← Quay lại trang sách

Chương năm

Sáng hôm đó, họ bàn cãi tiếp vấn đề. Với bốn người, đây chắc chắn là một cú sốc; đáng lẽ bình thường ra thì lúc này họ phải đang thảnh thơi sống và vui chơi tại các câu lạc bộ và các nhà truyền giáo ở Peshawar, vậy mà giờ đây họ lại phải đương đầu với viễn cảnh ở lại tu viện Tây Tạng này hai tháng. Nhưng sự đời là thế, sau cú sốc đầu tiên khi tới đây, họ bớt phẫn nộ và bớt ngạc nhiên; ngay Mallinson, sau lần đầu tiên nổ tung nóng nảy, anh dịu đi chỉ còn nửa ngơ ngác về định mệnh. Anh nói: “Anh Conway, tôi không còn bàn cãi về vấn đề này nữa”, vừa nói anh vừa hút bập bập điếu thuốc lá, vẻ bực dọc nóng nảy. “Anh hẳn biết lòng dạ tôi ra sao. Từ trước, tôi đã nói việc này có một cái gì kỳ lạ. Nó quanh co làm sao ấy. Tôi muốn chấm dứt ngay việc này.”

“Tôi không trách chú về điều ấy”, Conway đáp. “Nhưng khổ thay, đây không phải là vấn đề một người nào đó trong chúng ta muốn gì, mà là tất cả chúng ta phải làm gì đây để chịu đựng vượt qua. Thật ra mà nói, nếu những người ở đây nói họ không muốn hoặc không thể cung cấp cho ta một số người dẫn đường cần thiết thì chúng ta cũng không còn có cách gì hơn là đợi cho đến lúc những người kia đến. Tôi lấy làm buồn khi phải thừa nhận trong vấn đề này, chúng ta hoàn toàn bất lực không tự lo liệu được, nhưng tôi e rằng đây là sự thật.”

“Anh muốn nói là chúng ta đành phải ở lại đây hai tháng chăng?”

“Tôi thấy chúng ta chẳng thể nào làm khác được.”

Mallinson búng tàn thuốc lá, vẻ cố làm ra thờ ơ. “Vậy, thôi được. Thì hai tháng. Giờ đây chúng ta hãy gào lên hoan hô điều ấy.”

Conway nói tiếp: “Tôi chẳng thấy hai tháng ở đây là tồi tệ hơn hai tháng ở một vùng hẻo lánh nào khác. Dân trong nghề nghiệp của chúng ta vẫn thường được cử đi đến những nơi kỳ cục, tôi nghĩ tôi có thể nói điều đó của tất cả chúng ta. Tất nhiên, với những người có bạn bè, họ hàng thân thích mong đợi thì đây là điều đáng buồn. Bản thân tôi, tôi được cái may mắn về mặt ấy. Tôi chẳng có ai lo lắng xót xa cho tôi, còn về công việc của tôi thì bất kỳ việc gì một ai đó cũng có thể làm được một cách dễ dàng.”

Nói rồi, anh quay về phía mọi người như mời họ nói lên tâm trạng của mình. Mallinson nín thinh không nói gì, nhưng Conway cũng đã biết đại khái về hoàn cảnh của anh. Mallinson có bố mẹ và người yêu ở Anh; sự thể vì thế mới gay go.

Barnard, mặt khác, lại chấp nhận hoàn cảnh như Conway đã học được, coi đây là một trò đùa quen thuộc. “Ồ, về vấn đề này, tôi thấy mình rất may, hai tháng ở trại giam cũng chẳng giết chết được tôi. Còn như người thân ở thành phố quê hương của tôi thì họ thản nhiên không quan tâm. Vả lại tôi vốn là người không quen viết thư.”

“Nhưng anh quên là tên họ chúng ta sẽ được nêu trên báo chí”, Conway nhắc lại cho anh ta nhớ. “Người ta sẽ ra thông báo là tất cả chúng ta bị mất tích và tất nhiên mọi người sẽ cho là chúng ta đã gặp hoàn cảnh tồi tệ nhất.”

Barnard nghe nói tỏ vẻ sửng sốt một chút, rồi khẽ nhếch mép cười, đáp: “Ồ, đúng vậy, nhưng cái đó, tôi không quan tâm, các anh cứ yên trí.”

Conway vui mừng khi thấy sự thể đã không làm Barnard bận tâm, nhưng vấn đề vẫn còn hoi khó hiểu. Anh quay lại phía cô Brinklow từ nãy cứ lặng im; suốt lúc anh trao đổi với tu sĩ Tưởng, cô không hề có ý kiến gì. Anh nghĩ có thể cô ta cũng có ít điều riêng tư để phiền muộn. Cô vui vẻ nói: “Đúng như ông Barnard vừa nói, hai tháng ở lại đây chẳng có gì đáng để lo lắng. Con người ta ở đâu thì cũng vậy thôi khi người ta phục vụ Chúa. Thượng đế đã cử tôi đến đây. Tôi coi đây là một sứ mạng.”

