Chương mười
Lạ thường, hết sức lạ!” Tu sĩ Tưởng thốt lên như vậy khi nghe nói Conway đã lại gặp tu viện trưởng lần thứ hai. Mấy tiếng ấy thốt ra từ miệng một người rất không thích dùng những từ nói lên cao độ, nên rất có ý nghĩa. Việc này từ xưa đến nay chưa từng có, ông nhấn mạnh, vì lề thói ở tu viện đây đã được định rõ; không bao giờ Lama tu viện trưởng lại muốn gặp lần thứ hai khi chưa hết năm năm thử thách để gột sạch mọi tình cảm có thể có của người nhập đạo. “Vì, như ông biết đây, nói chuyện với người bình thường mới đến sẽ khiến ngài bị căng thẳng. Sự hiện diện những ham muốn của con người đã là một điều khiến tuổi già của người khó chịu, gần như không kham nổi. Nói thế không phải tôi ngờ gì sự khôn ngoan lịch duyệt của ngài về vấn đề này. Mà tôi tin rằng đây là ngài đã dạy cho chúng tôi một bài học rất quý giá - rằng ngay cả những luật lệ đã cố định của cộng đồng chúng tôi cũng chỉ là cố định một cách có mức độ. Song dù sao, đây vẫn là một sự kiện lạ thường.”
Với Conway, tất nhiên, việc ấy chẳng có gì lạ hơn những sự việc khác, và sau khi anh đã đến thăm ngài tu viện trưởng lần thứ ba, rồi lần thứ tư thì anh bắt đầu cảm thấy nó chẳng có gì là rất lạ thường. Thực vậy, dường như đã có cái gì sắp xếp trước, định trước để hai tâm hồn của vị Lama và của anh dễ dàng gặp nhau, như thể ở Conway, mọi sự căng thẳng thầm kín đều được giãn ra, khiến anh khi đi ra, thấy trong lòng cực kỳ thanh thản. Đôi khi anh có cảm giác như bị mê hoặc bởi cái quyền lực của đức thông minh đang ngồi giữa phòng kia, và rồi, trước những bát nước trà màu xanh nhạt nhỏ bé, mọi nghi lễ thu nhỏ lại thành một thứ sinh động, dịu dàng và nhỏ bé đến mức khiến anh có ấn tượng đây là một định lý đang hòa tan cái trong suốt thành một bài thơ.
Nội dung câu chuyện trao đổi giữa hai người thực rộng và không né tránh gì hết; mọi triết học đều được đề cập đến; những con đường rộng lớn dài dặc của lịch sử cũng chịu để hai người xem xét kỹ và có những điều có thể mới mẻ được đưa ra. Với Conway, đây là những giờ phút mê li, song anh không từ bỏ thái độ ý kiến chống lại khi cần thiết, và có một lần, khi anh tranh luận về một điểm gì đó, vị Lama đã đáp: “Con ơi, con còn ít tuổi, nhưng ta thấy, đức khôn ngoan lịch duyệt của con lại chín chắn như một người già. Hẳn đã có một sự việc khác thường nào đó xảy ra với con?”
Conway mỉm cười: “Thưa cha, nó cũng chẳng khác gì như đã xảy ra cho nhiều người khác thuộc thế hệ con.”
“Từ trước đến nay, ta chưa gặp một người nào như con.”
Sau một lát, Conway đáp: “Về cái đấy chẳng có gì là bí ẩn cho lắm. Cái phần của con mà cha xem như già nua là do sớm phải trải qua những thử thách nặng nề. Đúng là từ năm mười chín đến hai mươi hai, con đã nhận một sự giáo dục quan trọng nhất, nhưng nó có phần làm con kiệt sức.”
“Trong Chiến tranh con gặp nhiều điều không may?”
“Không hẳn như vậy. Sự thực, cũng như hàng triệu người khác, con đã bị kích thích và có khuynh hướng muốn tự sát, con sợ hãi và sống liều lĩnh và đôi khi ở trong cơn cuồng giận. Con đã uống rượu như điên và giết người, sống cực kỳ phóng đãng. Con đã dùng sai, phí phạm mọi xúc cảm của mình, và khi đã dính vào một chút, cuộc sống vô cùng buồn chán và dằn vặt. Cái đó đã khiến cho những năm về sau khó khăn. Đây không phải con phóng đại tô vẽ cuộc đời con thêm bi thảm. Nói chung, kể từ đó con cũng đã rất may. Nhưng chẳng khác gì đang ở một nhà trường có ông hiệu trưởng tồi - ở đây nếu muốn, anh vẫn có được nhiều điều vui thích, song chốc chốc lại gặp những chuyện bực mình, không thực sự hài lòng cho lắm. Con nghĩ con thấy rõ điều này, có phần rõ hơn nhiều người.”
“Và cứ như vậy tiếp tục sự phát triển của con?”
Conway nhún vai, “Có lẽ khi đam mê cạn kiệt là bắt đầu của khôn ngoan, lịch duyệt, nếu cha muốn thay đổi câu ngạn ngữ.”
“Con ơi, đây cũng là giáo lý của Shangri-La.”
“Con biết. Và vì thế con thấy rất thoải mái.”
Anh đã chỉ nói lên sự thực. Ngày qua ngày, tuần lễ lần lượt trôi qua, anh bắt đầu cảm thấy một mong muốn mãn nguyện hòa hợp tâm hồn với thể xác. Cũng như Perrault, Henschell và nhiều người khác, anh như bị mê đi. Trăng Xanh đã hút lấy anh và anh không có lối thoát. Những ngọn núi lấp lánh bốn bề tạo thành một hàng rào tinh khiết không vươn tới được và từ đây, mắt anh lóa lên nhìn xuống thung lũng sâu thẳm xanh xanh; toàn bộ bức tranh không có gì so sánh nổi, và khi nghe tiếng đàn harpsichord đều đều trong suốt vang vọng qua hồ sen anh cảm thấy đây là sợi chỉ xuyên suốt cảnh vật và âm thanh.
Anh biết anh đã thầm lặng yêu cô gái nhỏ nhắn Mãn Châu. Tình yêu của anh không đòi hỏi gì hết, thậm chí dù chỉ là một lời đáp lại; đây là một biểu hiện quý trọng của tâm hồn, mà các giác quan của anh chỉ cộng thêm vào một hương vị. Với anh, cô gái là biểu tượng của tất cả những gì thanh tú và mảnh mai; tác phong lịch sự đúng nghi thức của cô và mấy ngón tay cô chạm vào bàn phím tạo nên một tình thân hoàn toàn thỏa mãn. Đôi khi anh muốn nói chuyện với cô theo cách, nêu cô ưng thuận, sẽ mở đầu cho câu chuyện trao đổi bớt hình thức, nhưng sự đáp lại của cô không bao giờ vượt qua sự kín đáo tế nhị của những ý nghĩ của cô và theo một ý nghĩa nào đó, anh cũng không muốn nó vượt qua. Đột nhiên, anh nhận thức được mặt đơn độc của viên ngọc quý đầy hứa hẹn; anh có Thời gian, Thời gian cho mọi cái mà anh muốn nó xảy ra, cái Thời gian mà ngay sự thèm muốn cũng bị dập tắt trong niềm tin chắc là nó sẽ được thực hiện. Từ nay, một năm, mười năm vẫn còn Thời gian. Điều mơ tưởng lớn lên trong anh và anh lấy đó làm sung sướng.
