hoặc là một ông già mà đã giữ được những nét trẻ trung một cách tài tình. Ông ta không phải là không có vẻ hấp dẫn nào đó; một tác phong lịch sự đúng kiểu từ con người ông ta toát ra một hương vị quá tế nhị mà người ta chỉ nhận thấy khi không nghĩ đến nó.

Vận chiếc áo khoác thêu bằng lụa màu xanh lam với chiếc áo lót sẻ hai bên quen thuộc và chiếc quần ống bó ở hai mắt cá, tất cả một màu xanh lam của nước, ông ta có sức hấp dẫn lạnh lùng mà Conway thích thú, tuy anh biết đó không phải là sở thích của mọi người.

Sự thực, không khí ở đây như ở Trung Quốc chứ không có gì đặc biệt là Tây Tạng, và chính điều này đã khiến Conway có cảm giác thoải mái như ở nhà mình, tuy một lần nữa anh không thể nghĩ đó là cảm giác chung của mấy người kia. Cái phòng ở cũng khiến anh thích thú; nó cân đối một cách đẹp, và được trang trí sơ sài với mấy tấm thảm và hai bức sơn mài khá đẹp. Ánh sáng là từ mấy ngọn đèn giấy, những ngọn đèn này không đung đưa những khi lặng gió. Anh cảm thấy dễ chịu cả về tình thần lẫn thể xác, và những ý nghĩ gợi lại có thể có một thứ thuốc gì không còn làm anh lo âu nữa. Dù sao đi nữa, nếu thực sự có thuốc pha vào thức ăn thì nó cũng đã giúp cho Barnard dễ thở và Mallinson đỡ hùng hổ; cả hai đều đã ăn uống no nê, để ý đến ăn hơn là nói chuyện. Conway cũng đã đói thật sự và anh thấy đúng thôi khi phép xã giao lịch sự đòi hỏi phải từ từ bàn đến những vấn đề quan trọng thì anh không bao giờ vội vã khi bản thân hoàn cảnh nó đem lại niềm vui, cho nên với anh phương pháp xử thế trên là rất thích hợp. Thực tế, cho mãi đến tận lúc anh bắt đầu hút một điếu thuốc lá, anh mới có ý kiến nhận xét nói với ông Tưởng: “Xem ra cộng đồng của ông ở đây rất khá giả, và hết sức mến khách. Tuy nhiên, tôi nghĩ các ông không thường xuyên có khách.”

“Rất hiếm, quả thế.” Ông người Trung Quốc đáp, vẻ trịnh trọng cân nhắc. “Vùng này ít có người qua lại.”

Nghe nói vậy, Conway mỉm cười. “Ông đặt vấn đề rất khéo. Lúc tới đây, tôi đã thấy đây là một nơi bị cô lập nhất mà tôi chưa từng thấy. Một nền văn hóa riêng biệt có thể nảy nở ở đây mà không lo bị tiêm nhiễm từ thế giới bên ngoài.”

“Tiêm nhiễm. Ông muốn nói gì vậy?”

“Tôi nói thế để chỉ những đoàn khiêu vũ, những rạp chiếu bóng, những dấu hiệu điện tử.v.v. Những ống dẫn nước cũng như những bể chứa nước của các ông thực nghiêm chỉnh và hiện đại, theo ý tôi, đây là chút lợi ích duy nhất mà phương Đông có thể tiếp nhận từ phương Tây. Tôi thường nghĩ người La Mã thực là may mắn, nền văn minh của họ chỉ đạt tới những buồng tắm nước nóng chứ không dính tới những tri thức tai hại về máy móc.”

Conway ngừng lại. Anh nói rất lưu loát một cách ngẫu nhiên chứ không phải giả dối, nhưng chủ yếu để tạo một không khí và kiềm chế nó. Anh vốn khá thạo về việc làm này. Chỉ do muốn đáp lại thái độ cực kỳ lịch sự của chủ nhà nên anh đã không tỏ ra tò mò một cách lộ liễu hơn.

Nhưng cô Brinklow lại không có sự e dè như vậy. “Xin ông làm ơn,” cô nói, tuy lời lẽ không hề tỏ ra quỵ lụy, “Nói cho chúng tôi biết về tu viện ở đây, được không?”

Ông Tưởng rướn đôi hàng lông mày tỏ vẻ không bằng lòng một cách tế nhị về câu hỏi vội vã của cô. Ông nói: “Thưa bà, tôi sẽ rất lấy làm vui mừng được nói với bà trong chừng mực khả năng của tôi. Vậy, xin bà cho biết bà muốn biết rõ về những gì?”

“Trước hết, xin ông cho biết ở đây, các ông có bao nhiêu người và thuộc những quốc tịch gì?” Rõ ràng đầu óc ngăn nắp của cô Brinklow lúc này hoạt động không kém phần thành thạo so với lúc ở nhà truyền giáo Baskul.