Conway coi đây là thái độ thích hợp nhất đối với hoàn cảnh. “Tôi tin chắc,” anh nói để động viên “Khi cô trở về, hội truyền giáo của cô sẽ rất vui lòng. Cô sẽ có thể cung cấp được nhiều tin tức có ích. Về vấn đề này tất cả chúng ta sẽ rút được kinh nghiệm. Điều ấy sẽ an ủi chúng ta được phần nào.”

Câu chuyện sau đó chuyên sang vấn đề chung. Conway có phần ngạc nhiên khi thấy Barnard và cô Brinklow thích nghi với hoàn cảnh mới một cách dễ dàng. Tuy nhiên, anh cũng thấy nhẹ bớt nỗi lo âu; chỉ còn lại một người là còn bực bội. Nhưng ngay cả Mallinson, sau lần tranh cãi căng thẳng, cũng đang thấy có phản ứng; anh vẫn còn lo lắng, song đã vui lòng hơn khi nhìn vào khía cạnh sáng sủa của vấn đề. “Họa có Trời biết chúng ta sẽ tìm thấy gì khi đành chịu bó tay,” anh thốt lên nói, nhưng chỉ việc nói lên câu đó cũng tỏ rõ anh đang khuôn mình cam chịu.

“Điều thứ nhất phải tuân theo là tránh không được chọc tức nhau,” Conway đáp. “Cũng may, nơi này xem ra cũng rộng lớn, và không đông dân quá. Ngoài mấy người phục vụ, cho đến nay chúng ta chỉ trông thấy có một người dân ở đây.”

Barnard còn tìm được một lý do khác để tỏ ra lạc quan. Anh nói: “Dù sao thì chúng ta cũng sẽ không chết đói, nếu thức ăn của chúng ta cho đến nay đều vào loại ngon. Conway, anh biết đây, nơi này sống được phải có rất nhiều tiền. Những cái bồn tắm ở đây chẳng hạn nó phải đắt tiền lắm. Và tôi cũng chẳng thấy người nào ở đây kiếm ăn được chút gì, trừ những người ở dưới thung lũng là có làm việc, mà ngay cả làm như vậy họ cũng không sản xuất đủ để bán ra ngoài. Tôi muốn tìm hiểu xem họ có khai thác thứ mỏ gì không?”

“Cả cái vùng này là một bí mật chó chết,” Mallinson đáp lại. “Tôi dám nói là ở đây họ có hàng túi tiền giấu ở đâu đó, như đám người tín đồ dòng Tên. Còn về những cái bồn tắm. Có thể là do một số nhà triệu phú nào đây cung tiến. Nhưng dù sao thì cái ấy cũng không làm tôi bận tâm một khi tôi rời khỏi nơi đây. Tuy vậy, tôi cũng phải nói thật, phong cảnh ở đây rất đẹp, đẹp theo lối của họ. Một trung tâm thể thao mùa đông, nếu ở vị trí tốt. Tôi không hiểu trên mấy sườn núi đằng kia có thể trượt tuyết được không?”

Conway đưa mắt thăm dò và hơi vui vui nhìn anh. “Hôm qua, khi tôi nhìn thấy mấy cây edelweiss, chú đã nhắc tôi rằng đây không phải là miền núi Alps. Tôi nghĩ bấy giờ đến lượt tôi lại nhắc chú điều ấy. Tôi khuyên chú chớ có giở môn Wengen-Scheidegg17 ở vùng này.”

“Tôi nghĩ không có ai ở đây đã nhìn thấy một người trượt tuyết.”

“Hoặc ngay cả một trận đấu hockey trên băng.” Conway đáp lại, giễu cợt. “Chú có thể thử lập mấy đội.” Về các ngài Lama thì sao?

“Chắc chắn có cái đó sẽ dạy được các ngài ấy chơi.” Cô Brinklow nói thêm vào, vẻ nghiêm trang, vui vẻ.

Bàn luận cho đầy đủ vấn đề này thì có thể còn khó khăn, nhưng không cần thiết vì bữa ăn trưa đã sắp được dọn ra và đặc điểm của nó kết hợp với việc phục vụ nhanh chóng đã tạo nên một ấn tượng dễ chịu. Về sau, khi tu sĩ Tưởng bước vào, mọi người có chút khuynh hướng muốn tiếp tục cuộc cãi vã. Rất tinh tế khôn khéo, tu sĩ Tưởng làm như ông ta vẫn quan hệ tốt với mọi người và bốn người kia cũng chấp nhận ý nghĩ ấy. Thực tế, khi tu sĩ gợi ý là bốn người có thể đi tham quan, để biết thêm các ngôi nhà của tu viện, và nếu mọi người đồng ý, ông sẽ rất lấy làm vui lòng được làm người hướng dẫn, thì tất cả đều vui lòng chấp nhận.