Rồi, đôi lúc, anh bước vào một cuộc sống khác để gặp sự nóng giận của Mallinson, tính vui vẻ của Barnard, ý đồ thiết thực của cô Brinklow. Anh cảm thấy anh sẽ vui mừng biết mấy khi tất cả những người này cũng biết rõ như anh; và như tu sĩ Tưởng, anh có thể hình dung thấy cả anh chàng người Mỹ lẫn cô truyền giáo đều không gây khó khăn. Thậm chí, anh còn thấy vui vui khi Barnard có một lần nói: “Anh Conway, anh biết đây, tôi không giám chắc nơi đây không phải là nơi khá thú vị để sinh cơ lập nghiệp. Thoạt đầu, tôi nghĩ tôi thiếu báo chí và phim ảnh nhưng giờ đây tôi nghĩ con người ta có thể quen với tất cả.
“Phải, tôi cũng nghĩ vậy,” Conway gật đầu đồng tình.
Về sau, anh mới biết tu sĩ Tưởng đã có lần dẫn Barnard xuống thung lũng, theo yêu cầu của anh ta để được hưởng mọi thứ vui, kiểu một “đêm dã ngoại”, những thứ mà nguồn địa phương đây có thế cung cấp. Nghe tin đó, Mallinson tỏ vẻ khinh miệt, “Hắn say bí tỉ.” Anh nói với Conway, và với chính Barnard, anh ta nói: “Tất nhiên đấy không phải công việc của tôi, nhưng hẳn anh cũng biết là phải giữ mình cho khỏe để còn đi xa. Phu khuân vác chỉ nửa tháng nữa sẽ tới, và theo như tôi được biết thì chuyên trở về không phải là cưỡi ngựa xem hoa đâu.”
Barnard điềm tĩnh gật đầu đáp: “Tôi chẳng bao giờ nghĩ như vậy. Và để giữ sức khỏe, tôi thấy bấy giờ tôi đủ sức hơn mấy năm về trước. Hằng ngày tôi tập thể dục, tôi chẳng lo nghĩ gì, và quán bán rượu dưới thung lũng họ cũng không để cho mình uống quá say đâu, có mức độ, như anh biết đấy - châm ngôn của vùng này mà.”
“Vâng tôi biết, tôi tin chắc ông đã vui chơi rồi. Ở đây, người ta phục vụ mọi sở thích - có người lại thích cô bé Trung Quốc vẫn chơi đàn dương cầm, đúng không? Anh không thể trách cứ một ai vì người ấy làm theo sở thích của mình.”
Conway không thấy khó chịu, nhưng Mallinson đỏ mặt lên như chú bé học trò. “vẫn có thể bỏ tù một kẻ nào đó khi hắn thích tài sản của người khác.” Anh đốp chát trả lời, con điên giận đã làm anh không còn bình tĩnh suy nghĩ nữa.
“Hẳn rồi, nếu anh bắt được hắn.” Anh chàng người Mỹ nhe răng cười, hòa nhã. “Và nhân tiện tôi có điều này xin nói thẳng với mọi người. Tôi đã quyết định không nghĩ gì đến những người phu khuân vác nữa. Họ vẫn đến đây đều đặn, tôi sẽ đợi họ chuyến sau và có thể là chuyến sau nữa. Nghĩa là, nếu các tu sĩ ở đây tin tôi vẫn còn đủ tiền trả tiền khách sạn.”
“Ông nói thế có nghĩa là ông sẽ không về cùng với chúng tôi.”
“Đúng vậy. Tôi đã quyết định ở lại đây một thời gian. Các ông về thì vui biết mấy - sẽ có quân nhạc ra đón, còn ra đón tôi chỉ là một đám cảnh sát, càng nghĩ đến chuyện ấy, tôi càng chẳng muốn về chút nào.”
“Nói cách khác, nghĩa là ông sợ không dám nghe tiếng nhạc chứ gì.”
“Ồ, dù sao thì tôi vốn chẳng bao giờ thích âm nhạc.”
Mallinson nói, vẻ lạnh lùng khinh miệt: “Tôi không nghĩ đây là việc của riêng ông. Không ai ngăn cản không cho ông ở lại đây suốt đời, nếu đây là chí hướng của ông.” Tuy nhiên, nói xong anh vẫn nhìn quanh để tìm sự tán đồng. “Điều đó không phải là cái mà mọi người sẽ lựa chọn, mỗi người mỗi ý kiến. Anh nghĩ thế nào, anh Conway?”
“Tôi đồng ý. Mỗi người mỗi ý kiến khác nhau.”
Mallinson quay lại phía cô Brinklow. Cô ta đột nhiên đặt cuốn sách xuống và nói: “Sự thực, tôi nghĩ tôi cũng sẽ ở lại đây.”
“Thế nào?” Tất cả mấy người đồng thanh thốt lên với một nụ cười rạng rỡ, dường như gắn liền với gương mặt của cô hơn là nó được làm rạng rỡ.
Cô nói tiếp: “Các ông biết đây, trên đường đi tôi đã nghĩ đến sự thể diễn biến đưa tất cả chúng ta đến đây, và tôi chỉ có thể đi đến một kết luận: Hẳn đằng sau sự việc phải có một quyền lực huyền bí nào đó sai khiến. Ông Conway, ông có nghĩ như vậy không?”
Conway thấy khó trả lời, nhưng cô Brinklow đã vội vã nói tiếp: “Tôi phải hỏi ai bây giờ về những lệnh của Thượng đế? Tôi được phái đến đây với một mục đích, vậy tôi sẽ ở lại.”
“Có phải cô muốn cô hy vọng sẽ bắt đầu việc truyền giáo ở đây?” Mallinson hỏi.
“Không những chỉ hy vọng mà tôi đã có ý định rõ rệt. Tôi biết rõ cách làm việc với những người dân ở đây - Tôi sẽ làm theo cách riêng của tôi, đừng sợ. Không một ai trong họ thực sự dám cản trở đâu.”
“Và cô định giới thiệu một vài người?”
“Phải, tôi sẽ giới thiệu, ông Mallinson ạ. Tôi phản đối kịch liệt cái ý niệm có mức độ mà chúng ta vẫn nghe nói quá nhiều ở đây. Ông có thể gọi đó là rộng lượng, là khoan dung, tùy ý, nhưng theo tôi, việc đó sẽ dẫn đến thứ biếng nhác tệ hại nhất. Toàn bộ sự rắc rối với người dân ở đây là cái mà họ gọi là rộng lượng, là khoan dung, và tôi, tôi có ý định đem hết năng lực của mình ra chống đối để tiêu diệt nó.”