Ông Tưởng đáp: “Con số những người của chúng tôi đã đạt tới chức vụ Lama vào khoảng năm mươi vị, ngoài ra còn một số ít khác, như bản thân tôi chẳng hạn, chưa đạt tới trình độ thụ pháp đầy đủ. Chúng tôi sẽ được thụ pháp theo đúng trình tự, đây là điều chúng tôi mong muốn. Cho đến lúc ấy, hiện giờ chúng tôi chỉ là những Lama nửa chừng, những Lama chờ thụ pháp, như các ngài có thể gọi. Còn về nguồn gốc dân tộc, thì ở đây có đại diện của rất nhiều dân tộc, tuy nhiên có lẽ con số người Tây Tạng và người Trung Quốc chiếm đa số.”

Cô Brinklow không bao giờ bỏ qua không kết luận ngay, dù cho có sai đi nữa. Cô nói: “Tôi biết vậy, đây thực sự là một tu viện của người thổ dân. Thế ngài tu viện trưởng của các ông là một người Tây Tạng hay một người Trung Quốc?”

“Không.”

“Ở đây có người Anh không?”

“Khá nhiều.”

“Trời ơi, vậy xem ra thực kỳ lạ.” Cô Brinklow chỉ ngừng một chút để lấy hơi rồi nói tiếp. “Và giờ đây, xin ông cho biết tín ngưỡng của các ông là gì?”

Conway ngả người, vẻ chờ đợi phần nào thích thú. Anh vẫn thường xuyên thích quan sát sự va chạm của hai tâm tính trái ngược nhau; tính bộc trực của một người con gái ở cô Brinklow chuyên tâm hỏi về triết học của đạo giáo Lama hẳn sẽ gây nhiều hứng thú. Mặt khác, anh lại không muốn việc này khiến chủ nhân e ngại, nên anh nói để tạm thời hòa giải: “Đây có phần là một vấn đề lớn.”

Nhưng cô Brinklow không ưa hòa giải. Rượu vang đã khiến mấy người khác trở nên yên tĩnh hơn thì dường như lại làm cho cô sôi nổi thêm. “Tất nhiên”, cô vừa khoát tay tỏ vẻ độ lượng. “Tôi tin vào một thứ tôn giáo chân thực, nhưng tôi cũng có tư tưởng khá khoáng đạt để thừa nhận rằng, những người khác, tôi muốn nói người nước ngoài, đã rất thành thực trong niềm tin của họ. Và tất nhiên ở một tu viện như ở đây tôi không mong chờ được người ta tỏ ra đồng tình với tin ngưỡng của tôi.”

Thái độ nhân nhượng của cô khiến tu sĩ Tưởng cúi đầu đáp lễ: “Nhưng thưa bà, tại sao?” Ông đáp lại bằng một thứ tiếng Anh chính xác và văn hoa. “Chúng ta lại phải khăng khăng cho rằng vì một đạo giáo là đúng thì tất cả những đạo giáo khác đều là sai?”

“Ồ, tất nhiên, điều đó khá rõ, phải không ông?”

Conway lại nói xen vào. “Thực ra, tôi nghĩ chúng ta chẳng nên tranh cãi làm gì. Nhưng, ở đây cô Brinklow có cùng một ước muốn hiểu biết như tôi là mục đích của tu viện độc đáo này là gì?”

Tu sĩ Tưởng đáp lại chậm rãi và chi khe khẽ như người thì thầm: “Thưa ông, nếu tôi phải nói rất ngắn gọn thì tôi có thể nói niềm tin trước hết của chúng tôi là tin vào sự tiết chế. Chúng tôi khắc sâu cái đức tính tránh tất cả mọi sự thái quá - thậm chí, xin ông tha lỗi cho điều tôi nói có phần ngược đời, chúng tôi tránh cả sự thái quá ngay trong đức hạnh. Ở thung lũng đây như các ngài đã thấy, trong đó có mấy nghìn người sống dưới sự kiểm soát trật tự của chúng tôi, chúng tôi đã thấy rằng cái nguyên lý cuộc sống ấy đã đem lại hạnh phúc rất lớn lao cho họ. Chúng tôi chỉ huy, điều khiển, có mức độ vừa phải, và đáp lại, chúng tôi cũng thấy thỏa mãn với cách tuân thủ vâng lời có mức độ của họ. Và tôi nghĩ tôi có thể cho là những người dân của chúng tôi sống có tiết độ vừa phải, trong sạch và chân thực vừa phải.”

Conway mỉm cười. Anh nghĩ ông già Trung Quốc này ăn nói rất chững chạc, ngoài ra nó phần nào khêu gợi đến cái tính chất của chính anh.

“Tôi nghĩ tôi đã hiểu những điều ông nói. Và tôi cho rằng những người sáng nay đến gặp chúng tôi đều là những người dân trong thưng lũng của các ông?”

“Thưa vâng. Tôi mong rằng trong suốt chuyến đi, các ông không có điều gì để chê trách họ.”

“Ồ, không, không một chút chê trách. Tôi rất lấy làm vui mừng là dù sao họ cũng đã chắc chắn quá cái mức vừa phải. Nhân tiện xin hỏi: Ông đã cẩn thận nói rằng quy định về tiết chế vừa phải là áp dụng cho họ. Vậy xin ông cho biết quy định ấy có áp dụng cho các bậc tu sĩ các ông không?”