“Ổ, đồng ý quá đi chứ!” Barnard nói. “Trong lúc ở lại đây chúng tôi muốn được xem qua cấu trúc của tu viện này lắm! Tôi cho rằng còn lâu mới có một ai trong bọn chúng tôi trở lại thăm nơi này một lần nữa.”

Cô Brinklow đưa ra một câu sâu sắc hơn: “Khi rời Baskul trên chiếc máy bay này, tôi tin chắc tôi không hề mơ thấy bọn chúng tôi lại bị đưa đến một chỗ như thế này,” cô lẩm bẩm nói khi tất cả đứng lên đi theo tu sĩ Tưởng.

“Và, chúng tôi cũng không biết tại sao chúng tôi lại phải như thế này,” Mallinson đáp lại, vẻ vẫn không quên.

Conway vốn không có thành kiến về chủng tộc hoặc màu da, và đối với anh là một sự giả vờ khi làm ra vẻ kính trọng cái “màu trắng” của gương mặt đỏ tôm hùm dưới cái mũ cát, như đôi khi anh đã làm ở các câu lạc bộ và trong các toa xe lửa hạng nhất. Nhiều khi làm như vậy cũng đỡ gấy rắc rối, nhất là ở Ấn Độ, mà Conway là người có ý thức tránh gây phiền nhiễu. Nhưng ở Trung Quốc, việc làm đó ít cần thiết hơn; anh có nhiều bạn người Trung Quốc; và không bao giờ anh lại đối xử coi họ là người kém cỏi dưới mình. Do đó, trong khi chuyện trò trao đổi với tu sĩ Tưởng, anh khá thảnh thơi coi ông là một ông già thượng lưu kiểu cách có thể không đáng tin cậy hoàn toàn, nhưng chắc chắn là người rất thông minh. Mallinson mặt khác có ý nghĩ là nhìn ông ta qua những tấm song sắt của một cái lồng tưởng tượng. Cô Brinklow thông minh, hoạt bát, coi ông ta như người ngoại đạo mù quáng; còn Barnard, con người hiền từ hay pha trò hài hước, thì coi ông là loại người mà anh muốn phong cho chức quản gia.

Cuộc đi tham quan khắp khu vực tu viện Shangri-La khá thích thú đã dẹp đi tất cả những ý nghĩ trên. Đây không phải là tu viện đầu tiên Conway được tham quan, nhưng rõ ràng đây là tu viện lớn nhất, và không kể vị trí của nó, tu viện này vẫn thực phi thường nhất. Chi đi diễu qua những căn phòng và những khu sân vườn cũng đã là cả một buổi chiều đi mỏi chân, mặc dầu anh biết còn nhiều căn phòng, nhiều tòa nhà tu sĩ Tưởng không để mọi người vào tham quan. Tuy nhiên, chi xem thế cũng đã đủ giúp cho họ càng khẳng định thêm những ấn tượng mà mỗi người trong họ đã có từ trước. Barnard càng tin chắc hơn bao giờ hết là các tu sĩ ở đây đều giàu có; cô Brinklow phát hiện thấy nhiều bằng chứng là họ không có đạo đức. Mallinson, sau những giấy phút đầu tiên ngỡ ngàng trước sự mới lạ, thấy trong người anh cũng mệt mỏi không kém những chuyến đi tham quan ở miền dưới; các vị Lama, anh thấy không có thể là những vị anh hùng dưới mắt anh.

Duy có Conway là mỗi lúc một thấy bị quyến rũ vui vẻ thêm. Những phẩm vật, riêng từng thứ, không hấp dẫn anh bằng sự phát hiện ra dần dần cái tính chất tao nhã, cái khiếu thẩm mỹ khiêm tôn và hoàn hảo, cái hòa điệu thơm ngát đến mức mắt nhìn thấy dịu mát không biết chán. Thực thế, chỉ với sự cố gắng có ý thức, anh sống lại từ tâm trạng nhà nghệ sĩ đến tâm trạng một người sành sỏi và rồi anh đã nhận thấy những kho báu mà nhiều bảo tàng và nhà tỷ phú đều muốn có, những đồ gốm thời Tống tuyệt hảo, màu ngọc trai xanh lam, những bức tranh thủy mạc được gìn giữ trên một nghìn năm, những bức sơn mài với những chi tiết lạnh lùng và đáng yêu của tiên giới được phối xếp công phu còn nhiều hơn được miêu tả. Một thế giới những gì là tinh tế tao nhã vô song vẫn còn lung linh trên những phẩm vật bằng sứ và những bức sơn dầu, tạo nên một phút xúc động trước khi tan biến thành những ý nghĩ thuần túy. Ở đây không có sự khoe khoang, không chạy theo cách tạo hiệu quả, không tập trung để tác động vào tình cảm của người xem. Những vật hoàn hảo tế nhị ở đây có vẻ như vỗ cánh bay vào cuộc sống, khác nào những cánh hoa tung ra từ một bông hoa. Chúng đã có thể khiến các nhà sưu tập phát điên, nhưng Conway không phải người đi sưu tập; anh không có tiền mà cũng không có cả cái bản năng tích trữ. Lòng yêu thích nghệ thuật Trung Hoa ở anh lại là một vấn đề tinh thần, tâm hồn; trong một thế giới ngày càng tăng nhiều tiếng động và sự ưa chuộng cái to lớn, anh lại quay về trong riêng tư với những cái gì là tế nhị, chính xác và những phẩm vật nhỏ xíu. Trong lúc đi qua phòng này sang phòng khác, có một mối cảm xúc nào đó dấy lên trong anh một cách xa xôi khi nghĩ về cái mênh mông chất lên ngọn núi Karakal đè lên những vẻ quyến rũ mong manh này.