“Và họ rộng lượng đến mức sẽ để mặc cho cô làm chăng? Conway nói, miệng mỉm cười.
“Nếu không, cô ấy là con người kiên quyết đến mức họ sẽ không cản được,” Barnard nói xen vào. Rồi cười khúc khích, anh ta nói thêm: “Đúng như tôi đã nói: Ở đây người ta phục vụ sở thích của tất cả mọi người mà.”
“Có thể, cả nếu anh thích ngồi tù.” Mallinson bốp chát lại.
Ồ, ngay về cái đó cũng có hai cách nhìn. Lạy Chúa, nếu anh nghĩ đến tất cả nhũng người trên đời đã phải mất hết của cải để thoát con náo loạn và để vào ở một chỗ như chỗ này, có điều họ không thể thoát ra! Vậy chúng ta hay họ đang ngồi tù?”
“Một lối lý luận an ủi cho một con khỉ nằm trong cũi.” Mallinson đáp lại, anh vẫn còn giận dữ.
Về sau, anh nói riêng với Conway: “Anh chàng này làm tôi khó chịu lắm.” Vừa nói anh vừa đi đi lại lại trong sân. “Tôi không lấy làm buồn về việc chúng ta sẽ không có anh ta cùng trở về. Anh có thể cho tôi là dễ tự ái, nhưng chế giễu tôi với cô bé Trung Quốc thì không thể làm tôi đùa được.”
Conway cầm lấy cánh tay Mallinson. Giờ đây, anh càng thấy rõ anh rất yêu mến anh thanh niên này, mấy tuần vừa qua sống bên nhau đã khiến tình cảm thêm đậm đà, mặc dầu mỗi người một nết. Anh đáp: “Tôi nghĩ hắn ta nói tôi phải lòng cô ta chứ không phải chú.”
“Không, tôi nghĩ hắn định ám chỉ tôi. Hắn biết tôi vẫn để ý đến cô ta. Đúng thế, anh Conway ạ. Tôi không hiểu tại sao cô ta lại ở đây, và không biết theo cô ta có thực sự muốn ở lại đây không. Trời ơi, nếu tôi biết nói tiếng của cô ta như anh, thì tôi sẽ khiến được cô ta nói cho tôi biết.”
“Cũng chưa chắc. Chú biết đây, cô ta có nói với ai nhiều đâu.”
“Tôi rất không hiểu tại sao anh lại không quấy rầy cô ta với đủ thứ câu hỏi.”
“Tôi không biết mình có thích quấy rầy người khác hay không?”
Anh muốn có thể nói được nhiều hơn nữa, rồi thốt nhiên, anh thấy có một cảm giác thương hại và châm biếm tràn qua anh như một làn sương mù mỏng; anh thanh niên này, một con người rất hăm hở và sôi nổi, anh ta sẽ bám rất chặt vấn đề. “Nếu tôi là chú,” anh nói thêm, “Tôi sẽ chẳng lo nghĩ gì về cô Lo-Tsen. Cô ta đang sống khá sung sướng đấy thôi.”
Quyết định ở lại đây của Barnard và cô Brinklow dường như đối với Conway là rất tốt, tuy bề ngoài vào lúc này, nó đẩy anh và Mallinson đứng vào một phía đối lập. Một hoàn cảnh lạ lùng và anh chưa có kế hoạch rõ rệt để xử lý nó.
Cũng may rõ ràng không cần phải xử lý. Từ nay cho đến hai tháng, không có gì quá đáng xảy ra; và sau đó là một cuộc khủng hoảng không kém gay gắt vì anh phải chuẩn bị cho bản thân nhập cuộc. Bởi lẽ đó và nhiều lý do khác, anh không lo phiền về điều đó không thể tránh được, tuy đã có một lần anh nói: “Này ông Tưởng, ông biết đây, tôi rất lo về Mallinson. Tôi e rằng khi biết rõ sự việc, chú ấy sẽ làm tung lên.”
Tu sĩ Tưởng gật đầu, vẻ thông cảm. “Vâng, đúng vậy, thực khó mà thuyết phục được anh ấy nhận ra dịp may của mình. Song rốt cuộc, cái khó khăn ấy chi tạm thời’ Sau đây hai mươi năm, anh bạn của chúng ta rồi cũng sẽ đâu vào đây cả.”
Conway cảm thấy nói thế là nhìn vấn đề hầu như quá triết lý. Anh nói: “Tôi rất phân vân không biết rồi đây sự thật sẽ đến với chú ấy như thế nào. Chú ấy đang đếm từng ngày cái ngày những người khuân vác sẽ tới, và nếu họ không đến..
“Nhưng họ sẽ đến mà.”
“Ồ, tôi cứ nghĩ tất cả câu chuyện ông nói về những người phu ấy chỉ là một câu chuyện vui vẻ để nỗi thất vọng của chúng tôi chỉ đến từ từ.”
“Không phải thế. Tuy chúng tôi không mù quáng tin vào vấn đề ấy, nhưng theo tục lệ ở Shangri-La thì mọi điều phải chân thực một cách có mức độ, và tôi có thể đoán chắc với các ông rằng những lời tôi nói về những người phu khuân vác là hoàn toàn đúng. Dù sao, thì hiện nay chúng tôi đang chờ đợi đám người ấy đến đúng hoặc vào khoảng thời gian tôi đã nói.”
“Khi ấy ông sẽ thấy khó mà ngăn nổi Mallinson không cho chú ấy đi với họ.”
“Nhưng, chúng tôi không bao giờ làm điều ngăn cản ấy. Chỉ bằng kinh nghiệm của bản thân, anh ấy sẽ phát hiện ra rằng, những người phu không thể đưa được một ai trở về với họ.”
“Tôi biết. Vậy phương pháp là như thế chăng? Và ông nghĩ sau đó sự việc sẽ ra sao?”
“Thưa ông, sau một thời gian thất vọng, vì còn trẻ và lạc quan nên anh ta bắt đầu hy vọng rằng, với đoàn phu tiếp theo, vào khoảng sau đó chín mười tháng, anh ta sẽ thuyết phục được. Và đây là niềm hy vọng mà chúng ta khôn ngoan, chúng ta sẽ không làm nản lòng ngay từ phút đầu.”
Conway nói gay gắt: “Tôi tin chắc chú ấy sẽ không làm theo như vậy. Tôi cho rằng rất có thể chú ấy sẽ tính chuyện trốn đi.”
“Trốn đi? Có thực đúng là từ phải dùng? Nói cho cùng, hẻm núi kia luôn luôn để ngỏ cho mọi người. Chúng tôi không có lính canh, trừ những lính canh mà chính Thiên nhiên cung cấp.”
Conway mỉm cười: “Ồ, ông hẳn phải thừa nhận là thiên nhiên đã làm rất tốt công việc của mình. Nhưng dù sao tôi cũng không nghĩ rằng ông tin vào thiên nhiên một cách tuyệt đối. về những đoàn người thám hiểm đã đến đây thì sao? Hẻm núi đó có sẵn sàng mở cho họ đi ra khi họ muốn trở về không?”