Trả lời câu hỏi ấy, tu sĩ Tưởng chỉ có thể lắc đầu. “Thưa ông, tôi rất lấy làm tiếc là ông đã chạm đến một vấn đề mà tôi không thể bàn luận. Tôi chỉ có thể nói thẳng là trong cộng đồng chúng tôi có nhiều niềm tin và nhiều tục lệ, nhưng hầu hết chúng tôi đều không cuồng nhiệt tin vào những thứ đó. Tôi rất lấy làm buồn là lúc này tôi không thể nói được nhiều hơn.”

“Xin ông không việc gì phải xin lỗi. Cuộc nói chuyện này đã để lại cho chúng tôi những điều cần suy xét một cách vui vẻ nhất.” Trong giọng Conway nói cũng như trong những cảm giác của anh, có cái gì khiến anh lại có cảm giác nghĩ là mình vừa được dùng một liều thuốc kích thích. Mallinson xem ra cũng như vậy, tuy anh ta nhân dịp này liền đưa ra ý kiến: “Tất cả những điều chúng ta vừa bàn luận đều rất hay, nhưng tôi thực sự nghĩ là đã đến lúc chúng ta bàn đến chuyện vạch kế hoạch để chúng tôi trở về. Chúng tôi muốn quay lại Ấn Độ càng sớm càng tốt. Liệu ông có thể thuê giúp chúng tôi được bao nhiêu phu khuân vác?”

Câu hỏi quá thực tiễn và quyết liệt, xuyên vỡ cái vỏ ngọt ngào để rồi không kiếm được chỗ đặt chân bên dưới. Chỉ sau một lúc lâu tu sĩ Tưởng mới đáp lại: “Thưa ông Mallinson, thực không may, tôi không phải là người có trách nhiệm để bàn về vấn đề này. Nhưng dù sao thì chúng tôi cũng nghĩ là vấn đề này không thể thu xếp ngay lập tức được.”

“Song cũng phải thu xếp một cái gì chứ! Chúng tôi ai cũng có công việc phải quay về để làm, và bạn bè cùng anh em, họ hàng thân thích của chúng tôi, mọi người đều đang lo lắng về số phận của chúng tôi. Chúng tôi nhất thiết phải quay trở về. Chúng tôi xin cám ơn ông đã tiếp đãi chúng tôi như thế này, song sự thực chúng tôi không thể kéo dài ở đây không làm việc gì. Nếu có thể thực hiện được, chúng tôi xin bắt đầu bàn về việc này chậm nhất là ngày mai. Tôi hy vọng sẽ có nhiều người trong số người dưới quyền ông vui lòng đi hộ tống chúng tôi và tất nhiên, chúng tôi sẽ trả công cho họ xứng đáng.”

Mallinson ngừng nói, vẻ cáu kỉnh, như thể anh đã hy vọng được trả lời không cần phải nói nhiều lời; nhưng anh vẫn không moi được gì ở tu sĩ Tưởng ngoài thái độ yên lặng và gần như trách móc: “Nhưng, như ông biết đây, tất cả những cái đó không thuộc quyền giải quyết của tôi.”

“Không ư? Ồ, có lẽ, dù sao thì ông cũng có thể làm được một điều gì chứ. Nếu ông có thể kiếm cho chúng tôi được một tấm bản đồ vùng này thì hay quá. Dường như chúng tôi sẽ phải đi rất xa, và đây lại càng có lý do để ta bắt đầu khởi sự. Ở đây, các ông có tấm bản đồ nào không?”

“Chúng tôi có rất nhiều.”

“Vậy xin ông vui lòng làm ơn cho chúng tôi mượn mấy tấm. Chúng tôi xin trả lại sau. Tôi nghĩ đôi khi các ông cũng phải có liên lạc với thế giới bên ngoài. Vậy cũng nên gửi một thông điệp ra ngoài để bạn bè chúng tôi được yên tâm. Từ đây đến trạm điện tín gần nhất là bao xa?”

Gương mặt có vết nhăn của tu sĩ Tưởng dường như tỏ ra đã nhẫn nại lắm rồi. Song ông ta không đáp lại.

Mallinson đợi một lát rồi nói tiếp: “Ồ, khi cần một thứ gì thi ông nhắn gọi đến đâu để lấy? Một thứ gì thuộc loại dụng cụ văn minh, ý tôi muốn nói vậy.” Một thoáng lo sợ đã bắt đầu xuất hiện trên cặp mắt và trong giọng của anh. Thốt nhiên, anh gạt chiếc ghế đang ngồi ra phía sau và đứng dậy. Mặt anh tái đi, tay yếu ớt lau trán. “Tôi mệt quá,” anh lầm bầm nói vừa đưa mắt nhìn xung quanh phòng. “Tôi chẳng thấy một ai trong các ông thực sự cố gắng giúp đỡ tôi. Tôi chỉ hỏi có một câu rất đơn giản. Rõ ràng là các ông trả lời được. Các ông đã làm thế nào để mang được tất cả những bồn tắm hiện đại này đặt ở đây?’

Tiếp theo là một sự yên lặng khác.