Tuy vậy, tu viện ở đây, ngoài những đổ cổ Trung Quốc trưng bày còn có nhiều cái khác để người tham quan có thể thưởng thức. Chẳng hạn, một trong những nét nổi bật của tu viện là cái thư viện kỳ thú, cao ngất và rộng rãi, trong chứa đựng vô vàn là sách, tất cả được xếp kín đáo, ngăn nắp trong những phòng xây lồi ra, những phòng xây lõm vào, khiến toàn bộ tạo nên cái không khí của khôn ngoan, lịch duyệt nhiều hơn là tri thức, của sự lịch thiệp nhiều hơn là vẻ nghiêm trang. Conway đưa mắt nhìn qua mấy giá sách thấy có rất nhiều quyển khiến anh phải ngạc nhiên. Dường như ở đây có tất cả những tác phẩm văn học hay nhất thế giới, cùng rất nhiều những cuốn thâm thúy khó hiểu kỳ lạ mà anh không thể đánh giá được. Những cuốn sách bằng tiếng Anh, Pháp, Đức và tiếng Nga có rất nhiều, và có cả vô số những nguyên bản viết bằng chữ cổ Trung Quốc và của nhiều nước phương Đông khác. Một bộ phận đã khiến anh đặc biệt thích thú là những cuốn chuyên đề về Tây Tạng, Tây Tạng học, nêu có thể gọi là như vậy. Anh để ý thấy có nhiều cuốn rất hiếm, trong đó có cuốn Novo Descubrimento de grao catayo ou dos Regos de Tibet, tác giả là Antonio de Andrada (Xuất bản tại Lisbon, năm 1626); cuốn China của Athanasius Kircher (Antwerp, 1667); cuốn Voyage à la Chine des Pères Grueber et d’Orville của Thevenot và cuốn Relazione Inedita di un hiaggio al Tibet của Beligatti. Anh đang xem xét cuốn vừa kể trên thì để ý thấy tu sĩ Tưởng cứ nhìn anh một cách tò mò dịu dàng. Ông ta hỏi: “Ông có lẽ cũng là một học giả phải không?”

Conway thấy khó trả lời. Với thời gian giảng dạy ở Oxford, anh cũng có quyền nhận mình là một học giả, song anh thấy từ ấy nói ra từ miệng một người Trung Hoa thì đây là một lời khen ngợi ca tụng cao quý nhất, nhưng người Anh thấy nó có chút ít hợm hĩnh, và nhất là vì lẽ tính đến mấy người cùng đi, nên anh từ chối không nhận. Anh nói: “Tất nhiên tôi rất thích đọc sách, nhưng do công việc bận rộn mấy năm gần đây tôi không có dịp để chăm đọc sách.”

“Thế ông vẫn còn ước ao được đọc sách?”

“Ồ, tôi không muốn nói như vậy, nhưng tôi biết chắc chắn là sách còn hấp dẫn tôi.”

Mallinson vừa lấy một cuốn sách, nói xen vào: “Cái này là cái cần cho cuộc sống chăm đọc sách của anh, anh Conway. Đây là một tấm bản đồ của vùng này.”

“Chúng tôi hiện có một tập mấy trăm tấm bản đồ loại này,” tu sĩ Tưởng nói. “Các ông có thể tự do xem kỹ, nhưng có lẽ tôi có thể nói trước để các ông đỡ tốn công ở một điểm. Các ông sẽ không thấy có ghi tên Shangri-La ở trên một tấm nào hết.”

“Kỳ cục nhỉ!” Conway nói. “Tôi không hiểu tại sao như vậy?”

“Có một lý do xác đáng, song tôi e rằng tôi chỉ có thể nói được thế thôi.”

Conway mỉm cười, nhưng Mallinson lại tỏ vẻ cáu giận. “Lại thêm một điều bí hiểm,” anh nói: “Cho đến lúc này chúng ta chưa được nhìn thấy mấy nỗi nên người ta còn cố ý che giấu.”