Đến lượt tu sĩ Tưởng mỉm cười. “Thưa ông, hoàn cảnh đặc biệt đôi khi phải xem xét đặc biệt.”
“Tuyệt. Vậy là ông chỉ để người ta có dịp trốn khi ông biết họ ngu ngốc mới làm điều đó. Ngay thế nữa, tôi cho rằng vẫn có một số người trốn.”
“Ồ, điều ấy đôi khi cũng có xảy ra, nhưng đã thành lệ, người vắng mặt sẽ vui mừng khi trở lại sau một đêm trải qua trên cao nguyên.”
“Không nơi trú ẩn và quần áo ấm phải không? Nếu vậy, tôi rất có thể hiểu được những phương pháp mềm dẻo của các ông cũng hữu hiệu chẳng kém gì những phương pháp cứng rắn. Thế còn những trường hợp hiếm hoi người trốn đi không trở về thì sao?”
“Chính ông đã trả lời câu ông hỏi đây.” Tu sĩ Tưởng đáp: “Họ không trở lại.” Song ông ta vội nói thêm: “Tuy nhiên, tôi có thể nói để ông an tâm là quả thực có rất ít người đã không may như vậy, và tôi tin là ông bạn của ông sẽ không đến nỗi khá liều lĩnh để làm tăng thêm con số những người đó.”
Conway không thấy an tâm với những câu tu sĩ trả lời; tương lai của Mallinson vẫn là mối bận tâm của anh. Anh muốn Mallinson có thể được người ta ưng thuận để trở về, và điều đó không phải là chưa từng có, vì vừa rồi là trường hợp anh phi công Talu. Tu sĩ Tưởng thừa nhận các vị lãnh đạo ở đây có đủ quyền lực để làm bất cứ một việc gì mà họ cho là khôn ngoan.
“Nhưng thưa ông, liệu chúng tôi sẽ có khôn ngoan khi đặt tất cả tương lai của chúng tôi hoàn toàn vào lòng biết ơn của ông bạn của ông không?”
Conway cảm thấy câu hỏi quả là thích đáng, vì thái độ của Mallinson cho thấy rõ anh ta sẽ làm gì một khi anh về tới Ấn Độ. Đây là một đề tài anh ta cay cú nhất và vẫn thường phóng đại lên.
Nhưng, tất nhiên, tất cả những cái đó là thuộc về xã hội thế tục, cái xã hội đang dần dần bị xua khỏi đầu óc anh bởi cái thế giới Shangri-La phong phú, tràn ngập. Trừ những lúc nghĩ đến Mallinson, còn anh cảm thấy hết sức hài lòng, cái cấu trúc dần dần phát hiện ra của môi trường ở đây tiếp tục khiến anh ngạc nhiên vì nó phù hợp một cách khó hiểu với mọi nhu cầu và sở thích của anh.
Có một lần anh nói với tu sĩ Tưởng: “Nhân tiện xin hỏi ông, mọi người ở đây xử lý tình yêu ra sao để nó hợp với lối sông ở đây? Tôi nghĩ đôi khi người đến đây cũng phát triển những mối tình gắn bó nào đó chứ?”
“Cái đó là thường xuyên.” Tu sĩ Tưởng đáp, miệng nở nụ cười. “Tất nhiên các Lama thì xa lánh hẳn, phần lớn chúng tôi cũng vậy khi đạt tới tuổi trưởng thành, nhưng cho đến lúc đây, chúng tôi vẫn như những người khác, ngoại trừ như tôi nghĩ: Chúng tôi có thể tự cho là mình xử sự biết điều hơn. Và, thưa ông Conway, điều ấy cho phép tôi được đoán chắc với ông rằng, đức mến khách của Shangri-La đứng vào loại toàn diện. Ông Barnard, bạn của ông, cũng đã trải qua và thấy rõ điều này.”
Conway mỉm cười đáp lại: “Cám ơn ông,” giọng anh lạnh nhạt. “Cái đó tôi biết rõ, nhưng trong lúc này, sở thích của tôi không quá sốt sắng như vậy. Tôi tò mò muốn biết về khía cạnh tình cảm hơn là về phương diện vật chất.”
“Ông thấy phân biệt hai khía cạnh ấy dễ dàng lắm ư? phải chăng ông đã yêu cô Lo-Tsen?”
Conway phần nào thấy ngạc nhiên, tuy anh hy vọng anh đã không để lộ ra điều ấy. “Tại sao ông hỏi tôi như vậy?”
“Vì, thưa ông, nếu ông có như vậy cũng rất hợp lý thôi - và tất nhiên, bao giờ cũng ở mức độ vừa phải. Lo-Tsen sẽ không đáp lại bằng một tình cảm ở mức độ cao hơn ông nghĩ - nhưng sự việc vậy là rất thú vị, tôi đoán chắc với ông thế. Và tôi nói là có sở cứ hẳn hoi, vì chính tôi cũng đã yêu cô ấy hồi tôi còn trẻ hơn nhiều.”
“Thật thế hở ông? Và khi ấy cô ta có đáp lại không?”
“Chi bằng một sự thông cảm đáng yêu với những tình cảm trân trọng của tôi đối với cô ấy và bằng một tình bạn càng trở nên quý báu cùng với năm tháng.”
“Nói cách khác, cô ấy không đáp lại?”
“Nếu ông thích gọi như vậy.” Tu sĩ Tưởng nói thêm, hơi có vẻ lên gân trang trọng: “Cô ta bao giờ cũng có phương sách tránh cho những người yêu cô cái phút thỏa mãn mà thường đi với sự đạt được tuyệt đối.”
Conway cười. “Mọi sự đều tốt lành trong trường hợp ông, và có lẽ cả trong trường hợp của tôi - nhưng nếu gặp một thanh niên có máu nóng như Mallinson thì sao?”
“Thưa ông, thì vẫn là điều tốt nhất có thể xảy ra! Tôi xin nói để ông yên tâm, không phải đây là lần đầu tiên cô Lo-Tsen an ủi được người xa nhà buồn rầu khi họ biết không có chuyện quay trở về.”
“An ủi?”
“Thưa vâng, nhưng ông không được hiểu lầm ý nghĩa từ mà tôi dùng. Lo-Tsen không vuốt ve mơn trớn ai, cô chỉ lấy sự có mặt của mình để trái tim đau khổ nọ thấy xúc động. Shakespeare của các ông chẳng đã nói về nhân vật Cleopatra như sau: “Cô gây cơn đói ở nơi được cô thỏa mãn nhất.” Một điển hình nổi tiếng, chắc chắn vậy, trong những cuộc chạy đua lôi cuốn sự thèm khát, nhưng, xin nói để ông yên tâm, một người đàn bà như vậy, sẽ hoàn toàn không có chỗ đứng, hoàn toàn xa lạ ở Shangri-La. Lo-Tsen, nếu tôi mạn phép sửa lại câu trích dẫn, là người làm dẹp đi cơn đói nơi cô thỏa mãn ít nhất. Đây là một thành tựu tế nhị và lâu bền hơn nhiều.”