“Vậy là các ông không muốn nói cho tôi biết? Tôi cho đây chỉ là một phần của tất cả những bí mật khác ở đây. Anh Conway, tôi phải nói là anh quá ư nhu nhược. Tại sao anh không hỏi cho ra sự thực? Lúc này tôi đã mệt lắm rồi - nhưng ngày mai, xin anh nhớ lấy, chúng ta phải đi khỏi đây vào ngày mai - đây là điều rất thiết yêu…”

Anh đã suýt nữa lăn xuống sàn nhà nếu không có Conway kịp đỡ anh ngồi lên ghế. Sau đó, anh tỉnh lại, nhưng không nói gì nữa.

“Ngày mai ông ấy sẽ khỏe hơn,” Tu sĩ Tưởng dịu dàng nói. “Không khí ở đây đối với người lạ mới đến rất khó thở, nhưng rồi chẳng mấy chốc sẽ quen đi.”

Conway cảm thấy mình như sực tỉnh khỏi cơn mê. “Sự việc đối với anh ấy có phần khó chịu,” anh nói, giọng nhẹ nhàng, buồn rầu. Rồi anh nói thêm giọng mạnh mẽ hơn: “Tôi cho rằng tất cả chúng ta đều cảm thấy điều đó. Vậy, tốt hơn hết việc bàn cãi này xin hoãn lại để đến ngày mai và bây giờ ta hãy đi ngủ. Barnard, anh để ý coi sóc Mallinson nhé? Và, cô Brinklow, tôi chắc cô cũng cần đi ngủ.” Đã có một số tín hiệu nào đó đưa ra nên liền lúc ấy một người hầu xuất hiện. “Được, chúng tôi sẽ xong bây giờ - chào anh - tôi sẽ theo ra ngay.” Anh gần như đẩy mấy người ra khỏi phòng, rồi không còn giữ đúng lễ nghi, trái hẳn với cái phong cách trước đây của anh. Anh quay lại phía chủ nhân. Câu trách cứ của Mallinson đã kích động anh.

“Nào, thưa ông, tôi cũng không muốn giữ ông ở lại lâu nên tốt hơn là ta vào vấn đề ngay. Anh bạn của tôi có nóng tính nhưng tôi cũng không trách anh ta, anh ta rất chính đáng khi đòi hỏi làm sáng tỏ mọi sự việc. Cuộc hành trình trở về của chúng tôi cần phải được thu xếp, và chúng tôi không thể làm được việc này nếu không được ông hoặc những người khác ở đây giúp đỡ. Tất nhiên, tôi cũng biết rời đây ngay ngày mai là không thể được và riêng phần tôi, tôi mong rằng làm sao chúng tôi chi phải ở lại đây một thời giam ngắn nhất là điều hết sức thú vị. Nhưng có thể các bạn tôi không có cùng ý nghĩ như tôi. Cho nên, nếu đúng sự thực như ông nói là ông không thể làm gì được để giúp chúng tôi, thì xin ông cho chúng tôi được gặp ai đó có thể giúp được chúng tôi trong việc này.”

Vị tu sĩ Trung Quốc đáp: “Thưa ngài, ngài thực khôn ngoan hơn ông bạn của ngài, nên ngài không nôn nóng. Tôi rất lấy làm mừng.”

“Đây không phải là câu trả lời.”

Tu sĩ Tưởng bắt đầu cười, tiếng cười giật giọng, khúc khích, rõ ràng là gượng gạo. Conway nhận ra ngay đây là một cách giả vờ lịch sự khi thấy câu vừa nói là một câu nói đùa tưởng tượng, mà người Trung Hoa vẫn dùng để khỏi bẽ mặt vào những trường hợp khó xử. Sau một lúc, ông ta mới đáp lại: “Tôi cảm thấy chắc chắn là ông không vì việc gì mà phải lo lắng về vấn đề này. Tất nhiên, đến một lúc nào đó chúng tôi sẽ có thể đem hết sức mình giúp các ông thực hiện việc cần thiết. Như ông cũng có thể hình dung thấy là có nhiều khó khăn, nhưng nếu tất cả chúng ta cùng nghiên cứu để giải quyết vấn đề một cách đúng đắn và không vội vã…”

“Tôi không đặt vấn đề một cách vội vã. Tôi chỉ muốn hỏi để biết về phu khuân vác.”

“Ồ, thưa ngài thân mến, đây lại là vấn đề khác. Tôi không tin các ông lại dễ dàng tìm được người chịu nhận đi xa như vậy. Họ đều có gia đình ở trong thung lũng này, họ đâu có muốn rời nhà để đi những chuyến đi ra vùng bên ngoài đường dài và khó khăn.”

“Tuy nhiên, vẫn có thể thuyết phục họ đi được nếu không thì tại sao sáng nay họ đã đi cùng ông và là đi đâu vậy?”

“Sáng nay ư? Ồ, đây lại là vấn đề khác.”

“Khác ở chỗ nào? Phải chăng, khi tôi và các bạn tôi ngẫu nhiên gặp ông sáng nay, không phải là ông đang thực hiện một chuyến đi xa?”