Thốt nhiên, cô Brinklow trở nên linh hoạt hẳn lên sau một thời gian yên lặng để suy nghĩ. “Ông có thể cho chúng tôi được dự xem lúc các vị Lama làm việc không?” Tiếng cô thánh thót, giọng nói người ta cảm thấy có thể làm nhiều thủy thủ của ông Cook18 phải sợ hãi. Người ta cũng cảm thấy trong đầu óc cô có lẽ đang đầy những cảnh mờ mờ về những đồ thủ công của người bản xứ, những người thợ đan dệt những tấm thảm nệm để quỳ lễ, cầu kinh, hoặc một cái gì đó rất cổ xưa và rất đẹp mà cô có thể nói lại rất nhiều khi cô trở về nhà. Cô có cái sở trường kỳ lạ là không bao giờ tỏ ra quá ngạc nhiên, nhưng bao giờ cũng xem như có vẻ hơi một chút bất bình, một sự kết hợp những tính tình vững tín mà câu tu sĩ Tưởng trả lời đã không làm cô mảy may bối rối: “Tôi lấy làm buồn khi phải nói rằng điều ấy là không thể được. Không bao giờ, hoặc có lẽ tôi phải nói là chỉ rất hiếm khi, người ngoài giới Lama được nhìn thấy các vị Lama.”

“Vậy,” Barnard nói: “Chúng tôi sẽ không được trông thấy các vị ấy sao? Nhưng tôi thấy rõ ràng đây là một điều đáng tiếc. Ông không thấy được chúng tôi thích được bắt tay vị tu viện trưởng của các ông đến mức nào đâu.”

Tu sĩ Tưởng nói lời cảm tạ dịu dàng nghiêm chỉnh. Song cô Brinklow không chịu bị gạt ra. Cô tiếp tục hỏi: “Xin ông cho biết công việc của các vị Lama là làm gì?”

“Thưa bà, các vị ấy toàn tâm toàn trí lo việc tu hành để đạt tới đỉnh cao của thần thông quảng đại.”

“Nhưng như vậy không phải là làm việc!”

“Vâng, thưa bà, các vị ấy không làm gì hết.”

“Tôi cũng nghĩ như vậy.” Cô có dịp để tóm tắt. “Thưa ông Tưởng, được xem tất cả những thứ này thực là một điều thú vị, tôi chắc chắn là như vậy, nhưng có điều ông chưa thuyết phục được tôi rằng tu viện đây đã làm được điều gì tốt. Tôi muốn cái đó thực tế hơn.”

“Có lẽ các vị muốn dùng trà?’

Thoạt đầu, Conway không hiểu, tu sĩ hỏi như vậy để giễu cợt chăng, nhưng rồi anh thấy rõ ngay không phải vậy; buổi chiều trôi qua nhanh chóng và tu sĩ Tưởng, tuy ăn uống rất thanh đạm, song vẫn có cái thích thú điển hình của người Trung Quốc là chốc chốc lại dùng trà. Cô Brinklow cũng thú nhận là hễ đi thăm các nhà bảo tàng và trưng bày nghệ thuật, cô thường thấy hơi nhức đầu. Do đó, cả mấy người đều chấp nhận ý kiến của tu sĩ vừa đưa ra và họ theo ông đi qua mấy cái sân đến một nơi quang cảnh đột nhiên đẹp vô cùng. Từ những bậc thềm có cột hàng hiên, mọi người bước xuống một khu vườn, giữa vườn có một hồ sen, lá sen đan khít khiến người ta có cảm giác mặt hồ là một nền nhà xếp kín với những viên ngói ươn ướt màu xanh lục. Viền quanh hồ có trưng bày một bầy dã thú khắc trên những tấm đồng thau: Sư tử, rồng và kỳ lân, mỗi con có một dáng hung dữ cách điệu, tất cả làm tăng thêm vẻ thanh bình của khung cảnh vấy quanh, chứ không hề làm tổn thương nó. Toàn bộ bức tranh cân xứng tuyệt hảo, khiến mắt nhìn ung dung, từ từ quan sát, không chút vội vã, không có sự ganh đua hay hợm hĩnh, và thậm chí cả đỉnh ngọn Karakal sừng sững vô song bên trên những mái nhà lợp ngói rêu xanh dường như cũng chịu tuân theo để góp phần vào cái khung cảnh của một tác phẩm nghệ thuật kỳ thú.

“Một nơi nhỏ nhắn xinh đẹp thực,” Barnard thốt lên ngợi khen, khi tu sĩ Tưởng dẫn mọi người bước vào một khu đình tạ, trong có bày một cây đàn harpsichord19 và một cây dương cầm cỡ lớn, điều mà Conway rất thích thú. Anh thấy, theo một cách nhìn nào đó, thì đây là đỉnh cao của sự ngạc nhiên trong buổi chiều đầy ngạc nhiên hôm ấy. Tu sĩ Tưởng đã trả lời tất cả những câu hỏi của anh một cách hết sức chân thực vào đúng vấn đề; ông ta giải thích các vị Lama ở đây rất coi trọng âm nhạc Tây Phương, đặc biệt là nhạc của Mozart; ở đây, có một bộ sưu tập về tất cả các bản nhạc châu Âu và có một số đông nhạc công thiện nghệ, mỗi người sử dụng một nhạc khí.