“Và tôi cho rằng đó là một thành tựu mà cô ấy phải tài khéo lắm mới hoàn thành được.”
“Ồ, nhất định rồi - chúng tôi đã có nhiều thí dụ về sự việc này. Cô ấy có cách dẹp một ham muốn rộn ràng trở thành một tiếng thì thầm, cũng không kém thú vị khi không được đáp lại.”
“Vậy, theo cách ấy, ông có thể coi cô ta là một bộ phận trong công cụ để huấn luyện của cơ sở này chăng?”
“Nếu ông muốn ông có thể coi cô ta như vậy.”
Tu sĩ Tưởng đáp lại, vẻ phản đối một cách dịu dàng.
“Nhưng có thể thanh nhã hơn và cũng đúng sự thực hơn, nếu ta ví cô ấy với một áng cầu vồng phản chiếu trong một cái bát bằng pha lê, hoặc những giọt sương trên các bông hoa của một cây có quả.”
“Ông Tưởng, tôi hoàn toàn đồng ý với ông. Như vậy sẽ thanh nhã hơn nhiều.” Conway thích thú với những câu đối đáp mực thước, lanh lợi mà vị tu sĩ Trung Hoa vui tính hay đùa vẫn thường đưa ra.
Nhưng lần sau khi có một mình anh với cô bé Mãn Châu, anh cảm thấy những nhận xét của tu sĩ Tưởng là rất sắc. Ở nơi cô có một hương thơm tự nó truyền vào những xúc cảm của anh, nó thổi những mẩu than hồng rực sáng, song không cháy bốc lửa mà chỉ ấm lên thôi. Và đột nhiên anh thấy Shangri-La và Lo-Tsen là hoàn hảo, và anh không muốn gì hơn là khuấy lên một câu đáp lại khẽ khàng và cuối cùng trong tất cả những cái im lặng lẽ này. Suốt bao nhiêu năm, những khát khao thiết tha của anh đã chẳng khác gì một sợi dây thần kinh thường bị cái thế giới bên ngoài trêu trọc, giờ đây, cuối cùng, nỗi đau đã được xoa dịu, và anh có thể đắm mình trong tình yêu, nó không còn là nỗi giày vò hay chán nản nữa. Nhiều lúc ban đêm, đi bên hồ sen, anh hình dung mình ôm cô bé trong cánh tay. Song ý thức về thời gian đã xóa đi hình ảnh ấy, xoa dịu anh, đưa anh về một trạng thái miễn cưỡng vô biên hiền dịu.
Ngay cả trong những năm tháng anh sống trước cái vật chắn lớn là Chiến tranh, anh cũng chưa bao giờ thấy mình hạnh phúc như bấy giờ. Anh mến thích cái thế giới thanh bình của Shangri-La, nó làm dịu lòng anh hơn là chế ngự anh, với cái ý tưởng kỳ lạ của nó. Anh thích cái tâm trạng phổ biến với mọi cảm xúc được bao kín trong ý nghĩ, ý nghĩ được làm mềm dịu đi và trở thành hạnh phúc lớn lao khi được chuyển thành lời nói. Conway, kinh nghiệm đã dạy cho anh biết rằng thái độ thô lỗ không bảo đảm cho thiện ý, thậm chí anh còn không coi một câu nói văn hoa là bằng chứng của sự dối trá. Anh thích cái không khí thung dung, cầu kỳ, trong đó nói chuyện là một thành tựu, chứ không chỉ là thói quen. Và anh thích hiểu được rằng những cái làm mất nhiều thì giờ có thể giờ đây không còn bị chê trách là làm lãng phí thời gian, và những giấc mộng mỏng manh nhất cũng được tâm hồn chào đón. Shangri-La bao giờ cũng yên lặng vậy mà lúc nào cũng là một nơi đông đúc náo nhiệt đầy những việc làm không nhằm theo đuổi một cái gì, các vị Lama sống như thể các vị nắm thời gian trong tay, nhưng là thời gian nhẹ như lông hồng. Conway không còn gặp vị nào nữa, song anh dần dần hiểu rõ phạm vi và sự phong phú chủng loại công việc các vị ấy làm; ngoài việc các vị đều biết ngoại ngữ, xem ra một số vị đi sâu vào hải dương học một cách khiến cho thế giới Tây phương phải hết sức kinh ngạc. Nhiều vị đi vào việc viết sách thuộc nhiều loại (như tu sĩ Tưởng nói) một vị đã có những công trình nghiên cứu có giá trị về Toán học thuần túy; một vị khác phối hợp công trình của Gibbon và Spengler để viết một luận đề rộng lớn về lịch sử nền văn minh của châu Âu. Nhưng những loại công việc ấy không phải cho tất cả các vị, và cũng không phải là của một vị nào; có những vị như Briac lao vào một công việc tùy hứng, phục hồi lại những mẩu, những đoạn giai điệu nhạc cũ, hoặc như vị cha phó xứ người Anh trước kia đã soạn thảo một lý thuyết mới về tác phẩm Đồi gió hú (Wuthering Heights). Thậm chí còn có những công trình không thực tế, mơ hồ hơn những công hình vừa kể trên. Một lần khi Conway đưa ra một số ý kiến về việc này, vị Lama tu viện trưởng đáp lại bằng cách kể ra một câu chuyện về một nghệ sĩ người Trung Quốc ở thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên. Nghệ sĩ này đã suốt nhiều năm cặm cụi đẽo khắc những con rồng, con chim và những con ngựa trên một viên đá anh đào. Sau khi tác phẩm hoàn thành ông dâng lên tặng cho một ông hoàng. Thoạt đầu, ông hoàng chẳng nhìn thấy gì có ý nghĩa ngoài một viên đá bình thường, nhưng nhà nghệ sĩ khuyên ông hoàng hãy “Xây một bức tường, trên tường có đặt một cửa sổ, rồi ngắm viên đá qua cửa sổ vào lúc bình minh rực rỡ.” Ông hoàng làm theo và lúc ấy ông mới thấy viên đá quả là rất đẹp. “Conway thân mến, con có thấy câu chuyện hấp dẫn không, và con có nghĩ nó dạy cho ta một bài học quý giá không?”
Conway gật đầu, anh thích thú khi nhận thấy được cái ý định thanh bình của Shangri-La có thể bao gồm biết bao nhiêu những công việc kỳ lạ, bề ngoài có vẻ tầm thường, vì chính anh từ trước vẫn thích những việc như vậy. Thực tế là, khi nhìn lại quá khứ trong đời mình, anh thấy rải rác những hình ảnh về những công việc, hoặc vớ vẩn quá, hoặc khó khăn quá nên đã không được hoàn thành; còn giờ đây, tất cả những công việc đó đều có thể làm được, ngay cả trong tâm trạng nhàn rỗi suy ngẫm thực là thú vị, và anh cũng không có ý chế giễu khi Barnard tâm sự với anh rằng, anh ta đã hình dung ra cho mình một tương lai thú vị ở Shangri-La.