Không có câu trả lời, Conway liền tiếp tục nói, giọng bình tĩnh hơn. “Tôi hiểu. Vậy, đó không phải là một cuộc gặp ngẫu nhiên. Thực tế tôi đã nghĩ mãi từ lâu về việc này. Vậy là ông đã có chủ định đến để đón chúng tôi. Điều ấy tỏ rõ các ông hẳn đã biết trước việc chúng tôi bị đưa đến đây. Và xin có câu hỏi thú vị là làm thế nào mà các ông lại biết được?”

Những lời anh nói phần nào làm căng bầu không khí yên tĩnh kỳ thú của quang cảnh. Ánh sáng ngọn đèn lồng soi rõ gương mặt vị tu sĩ Trung Quốc; một gương mặt bình tĩnh như của một pho tượng. Thốt nhiên, khẽ lấy tay huơ, ông ta phá vỡ sự căng thẳng, gạt tấm rèm lụa sang một bên, ông mở một cửa sổ dẫn ra ngoài bao la. Rồi, khẽ chạm vào cánh tay Conway, ông dẫn anh ra ngoài không khí lạnh trong suốt như pha lê. “Ông thực là người tài trí”, giọng ông ta mơ màng, “Nhưng không phải đã hoàn toàn đúng. Vì lẽ đó, tôi muốn khuyên ông không nên để các bạn ông phải lo âu vì những cuộc bàn cãi trừu tượng nọ. Xin ông hãy tin ở tôi, cả ông cũng như các bạn ông, không có ai sẽ gặp phải một nỗi nguy hiểm gì ở Shangri-La này.”

“Nhưng chúng tôi đâu có lo lắng về chuyện sẽ gặp nguy hiểm. Chúng tôi chi bực mình về chuyện phải trì hoãn ở lại đây lâu mà thôi.”

“Tôi hiểu điều đó. Và, tất nhiên, có thể các ông sẽ phải ở lại đây một thời gian, một điều không thể tránh khỏi.”

“Nếu chỉ một thời gian ngắn và thực sự là không thể tránh khỏi thì, tất nhiên, chúng tôi sẽ gắng hết sức mình chịu đựng.”

“Ồ, một ý nghĩ mới đúng đắn làm sao! Vì chúng tôi không mong gì hơn ông cùng các bạn ông sẽ thấy vui vẻ trong thời gian nán lại ở đây.”

“Thế thì rất hay, và như tôi đã nói với ông, riêng tôi, tôi có thể nói tôi sẽ không bận tâm lắm. Tôi cho đây là một tình huống mới và thú vị, và dù sao thì chúng tôi cũng cần được nghỉ ngơi đôi chút.”

Vừa nói anh vừa đưa mắt ngước lên nhìn ngọn Karakal hình tháp đang lấp lánh đằng xa. Lúc ấy, dưới ánh trăng vằng vặc, dường như vươn cao một bàn tay là có thể chạm tới nó, nom nó sáng quá, cái ánh sáng của một vật giòn, dễ vỡ, in hình lên khoảng mênh mông màu xanh lam phía bên kia.

“Ngày mai,” tu sĩ Tưởng nói, “Ông có thể còn thấy nó thú vị hơn nhiều. Ngoài ra, nếu các ông mệt, thì trên đời này không có nơi nào tốt hơn ở đây để các ông nghi ngơi.”

Thực vậy, trong lúc Conway tiếp tục ngắm nhìn, một cảm giác yên tĩnh nghỉ ngơi bao trùm lên anh, như thể quang cảnh kia làm dịu cặp mắt và cả tâm hồn anh. Không có lấy một gọn gió, trái hẳn với những cơn gió gào thét trên cao nguyên mà anh đã gặp đêm qua; anh cảm thấy toàn bộ khu thung lũng là một khu cảng khóa kín nằm trong đất liền, với ngọn Karakal bao trùm như một ngọn hải đăng. Nhìn ngọn núi, anh mỉm cười vì thực sự là có ánh sáng trên đỉnh núi, một ánh sáng le lói màu xanh băng giá phù hợp với vẻ huy hoàng lộng lẫy mà nó phản ánh. Có một cái gì đã khiến anh tìm hỏi nghĩa đen của cái tên đó, và câu trả lời của tu sĩ Tưởng vẳng lên như tiếng vang thì thầm trong phút mơ màng của chính anh. “Karakal, theo tiếng thổ dân thung lũng ở đây, có nghĩa là Trăng xanh,” tu sĩ Trung Quốc nói.