Barnard chủ yếu quan tâm đến vấn đề vận chuyển. “Có phải ý ông nói cấy đàn dương cầm này được vận chuyến tới đây theo con đường mà hôm qua chúng tôi đi phải không?”

“Không có con đường nào khác.”

“Ồ, vậy thì chắc chắn đây là một điều vượt xa hết thảy! Sao, với một chiếc máy quay đĩa và một chiếc radio là các ông đầy đủ! Có lẽ, tuy vậy, các ông vẫn chưa được làm quen với âm nhạc hiện đại chăng?”

“Ồ, thưa có, chúng tôi cũng đã nhận được những thông báo về các thứ đó, nhưng chúng tôi được cho biết là núi cao làm sự tiếp nhận vô tuyến không thực hiện được, còn như máy hát, các vị lãnh đạo tu viện cũng đã nhận được ý kiến gợi ra nên mua sắm, nhưng các vị chúng tôi thấy chưa cần vội.”

“Ông chẳng nói tôi cũng biết là như vậy.” Barnard nói. “Tôi đoán khẩu hiệu của giới các ông là Từ từ.” Anh phá ra cười và rồi nói tiếp: “Ồ, đi vào chi tiết, giả dụ vào lúc nào đó các vị lãnh đạo của ông quyết định cần có một chiếc máy hát thì các ông làm thế nào để có được? Nhà sản xuất chắc chắn họ không giao hàng tại đây. Các ông hẳn phải có cơ sở môi giới ở Bắc Kinh hoặc Thượng Hải hay ở đâu đó, và tôi đánh cuộc là mọi thứ sẽ rất tốn kém khi các ông làm việc này.”

Nhưng tu sĩ Tưởng không dễ bị lôi kéo sâu hơn lần trước. “Những lời ông phỏng đoán rất là thông minh, ông Barnard, nhưng tôi e rằng tôi không thể bàn luận được.”

Conway nghĩ bụng: Vậy là họ lại đẩy lui đường ranh giới vô hình giữa cái có thể và cái không có thể nói lộ ra. Anh nghĩ chẳng mấy nữa anh có thể bắt đầu vạch ra trong trí tưởng tưởng con đường ấy, mặc dầu có tác động của một điều ngạc nhiên mới trì hoãn vấn đề. Vì mấy người phục vụ đã mang vào những bát nông đựng nước trà thơm và cùng đi theo đám người Tây Tạng nhanh nhẹn, chân tay uyển chuyển, còn có một cô gái ăn vận quần áo Trung Quốc bước vào theo một cách kín đáo. Cô gái đi thẳng vào chỗ cây đàn Harpsichord và bắt đầu chơi một điệu nhạc Gavotte20 của Rameau. Tiếng bật đầu tiên của cây đàn đã khiến Conway vừa thích thú vừa ngạc nhiên một cách lạ lùng; những tiếng đàn, một điệu nhạc trong trẻo của thế kỷ 18 Pháp dường như cũng thanh nhã như những chiếc bình cổ thời Tống, như mấy bức tranh sơn mài kỳ thú và khu ao sen phía đàng kia; vẫn cái hương thơm ngát bất hủ phảng phất quanh tiếng đàn, dẫn sự bất tử đi qua một thời đại mà đã lạ lẫm với tình thần của nó. Anh chú ý đến người dạo đàn. Cô gái có cái mũi dài thon thả, đôi gò má cao, nước da xanh vỏ trứng của người Mãn Thanh; mái tóc đen tết chặt thành hai dải ở phía sau; nom cô gái thực hoàn hảo và nhỏ nhắn. Miệng cô như một bông hoa bìm bìm màu hồng, dáng điệu rất dịu dàng, trừ có đôi bàn tay búp măng. Điệu Gavotte vừa dạo xong, cô gái khẽ cúi đầu chào rồi đi ra.

Tu sĩ Tường nhìn theo cô mỉm cười, rồi với vẻ hân hoan đắc thắng, ông hỏi Conway: “Ông có lấy làm thú vị không?”

“Cô ấy là ai?” Mallinson hỏi trong lúc Conway chưa kịp trả lời.

“Tên cô ấy là Lo-Tsen. Cô ấy đánh những bản nhạc Tây Âu rất giỏi. Và cũng như tôi, cô ấy chưa được chính thức phong chức Lama.”

“Quả thực, tôi cũng nghĩ vậy!” Cô Brinklow thốt lên nói.

“Nom cô ấy chẳng hơn gì một em bé. Vậy ra, tại tu viện các ông có cả Lama nữ?”