Hình như những chuyến Barnard đi chơi xuống thung lũng mỗi ngày một nhiều hơn, trong thời gian gần đây, không phải chỉ để uống rượu và tán gái. “Anh Conway, anh biết đây, tôi nói với anh câu chuyện này là vì anh khác Mallinson - như anh có thể thấy, anh ta dễ dàng cho tôi một nhát dao. Song tôi cảm thấy anh hiểu hoàn cảnh chúng ta hiện nay rõ hơn. Kể cũng buồn cười quan chức Anh quốc các ông thoạt đầu coi bộ rất cứng nhắc, nhưng suy cho cùng các ông vẫn là những người có thể tin cậy được.”
“Tôi không phải là những người chắc chắn lắm đâu.” Conway đáp lại, miệng mỉm cười. “Dù sao Mallinson cũng là một quan chức nước Anh như tôi.”
“Vâng, đúng thế, nhưng anh ta chỉ là một cậu bé con. Anh ta chưa biết đánh giá tình hình sự việc. Anh và tôi là những con người đã từng lăn lộn - chúng ta chấp nhận sự việc theo thực tế. Chẳng hạn như cái ổ hắc điếm này, chúng ta vẫn chưa hiểu được những ngóc ngách của nó ra sao, và tại sao chúng ta lại bị đem đến đây, nhưng thôi, sự đời vẫn chẳng thường thế đúng không? Chúng ta đâu có biết tại sao chúng ta lại có mặt trên đời này, về vấn đề đó?”
“Có thể một số người trong chúng ta không biết, nhưng tất cả câu chuyện này rồi sẽ dẫn đến đâu?”
Barnard hạ thấp giọng, khàn khàn thì thầm: “Vâng, anh ạ.” Anh ta nói vẻ say sưa. “Đúng thế, không gì khác. Có hàng tấn không sai, ở dưới thung lũng. Hổi trẻ tuổi tôi là một kỹ sư khai khoáng, tôi còn nhớ rõ vỉa quặng như thế nào. Anh cứ tin ở tôi, ở đây cũng giầu như vùng Rand vậy, mà dễ khai thác gấp mười lần. Tôi đoán anh cho những lần tôi ngồi kiệu xuống thung lững là để chơi bời lu bù chứ gì. Không hề thế, anh ạ. Tôi đã đủ trí khôn lắm chứ, anh biết đây, tôi cứ suy nghĩ mãi, những người ở đây không thể có được tất cả những thứ này từ ngoài mang vào, nếu không mua với giá rất cao. Vậy, họ lấy gì để trả nếu không phải là vàng, bạc hay kim cương hoặc một thứ gì khác? Suy cho kỹ thì cũng logic thôi. Và khi tôi bắt đầu đi thám thính quanh đây, chằng mấy tôi đã phát hiện ra cả cái túi thủ đoạn của họ.”
“Anh tự mình tìm thấy à?” Conway hỏi.
“Ồ, tôi không nói thế, mà tôi đoán là có, rồi tôi nói chuyện với tu sĩ Tưởng - tôi đặt vấn đề thẳng thắn. Và này anh Conway anh hãy tin tôi, cái ông tu sĩ Trung Hoa này không đến nỗi tồi như chúng ta đã có thể nghĩ trước đây.”
“Riêng tôi, tôi không hề cho ông ta là người tồi bao giờ.”
“Tất nhiên, tôi biết anh luôn đi cùng ông ta. Vậy anh cũng sẽ chẳng ngạc nhiên về cái cách tôi và ông ta đi với nhau. Chúng tôi đã đoán rất trúng. Ông ta đã đưa tôi đi xem tất cả các công trường, và có thể anh sẽ rất vui lòng khi biết rằng tôi đã được các vị lãnh đạo ở đây cho phép thăm dò toàn bộ khu thung lũng và sau đó làm một bản báo cáo đầy đủ.
Anh nghĩ thế nào? Họ dường như rất mừng vì có một chuyên gia giúp việc, đặc biệt là khi tôi nói tôi có thể mách nước cho họ cách làm tăng năng suất khai thác.”
“Tôi có thể thấy ông sắp sống hoàn toàn thoải mái ở đây.” Conway nói.
“Ồ, tôi phải nói là tôi đã tìm thấy một công việc để làm, và là một cái gì đó. Việc đời, cuối cùng ra sao nào ai biết được trước. Rất có thể người ở nhà họ không ráo riết bỏ tù tôi nữa khi họ biết tôi có thể chỉ đường cho họ tìm đến một mỏ vàng mới. Điều khó khăn duy nhất là: Liệu họ có tin lời tôi nói về chuyện ấy không?”
“Có thể. Điều thiên hạ muốn tin là điều kỳ lạ.”
Barnard gật đầu phấn khởi. “Anh hiểu rõ vấn đề, tôi mừng quá. Và đây là điểm anh và tôi có thể cùng cộng tác. Tất nhiên, lỗ lãi chia đôi. Tất cả công việc anh phải làm chỉ là ký tên anh dưới bản báo cáo của tôi - Lãnh sự Anh quốc, anh biết đây, có thế thôi. Chữ ký đó sẽ có sức nặng.”
Conway cười: “Cái đó chúng ta sẽ bàn sau. Trước hết anh hãy làm báo cáo đi.”
Anh thấy buồn cười khi nghĩ đến một khả năng khó có thể thực hiện, và đồng thời anh cũng vui mừng khi thấy Barnard đã tìm được một cái khiến anh ta mau chóng yên tâm như vậy.
Vị Lama tu viện trưởng và Conway gần đây bắt đầu càng ngày càng năng gặp nhau luôn. Anh thường đến thăm ngài vào lúc chiều tối và ở lại đến mấy tiếng đồng hồ, rất lâu sau khi mấy người phục vụ đã dọn cất những bát nước trà cuối cùng và được phép đi ngủ. Ngài thường hỏi anh về những tiến bộ và tâm trạng của ba người cùng đi với anh ra sao. Có một lần ngài hỏi riêng về nghề nghiệp của họ mà đã không thể tránh khỏi bị gián đoạn vì sự kiện họ bị đưa đến Shangri-La.
Conway, vẻ ngẫm nghĩ, đáp: “Mallinson có thể rất tiên bộ trên con đường công tác của anh ta - một thanh niên cương nghị và có tham vọng. Còn hai người kia,” anh nhún vai, “thực tế là cả hai đã bằng lòng ở lại đây dù sao thì cũng trong một thời gian.”
Conway để ý thấy có một tia lóe sáng ở phía cửa sổ có rèm treo; lúc anh đi qua sân trên đường đi đến căn phòng giờ đây đã quen thuộc này, anh nghe thấy tiếng sấm ì ầm. Trong phòng không nghe thấy tiếng gì và những tấm thảm dày đã che ánh chớp chỉ còn là những vệt xanh mờ nhạt.