Conway không đưa ra kết luận rằng việc anh cùng mấy người đến Shangri-La đã bằng cách nào đó được mọi người ở đây trông đợi. Anh đã có ý nghĩ phải nói điều này ra và anh biết vấn đề rất quan trọng; nhưng sáng ra, điều này anh không quan tâm mấy, có chăng chỉ ở ý nghĩa lý thuyết mà thôi và anh đã co lại không muốn gây thêm lo âu cho người khác. Một phần con người trong anh khẳng định rằng có một cái gì đó rất kỳ quặc ở nơi này, rằng thái độ của tu sĩ Tưởng buổi chiều hôm trước không đáng để tín cậy, và mấy người bọn anh, rõ ràng là bị cầm tù, trừ khi và chỉ cho đến khi có các quan chức chính quyền chịu ra tay giúp họ. Và rõ ràng anh có bổn phận phải buộc chính quyền ở đây làm điều đó. Suy cho cùng, ít ra thì anh cũng là người thay mặt cho chính phủ Anh quốc; thực hết sức phi lý những người ở một tu viện Tây Tạng lại từ chối một yêu cầu chính đáng của anh… Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là quan điểm bình thường của một người ở cương vị công chức; và một phần của Conway vừa là con người bình thường vừa là công chức. Trong những trường hợp khó khăn không ai đóng vai người hùng giỏi hơn anh; trong những khó khăn cuối cùng trước việc di tản, cách xử sự của anh (anh nghĩ sai đi một chút) đáng lẽ đã khiến anh ít nhất là được phong tặng tước hầu và một cuốn tiểu thuyết được giải thưởng Henty, mang tên Với Conway ở Baskul.

Tự nhận lấy trách nhiệm lãnh đạo mấy chục kiều dân của nhiều nước, gồm phụ nữ và trẻ em, anh đã để tất cả trú ngụ tại khu lãnh sự quán chật hẹp trong những ngày cách mạng sôi động đẫm máu do những người kích động bài ngoại gây lên; anh đã vừa cương quyết, vừa mềm dẻo, thuyết phục được đám người này để họ bằng lòng cho di tản bằng đường hàng không toàn bộ số kiều dân; anh cảm thấy thành tích ấy không phải là tồi. Có thể bằng cách chạy vạy và viết hàng đống báo cáo, anh có thể sẽ kiếm được một cái gì đó trong lễ Huân chương Năm Mới sắp tới. Nhưng, dù sao thì anh cũng đã chiếm được lòng thán phục nhiệt thành của Mallinson. Rủi thay, giờ đây anh chàng thanh niên ấy hẳn vô cùng thất vọng về anh. Tất nhiên, thật đáng tiếc, nhưng Conway vốn đã quen với việc người ta chỉ mến thích anh khi họ hiểu lầm anh. Anh không thật sự là con người cương quyết, có tài ba hoa lên lớp dạy người, và dốc lòng dốc sức vào xây dựng đế chế; sự làm ra vẻ như vậy ở anh đủ là một vở kịch ngắn một hồi thỉnh thoảng lại được số phận và Bộ ngoại giao Anh thu xếp với nhau để diễn lại, với số lượng mà một người nào đó có thể tìm thấy trong những trang sách của Whitaker.

Sự thực là, điều bí ẩn ở Shangri-La và việc chính anh đến đây, đã bắt đầu tác động đến anh một cách quyến rũ hấp dẫn. Dù sao thì anh cũng không cảm thấy có gì để lo âu cho bản thân. Công việc chính quyền anh đảm nhận luôn có khả năng đẩy anh đến những vùng kỳ quặc trên thế giới, và như thông lệ, đến chỗ càng kỳ quặc anh càng thấy bớt buồn tẻ; vậy việc gì mà cằn nhằn vì rủi ro ngẫu nhiên, chứ không phải vì một tờ giấy phép của chính phủ đã đẩy anh đến vùng kỳ quặc nhất thế giới này?

Thực tế, anh không cằn nhằn ca thán gì hết. Sáng ra, lúc thức dậy, nhìn qua cửa sổ thấy bầu trời trong xanh dìu dịu, anh chẳng nghĩ đến việc chọn một nơi khác trên thế giới, không kể Peshawur14 hay Piccadilly15. Anh vui mừng khi thấy mấy người cùng đi với anh, qua một đêm nghỉ ngơi, họ đều thấy phấn khởi hơn. Barnard đã có thể nói đùa vui vẻ về giường nằm, bồn tắm, về bữa ăn điểm tâm và những tiện nghi mến khách khác. Cô Brinklow thì thừa nhận cô xét nét mấy cũng không thấy có gì đáng chê trách mà trước kia cô vẫn tưởng sẽ có về căn phòng cô ngủ. Ngay Mallinson cũng thấy nửa thỏa mãn, nửa hờn dỗi. Anh lầm bầm nói: “Tôi nghĩ kỹ thấy hôm nay chúng ta chưa có thể rời đây để trở về, trừ phi có người nào thực tích cực lo liệu cho. Những người ở đây đúng là con người phương Đông, không thể nhờ họ làm giúp việc gì nhanh và hữu hiệu.”