“Kỳ quặc thật, cái chức Lama của các ông.” Mallinson nói, vẻ kiêu ngạo, sau một lúc yên lặng. Cuộc uống trà tiếp tục và từ đây không ai chuyện trò gì nữa; âm vang của tiếng đàn dường như còn phảng phất trên không, khiến mọi người vẫn như say mê một cách lạ lùng. Rồi, dẫn mọi người rời khu đình tạ, ông tu sĩ hy vọng cuộc đi tham quan đã khiến mọi người vui vẻ. Conway thay mặt mọi người đối đáp với những lời lẽ lịch sự thông thường. Tu sĩ Tưởng nói ông cũng vui thích không kém và mong rằng trong thời gian ở lại đây, mọi người sẽ coi phòng âm nhạc và thư viện là nơi họ được tự do sử dụng. Conway, có phần chân thành, ngỏ lời cám ơn ông và hỏi thêm: “Thế nhưng còn các vị Lama thì sao? Có bao giờ, các vị ấy muốn sử dụng những thứ ấy không?”

“Các vị ấy rất vui lòng được nhường chỗ cho các vị khách quý.”

“Ồ, thế mới gọi là thực sự hào phóng chứ!” Barnard nói. “Và hơn nữa, điều đó chứng tỏ các vị Lama thực sự biết chúng tôi có mặt ở đây. Dù sao thì đây cũng là một bước tiến khiến tôi thấy yên tâm hơn nhiều. Thưa ông Tưởng, ở đây hẳn là các ông có một đoàn người cừ khôi, và cô gái vừa chơi đàn Piano thực tuyệt. Cô ấy năm nay bao nhiêu tuổi, hở ông?”

“Tôi e rằng tôi không thể nói ông biết được.”

Barnard cười nói: “Ông không để lộ tuổi tác của một cô gái phải không?”

“Đúng thế.” Tu sĩ Tưởng đáp lại với nụ cười hơi sa sầm.

Chiều hôm đó, sau bữa ăn, Conway có dịp một mình ra ngoài đi dạo trong sân yên tĩnh đấy ánh trăng. Quang cảnh Shangri-La lúc ấy thực xinh đẹp, có điểm thêm cái vẻ huyền bí lẩn sâu trong mọi vật xinh đẹp đáng yêu. Không khí lạnh và tĩnh mịch; cái tháp Karakal khổng lồ nom gần hơn, gần hơn nhiều khi nhìn nó lúc ban ngày. Trong người Conway cảm thấy vui sướng, cảm xúc được thỏa mãn, tinh thần thoải mái; nhưng trong phần trí tuệ, không hẳn như phần tâm hồn, anh thấy có một chút gì khuấy động. Anh thấy bối rối. Đường ranh giới bí mật mà anh đã bắt đầu vẽ ra đã trở nên rõ rệt hơn. Song chỉ để lộ ra một cái nền bí hiểm khó nhìn thấu được. Toàn bộ một loạt những sự kiện kinh ngạc đã xảy ra với anh và ba người bạn đường ngẫu nhiên giờ đây quấy tụ vào một tiêu cự; anh chưa hiểu được hết chúng, nhưng anh tin rằng rồi anh sẽ hiểu được.

Dọc theo một hàng hiên, anh đi đến một bậc thềm nghiêng mình trên khu thung lũng. Mùi hoa huệ ngào ngạt quanh anh, có biết bao nhiêu liên tưởng êm dịu; ở Trung Quốc người ta gọi nó là “Mùi thơm của ánh trăng”. Trong đầu anh nảy sinh một ý nghĩ kỳ lạ là nếu ánh trăng cũng có âm thanh thì hẳn đây là nhạc điệu Gavotte Rameau mà anh vừa được nghe, và ý nghĩ đó dẫn anh nghĩ đến cô gái Mãn Thanh nhỏ bé. Chưa bao giờ anh hình dung là ở Shangri-La lại có phụ nữ; người ta thường cho là ở nơi tu hành không bao giờ có nữ. Tuy nhiên, ngẫm nghĩ, anh thấy đây có thể là một sự đổi mới, không phải không thú vị; thực tế, một nữ nghệ sĩ đàn Harpsichord có thể là một tài sản quý của cộng đồng tự cho phép mình (như lời tu sĩ Tưởng nói) “Cuồng tín” một cách vừa phải.

Anh ngắm nhìn qua đỉnh núi cao và trong khoảng trống xanh đen. Cái dốc đứng thật là ma quái, có lẽ sâu đến một dặm. Anh phân vân không biết anh có được phép đi xuống đây để quan sát cuộc sống văn minh của khu thung lũng vẫn thường được nói đến không. Khái niệm về cái túi văn hóa nọ nằm lấp kín giữa những dãy núi cao tên tuổi không ai biết đến và thuộc quyền cai quản của một thứ chính trị thần quyền mơ hồ nào đó đã hấp dẫn anh với tư cách là một sinh viên khoa sử, không kể đến những cái bí mật kỳ lạ tuy có thể chỉ là có quan hệ với tu viện Lama này.