“Đúng thế,” có tiếng đáp lại, “Chúng ta đã hết sức làm cho cả hai người ấy cảm thấy thoải mái. Cô Brinklow muốn cải tạo chúng ta, còn ông Barnard cũng muốn thay đổi chúng ta - thành một công ty trách nhiệm hữu hạn. Những dự án chẳng hại gì - hai người này sẽ sống rất vui vẻ. Nhưng còn cậu bạn trẻ của con, anh chàng mà cả vàng lẫn tôn giáo cũng không làm cho khuấy khỏa được, giờ đây anh ta ra sao?”
“Dạ, chú ấy sẽ là một vấn đề đây ạ.”
“Ta e rằng anh ta sẻ trở thành vấn đề của con.”
“Sao lại của con?”
Không có tiếng đáp lại ngay, vì vừa lúc ấy người phục vụ bưng trà vào. “Karakal gửi xuống cho chúng ta những cơn dông bão vào thời gian này trong năm.” Tu viện trưởng nói, điểm xuyết câu chuyện theo nghi lễ. “Người dân Trăng Xanh tin rằng những cơn dông bão ấy là do ma quỷ lên cơn điên ở khoảng không bao la bên ngoài hẻm núi. Họ gọi “Bên ngoài”- có lẽ con cũng biết theo tiếng thổ dân từ ấy chỉ toàn bộ thế giới, trừ ở đây ra. Tất nhiên, họ chẳng biết gì về những nước Pháp, Anh hoặc thậm chí cả Ấn Độ - họ hình dung vùng cao nguyên khủng khiếp dài vô tận. Với họ, những người sống hết sức ấm cúng trong một vùng ẵm áp, không có gió, họ thấy dường như không thể có một ai ở trong thung lũng này lại có ý muốn rời đi nơi khác; thật vậy, họ hình dung tất cả những “người bên ngoài” xấu số đều thiết tha muốn vào ở trong này. Đây chỉ là vấn đề quan điểm mà thôi, phải không?”
Conway nhớ lại Barnard cũng đã nói gần như vậy và anh đã kể ra.
“Khôn ngoan biết mấy,” tu viện trưởng nói, “và ông ta cũng là người Mỹ đầu tiên đến với chúng ta - chúng ta thực may mắn.”
Conway thấy hơi nực cười khi nghĩ cái may mắn của tu viện là vớ được một người mà hiện đang bị cảnh sát hàng chục nước săn đuổi; và anh muốn nói ra điều đó nhưng sau lại nghĩ: để Barnard tự nói ra câu chuyện của mình thì hơn. Anh chỉ nói: “Nhất định ông ấy nghĩ đúng, giờ đây có biết bao nhiêu người trên đời này lấy làm sung sướng được đến sống ở đây.”
“Quá nhiều, Conway ạ. Chúng ta ở đây chỉ là một chiếc xuồng cứu đắm đang lênh đênh trên mặt biển giữa trận cuồng phong; chúng ta có thể cứu được vài người sống sót gặp may, nhưng nếu tất cả những người lâm nạn đều tới chúng ta và trèo lên xuồng thì bản thân chúng ta cũng sẽ bị đắm mất… Thôi, ta hãy bỏ qua chuyện đó lúc này. Ta nghe nói con đã kết giao được với ông Briac tuyệt vời của ta. Một người đồng hương rất thú vị của ta, tuy không có cùng ý kiến với ông coi Chopin là nhà soạn nhạc lớn nhất. Theo ý kiến của ta, như con biết đây, ta thích nhà soạn nhạc Mozart hơn…”
Những bát nước trà chưa được thu dọn và người phục vụ cũng chưa được phép rút lui đi nghỉ, Conway đã nhớ đến câu anh hỏi chưa được trả lời. Anh nhắc lại: “Cha và con vừa nãy đang bàn về Mallinson, cha bảo anh ta sẽ là vấn đề của con. Xin cha cho biết tại sao lại là của riêng con?”
Tu viện trưởng đáp lại rất đơn giản: “Con ạ, vì cha sắp chết.”
Dường như đó là một câu nói kỳ lạ, Conway trong một lát không nói được gì. Cuối cùng, tu viện nói tiếp: “Con ngạc nhiên phải không? Song chắc chắn, con ạ, chúng ta không ai tránh được điều đó, ngay cả ở Shangri-La đây. Và rất có thể cha chỉ còn sống được thêm một thời gian ngắn - hoặc thậm chí, chỉ vài năm. Tất cả những gì cha báo cho con biết chì là sự thực đơn giản mà cha đã nhìn thấy lúc nó kết thúc. Thực thú vị khi thấy con tỏ ra quan tâm đến điều ấy, và cha không có ý nói là cha không hề có một chút mong muốn sống khi nghĩ về cái chết, ngay ở tuổi giờ đây của cha. Cũng may phần xác của cha chẳng còn gì mấy để chết, còn phần hồn, tất cả các đạo giáo chúng ta đều tỏ ra nhất trí lạc quan. Cha rất vui lòng, nhưng cha cũng phải làm quen với cảm giác lạ lùng trong những giờ phút còn lại. Cha phải hiểu rằng cha chỉ còn thì giờ để làm thêm một việc. Con có thể hình dung đây là việc gì không?”
Conway nín lặng.
“Việc đó có liên quan đến con, con ạ.”
“Cha đã cho con một vinh dự lớn.”
“Cha còn muốn làm nhiều hơn thế nữa.”
Conway khẽ cúi xuống, nhưng không nói gì. Tu viện trưởng, sau một lát chờ đợi, nói: “Có lẽ con cũng biết những cuộc liên tiếp mời con đến nói chuyện gần đây là một điều khác thường ở đây. Song, đó cũng là truyền thống nơi đây, nếu cha có thể tự cho phép mình nói điều ngược đời là ở đây chúng ta không nô lệ vào truyền thống. Chúng ta không có gì là cứng nhắc, không có luật lệ quá khắt khe. Chúng ta làm những gì mà chúng ta cho là hợp lý, một phần được kinh nghiệm của quá khứ dẫn dắt, nhưng phần lớn là theo đầu óc khôn ngoan hiện tại của chúng ta và theo sự sáng suốt nhìn về tương lai của chúng ta. Vì những lẽ trên mà cha đã mạnh dạn làm điều quyết định này.”
Conway vẫn nín lặng.
“Con ạ, cha đặt vào trong tay con toàn bộ gia tài và số phận của Shangri-La.”