Conway chấp nhận câu nhận xét. Mallinson rời nước Anh chưa đầy một năm; không còn nghi ngờ gì thời gian khá dài, đủ để chứng minh một ý niệm khái quát mà có lẽ anh sẽ vẫn còn nhắc đi nhắc lại khi anh đã ra ngoài hai mươi năm. Và, tất nhiên, ý niệm ấy đúng ở một mức độ nào đó. Nhưng với Conway anh không cho rằng các dân tộc phương Đông đều chậm chạp một cách không bình thường, mà đúng hơn là người Anh và người Mỹ đã khuấy động cái thế giới này để nó luôn ở trong cơn nóng sốt phi lý. Đây là một quan điểm mà anh không nghĩ là được một người phương Tây nào tán thành; nhưng càng nhiều tuổi và càng từng trải anh càng tin vào điều đó. Mặt khác, đúng là tu sĩ Tưởng là người rất tế nhị trong việc nói nước đôi, từ chối hoặc lẩn tránh và thái độ nóng nảy của Mallinson là rất đúng. Conway phần nào ước muốn anh cũng có thể cảm thấy mình nóng nảy; như vậy sự thể đối với anh chàng trẻ tuổi sẽ dễ dàng hơn.

Anh nói: “Chúng ta nên cứ đợi và xem hôm nay sẽ đạt được cái gì. Có lẽ mong họ làm một việc gì ngay tối hôm qua là quá lạc quan đây.”

Mallinson quắc mắt ngước nhìn: “Thế anh nghĩ tôi xử sự như thằng ngốc chăng khi tôi vội vã như vậy? Tôi không thể nhịn được; trước đây, tôi đã nghĩ vị tu sĩ người Trung Quốc này rất đáng nghi, và bấy giờ tôi vẫn nghĩ là như vậy. Thế hôm qua, sau khi tôi đi ngủ, anh đã moi được điều gì ở hắn ta?”

“Ông ta cũng không nán lại lâu để nói chuyện với tôi. Ông ta có phần mập mờ và không hứa hẹn một điều gì hết.”

“Hôm nay ta phải buộc hắn bỏ cái thái độ ấy đi.”

“Nhất định rồi,” Conway đáp, vẻ không phấn khởi lắm trước viễn cảnh. “Trong lúc chờ đợi, đây là một bữa điểm tâm tuyệt vời”. Bữa ăn có bưởi, trà và bánh chapatti16, sự sửa soạn và phục vụ tuyệt hảo. Lúc gần xong bữa, tu sĩ Tưởng bước vào và khẽ cúi đầu chào, trao đổi những câu chúc tụng chào hỏi thường lệ mà ở ngôn ngữ Anh, nghe hơi chối tai. Conway những muốn nói chuyện bằng tiếng Trung Quốc, nhưng từ trước đến giờ anh vẫn giữ ý không để ông ta biết là anh biết nói một thứ tiếng phương Đông nào; anh cho đây có thể là một chủ bài anh cần giữ kín. Anh nghiêm trang nghe những lời chào hỏi lịch sự của tu sĩ Tưởng, rồi đáp lại là anh đã ngủ ngon giấc và bấy giờ cảm thấy dễ chịu hơn. Nghe nói vậy tu sĩ Tưởng tỏ vẻ vui thích và nói thêm: “Thật thế, đúng như một nhà thơ của các ông dã nói: Giấc ngủ vá lại ống tay áo lo âu bị rách.”

“Lối bày tỏ thông thái ấy không được tiếp nhận vui vẻ.” Mallinson đáp lại với một chút coi khinh mà bất kỳ một thanh niên đầu óc lành mạnh nào ở Anh đều phải cảm thấy vậy khi nghe trích dẫn câu thơ. “Tôi nghĩ ông vừa muốn nói đến Shakespeare phải không, tuy tôi không nhận ra lời vừa trích dẫn? Nhưng tôi cũng được biết một nhà thơ khác nói: Đừng giẫm chân tại chỗ theo thứ tự anh đi mà phải đi ngay. Không phải là vô lễ đâu mà đây đúng là điều mà tất cả chúng tôi đều mong muốn được thực hiện. Và, nếu ông đồng ý, chúng tôi muốn được ngay lập tức sáng hôm nay đi thuê một số phu khuân vác.”

Tu sĩ Trung Quốc tiếp nhận câu nói gay gắt của anh một cách bình tĩnh, sau một lúc lâu ông đáp lại: “Tôi lấy làm buồn khi phải nói rằng ông làm như vậy sẽ chẳng có ích gì. Tôi e rằng chúng tôi không kiếm đâu được người sẵn sàng đi xa nhà quá lâu như vậy để đưa đường hầu các ông.”

“Trời ơi, thưa ông, ông không cho rằng chúng tôi sẽ coi đây là một câu trả lời, phải không ông?”

“Tôi thành thật lấy làm tiếc, nhưng tôi không thể có ý kiến khác được.”

“Hình như ông che đậy đi tất cả từ tối hôm qua,” Barnard nói. “Vậy lúc ấy ông không biết chắc lắm phải không?”

“Tôi không muốn khiến các ông thất vọng vào lúc các ông quá mệt mỏi sau một chuyến đi như vậy. Giờ đây, sau một đêm sức khỏe hồi phục, tôi hy vọng các ông sẽ nhìn nhận vấn đề tỉnh táo hơn.”

“Xem kìa,” Conway vội vã ngắt lời nói “Cái cách nói mơ hồ và lảng tránh ấy không thích hợp đâu. Ông cũng biết là chúng tôi không thể ở lại đây vĩnh viễn. Và rõ ràng là tự bản thân chúng tôi không làm cách nào để trở về được. Vậy, ý ông định thế nào?”