Thốt nhiên, một làn gió đưa đến những âm thanh từ bên dưới xa xôi kia. Chăm chú lắng nghe, anh có thế nghe rõ tiếng cồng và kèn Trumpet và cả (tuy chỉ có thể là do óc tưởng tượng) những tiếng rên rỉ than vãn tập trung lại. Những âm thanh ấy dịu nhỏ đi khi gió đổi hướng, rồi vang lên trở lại và lại dịu đi. Nhưng cái gợi nhắc đến cuộc sông và vẻ sôi động ở những nơi sâu thẳm mờ kín này đủ làm tăng thêm vẻ thanh bình khắc khổ của Shangri-La. Những khu sân hoang vắng, những đình tạ nhợt xanh, lấp lánh ngủ yên và từ đáy mọi phiền muộn của cuộc sống đều dạt xa, đã để lại một sự im lặng mà thời gian không dám bước qua. Rồi, từ một khung cửa sổ cao tít bên trên thềm đất anh nhìn thấy ánh đèn lồng vàng hồng, phải chăng đây là nơi các vị Lama tĩnh tâm tu luyện, và phải chăng, lúc này, các vị đang tu luyện? Dường như để trả lời những câu hỏi ấy chi cần bước qua cánh cửa gần đây nhất và quan sát các phòng, các đường hành lang là tìm ra được sự thật; nhưng anh biết tự do như vậy là ảo tưởng, bởi mỗi cử động của anh đều bị người ta quan sát. Hai người Tây Tạng đã đi ngang qua thềm và thơ thẩn đi đến gần bao lơn. Nom họ vui vẻ, họ đang lắc nhẹ chiếc áo choàng màu che đôi vai trần. Tiếng cồng và kèn văng vẳng lại nổi lên. Conway nghe thấy một người hỏi người kia. Người kia trả lời: “Họ làm lễ mai táng Talu.” Conway chỉ biết lõm bõm tiếng Tây Tạng; anh mong họ nói chuyện tiếp; qua một câu vừa rồi, anh chưa hiểu được gì lắm. Sau một lúc lặng yên, người hỏi lúc nãy do không nghe rõ, lại tiếp tục câu chuyện và được người kia trả lời.

Conway nghe lỏm được mấy câu và hiểu đại khái như sau:

“Anh ta chết ở ngoài.”

“Anh ta vâng lời các vị cao cấp ở Shangri-La.”

“Anh vượt qua biết bao nhiêu núi cao với một con chim mang anh.”

“Anh mang theo cả mấy người lạ.”

“Talu không sợ gió bên ngoài, cũng như lạnh ở bên ngoài.”

“Tuy đi ra ngoài đã lâu, thung lũng Trăng Xanh vẫn nhớ anh.”

Conway nghe không hiểu hơn nữa, và sau một lúc chờ đợi, anh trở về phòng của mình. Anh đã nghe đủ để quay một vòng chìa khóa khác vào trong cái bí mật bị khóa kín, và cái chìa khóa ấy quá khớp khiến anh ngạc nhiên sao mình lại không tạo ra nó từ những suy luận của mình. Tất nhiên, điều ấy đã có nảy ra trong đầu anh, nhưng rồi một cái phi lý lại mở đầu và điều kỳ quái về nó đã khiến anh không chịu được. Giờ đây, anh thấy cái phi lý ấy dù có kỳ quái đến đâu cũng phải nuốt đi. Chuyên bay từ Baskul không hề là một hành vi vô nghĩa của một người điên. Nó là một cái gì đó đã được tính toán, chuẩn bị và thi hành theo chủ mưu của Shangri-La. Những người sống ở đây biết tên anh phi công chết, theo một nghĩa nào đây thì anh ta là người của bọn họ, người ta than khóc cái chết của anh. Tất cả hướng về một đầu óc thông minh chỉ đạo từ trên cao xuống nhằm vào mục đích của mình; nghĩa là đã có một nhịp cầu những ý đồ nối liền các giờ bay và các dặm đường. Nhưng ý đồ ấy là gì? Vì lý do gì bốn người hành khách ngẫu nhiên trong chiếc máy bay của Chính phủ Anh lại bị cướp đi mang đến vùng hẻo lánh xuyên Hi mã lạp sơn này?

Conway kinh ngạc trước vấn đề nhưng không hoàn toàn khó chịu. Nó thách thức anh chỉ theo một cách mà anh sẵn sàng nhận đây là - bằng cách phải tỏ ra sáng suốt đầu óc và điều này chỉ đòi hỏi đây là một nhiệm vụ cần thiết. Có một điều mà anh quyết định ngay: Điều phát hiện rợn người giật gân nọ phải chưa được thông báo cho ai biết, kể cả những người cùng đi với anh, họ không thể giúp gì được anh, cũng như cho những vị chủ nhà, những người này chắc chắn là không muốn giúp anh.