Cuối cùng, không khí căng thẳng vỡ ra, Conway không thể nói được một câu dịu dàng, nhẹ nhàng biểu hiện lòng tin; những âm vang roi vào trong yên lặng, cho đến khi tất cả chỉ còn lại tiếng đập của chính trái tim anh, vang như tiếng cồng. Rồi, ngắt quãng nhịp điệu, có tiếng nói tiếp:
“Cha đã đợi con, con ạ, từ rất lâu. Cha đã ngồi trong phòng này và đã nhìn gương mặt của những người mới đến, cha đã nhìn thẳng vào mắt họ và đã nghe tiếng họ nói, luôn với hy vọng một ngày nào đó, cha có thể tìm thấy con. Những bạn đồng nghiệp của cha già đi mới trở nên lịch duyệt, nhưng con còn trẻ tuổi mà đã lịch duyệt khôn ngoan không kém. Con ạ, nhiệm vụ cha truyền lại không phải là khó khăn lắm, vì dòng tu chúng ta chỉ có những quan hệ dịu dàng. Phải tỏ ra hiền dịu và kiên nhẫn, quan tâm đến kho tàng của tâm hồn, hãy chỉ huy bằng đầu óc khôn ngoan lịch duyệt và kín đáo trong lúc dông bão đang nổi điên cuồng ở bên ngoài - với con tất cả sẽ đơn giản một cách thích thú, và chắc chắn con sẽ tìm thấy hạnh phúc lớn lao.”
Một lần nữa, Conway tìm câu trả lời, nhưng không được, cho đến lúc cuối cùng một tia chớp sáng nhạt chiếu vào đám bóng tối và kích thích anh, anh thốt kêu lên: “Cơn dông...cơn dông bão mà cha vừa nói…”
“Con ạ, nó sẽ là một cơn dông bão mà thế giới từ trước đến nay chưa từng thấy. Sẽ không có quân đội, quyền lực nào tránh được, không có khoa học nào đáp lại được. Sẽ là một cơn điên khùng cho đến lúc mọi tình hoa văn hóa đều bị giẫm nát, tất cả công trình con người làm ra đều bị san bằng trong một cái hố mênh mông. Đây là hình ảnh cha đã nhìn thấy hồi Nã Phá Luân vẫn còn là một tên chưa ai biết đến; và giờ đây, cha nhìn thấy cơn dông ấy hiện lên rõ rệt từng giờ. Con nói cha đã lầm phải không?”
Conway đáp: “Thưa cha, không. Con nghĩ có thể là cha nói đúng. Một sự tan vỡ như vậy trước kia đã có lần xảy ra, và rồi là Thời Đen Tối kéo dài năm trăm năm.”
“So sánh như vậy không đúng lắm. Vì những năm Đen Tối thời ấy không thực sự quá đen tối - trong đó vẫn còn nhiều những chiếc đèn lồng le lói, và ngay dù cho ánh sáng đã tắt hết ở châu Âu, nhưng vẫn còn những tia khác, cụ thể là từ Trung Quốc cho đến Peru, nơi đó vẫn có thể thắp sáng được. Còn những năm dài Đen Tối sắp tới sẽ bao trùm toàn thế giới trong cùng một tấm vải liệm; không còn nơi để trú ẩn hoặc trốn tránh, trừ những chỗ quá bí mật không thể tìm thấy, hoặc quá tầm thường không ai để ý đến. Và Shangri-La có thể hy vọng sẽ là cả hai thứ kể trên. Người lái máy bay mang những tấn chết chóc để gieo xuống các thành phố lớn sẽ không đi qua đây, hoặc nếu có ngẫu nhiên đi qua thì họ cũng cho nơi đây không đáng một quả bom.”
“Và cha nghĩ tất cả những cái đó sẽ đến vào thời con?”
“Cha tin là con sẽ sống qua cơn bão táp. Và sau đây, qua thời gian dài tiêu điều, con vẫn có thể còn sống, trở nên già hơn, khôn ngoan lịch duyệt hơn và kiên nhẫn hơn. Con sẽ vẫn giữ được cái lịch sử đầy hương thơm của chúng ta và bổ sung thêm vào đây một chút tâm hồn đầu óc của con. Con sẽ đón chào người lạ đến và dạy cho họ biết cái luật lệ của tuổi tác và khôn ngoan; có thể một trong số những người lạ ấy sẽ kế tiếp con khi chính con trở nên quá già. Xa hơn nữa, sức nhìn của cha đã kém dần đi, nhưng cha vẫn nhìn thấy ở phía xa một thế giới mới đang náo động trên đống đổ nát, khuấy đảo một cách vụng về nhưng đây hy vọng để tìm lại những kho báu nổi tiếng họ đã mất. Và tất cả họ sẽ ở đây, con ạ, được nấp sau những rặng núi trong thung lũng Trăng Xanh và như được bảo tồn bởi một phép lạ để chờ thời đại Phục Hung…”
Tiếng nói vừa dứt, Conway nhìn thấy gương mặt trước mắt đây vẻ đẹp xa xăm và ướt đẫm, sau đó vẻ sáng rực nhạt dần và rồi không còn gì ngoài một chiếc mặt nạ, cái bóng tối đen và đang vụn ra như một thanh gỗ mục. Gương mặt không động đậy, đôi mắt nhắm lại. Anh đứng nhìn một lát rồi như một phần giấc mơ, anh nhận ra rằng vị Lama tu viện trưởng đã chết.
Dường như cần phải ghép hoàn cảnh này với một vấn đề thời sự nào đó, kẻo nó trở nên quá lạ lùng không thể tin được. Và theo bản năng máy móc của tay và mắt, Conway đưa mắt nhìn chiếc đồng hồ đeo ở tay. Lúc ấy là nửa đêm quá mười lăm phút. Thốt nhiên, khi đi qua phòng ra cửa, anh mới nhớ ra anh không biết tí gì về phải làm thế nào để gọi người đến giúp và gọi ở đâu. Đám người Tây Tạng, anh biết, họ đã được phép về nhà để ngủ, và anh cũng không biết rõ tìm tu sĩ Tưởng hoặc một ai khác ở đâu. Anh đứng phân vân trên thềm hành lang tối om; qua khung cửa sổ, anh nhìn thấy bầu trời trong sánh, tuy mấy dãy núi vẫn còn sáng rực trong tia chớp, chẳng khác nào một tấm bích họa tráng bạc. Rồi, giữa giấc mơ yên lặng bao quanh, anh cảm thấy mình là chủ của Shangri-La. Tất cả mọi vật xung quanh anh mà anh hằng yêu mến đều là của anh, chúng ở sâu trong tâm hồn nơi anh càng ngày càng sống xa lánh những buồn phiền thế tục. Đôi mắt anh vơ vẩn nhìn vào chỗ bóng tối và thấy lấm tấm vàng lấp lánh trên những bức tranh sơn mài mầu sắc phong phú đang lượn sóng, và mùi thơm hoa huệ, chỉ thoang thoảng và tắt ngay khi sát gần cảm giác, mùi thơm đã quyến rũ anh từ phòng này qua phòng khác. Cuối cùng, anh đã ra đến sân và bờ ao; mặt trăng tròn trôi phía sau ngọn Karakal. Lúc ấy hai giờ kém hai mươi.
Mãi sau, anh mới nhận ra Mallinson đang ở bên cạnh anh, anh ta nắm cánh tay anh dẫn anh đi rất vội vã. Anh chẳng hiểu có chuyện gì xảy ra, nhưng anh có thể nghe rõ anh chàng Mallinson nói luôn mồm, vẻ phân khích.