Tu sĩ Tưởng mỉm cười rõ ràng, vẻ hớn hở chi tỏ rõ đối với Conway mà thôi. “Thưa ông, tôi rất vui lòng được nói thẳng ra ý nghĩ của mình. Với thái độ của bạn ông thì không có câu trả lời, còn với yêu cầu của một người lịch thiệp thì thế tất là có câu đáp lại. Ông có thể còn nhớ, tôi tin vậy, đúng như hôm qua bạn ông đã có nhận xét rằng, chúng tôi thỉnh thoảng phải có những sự liên lạc với xã hội bên ngoài. Điều đó rất đúng. Thỉnh thoảng chúng tôi có đặt mua một số dụng cụ của một kho hàng ở xa và chúng tôi vẫn quen nhận được hàng đúng kỳ hạn, còn nhận bằng cách nào và qua những thủ tục gì thì thiết nghĩ các ông cũng chẳng cần bận tâm. Điều quan trọng là hàng đặt như vậy, phải được giao đến nhanh chóng và những người giao hàng sau đó sẽ trở về, tôi thấy dường như các ông có thể điều đình với họ. Quả thực tôi không thể nghĩ được một kế hoạch tốt hơn và tôi mong rằng khi họ tới…”

“Bao giờ thì họ tới?” Mallinson hùng hổ cắt ngang.

“Tất nhiên, ngày giờ nhất định thì không thể biết được. Bản thân ông hẳn cũng có kinh nghiệm về những khó khăn trong việc vận chuyển ở vùng này. Hàng trăm thứ có thể xảy ra gây khó khăn không tính trước được, như sự thay đổi thời tiết…”

Conway lại nói xen vào: “Xin ông hãy cho biết rõ điểm này. Ông gợi ý chúng tôi nên thuê những người sắp mang hàng tới đây làm người dẫn đường cho chúng tôi. Ý kiến ấy rất hay, nhưng chúng tôi cũng xin phép hỏi thêm về vấn đề này. Trước hết, như đã hỏi ông trước, bao giờ thì có triển vọng những người ấy đến được đây? Và hai là, họ sẽ đưa chúng tôi về đâu?”

“Câu hỏi ấy ông cần đặt ra với họ.”

“Liệu họ có đưa chúng tôi trở về Ấn Độ không?”

“Tôi thực khó có thể nói được.”

“Vậy xin ông cho hỏi một câu khác. Bao giờ thì họ sẽ tới đây? Tôi không dám hỏi ngày tháng rõ rệt, tôi chỉ xin cho biết vào khoảng thời gian nào thì họ sẽ tới, tuần lễ sau hay năm sau?”

“Có thể vào khoảng một tháng nữa. Có thể không quá hai tháng.”

“Hoặc ba, bốn hay năm tháng.” Mallinson nóng nảy cắt ngang. “Và ông nghĩ chúng tôi sẽ nằm ở đây đợi cái đám hay đoàn người hoặc bất kỳ cái gì đó đến đưa chúng tôi đến nơi có trời mới biết là ở đâu và vào một thời gian hoàn toàn mơ hồ, trong một tương lai xa xôi chăng?”

“Thưa ông, nói một tương lai xa xôi thực không đúng lắm. Trừ phi có một điều gì bất ngờ xảy ra, còn khoảng thời gian chờ đợi sẽ không lâu hơn thời gian tôi đã nói.”

“Nhưng hai tháng! Hai tháng ở chỗ này! Thật phi lý! Conway hẳn anh cũng không thể chịu được! Thế nào, hai tuần đã là quá lắm!”

Tu sĩ Tưởng vén gọn chiếc áo khoác quanh người, cử chỉ có phần dứt khoát, ông nói: “Tôi thực lấy làm buồn. Tôi không muốn làm phật lòng các ông. Tu viện sẽ tiếp tục cung cấp đầy đủ cho các ông với lòng mến khách cao đẹp nhất trong suốt thời gian các ông không may phải ở lại đây. Và tôi không thể nói gì hơn nữa.”

“Ông không cần phải nói,” Mallinson giận dữ đáp lại. “Nếu các ông tưởng đã khống chế được chúng tôi thì các ông sẽ thấy là các ông đã lầm to! Chúng tôi sẽ mướn được đủ số người dẫn đường mà chúng tôi cần, xin ông đừng lo. Ông có thể cứ cúi đầu, gãi gãi và muốn nói gì thì nói…”

Conway nắm lấy cánh tay Mallinson để kìm anh lại. Trong cơn nóng giận Mallinson đã hoạt động như một đứa trẻ; anh có thể nói bừa bãi, không đếm xỉa đến tình thế và phép lịch sự. Conway thấy hành động của một người có thể chất như vậy và lại lâm vào một hoàn cảnh như vậy, thì thực không có gì đáng trách, nhưng anh sợ làm như vậy có thể xúc phạm đến một người Trung Quốc vốn là người tế nhị dễ chạm lòng tự ái. Rất may, tu sĩ Tưởng đã rất tế nhị lảng đi ra ngoài đúng lúc để tránh được việc xấu tệ nhất có thể xảy ra.