Chương mười một
Hai người đã tới căn phòng có bao lơn, nơi họ vẫn đến ăn cơm, Mallinson vẫn còn nắm chặt cánh tay Conway và gần như lôi anh đi. “Anh Conway nhanh lên, chúng ta chỉ còn từ đây đến mờ sáng để gói ghém tất cả những gì ta có thể gói, rồi đi. Tin quan trọng lắm, anh ạ. Tôi cũng chẳng biết lão Barnard và cô Brinklow sẽ nghĩ gì vào sáng mai, khi họ thấy anh em mình đã đi rồi… Nhưng đấy là họ tự ý chọn con đường ở lại đây, và không có họ, chúng ta có lẽ sẽ ra đi dễ dàng hơn… Đám phu khuân vác đã ở phía ngoài hẻm núi cách khoảng năm dặm - họ tới đây hôm qua mang theo nhiều sách và đồ vật…Ngày mai họ bắt đầu quay về… Rõ ràng người ở đây họ không muốn chúng ta quay về - họ chẳng cho chúng ta hay biết gì hết - họ muốn chúng ta mắc cạn ở đây không còn biết đến bao giờ nữa… Này, làm sao vậy? Anh thấy mệt à?”
Conway ngồi thụp xuống một chiếc ghế, gục đầu về phía trước, khoanh tay đặt trên mặt bàn. Anh dụi mắt. “Mệt ư? Không. Tôi nghĩ tôi không ốm. Chỉ khá mệt thôi.”
“Có lẽ sắp có dông bão. Vừa rồi anh ở đâu vậy? Tôi đợi anh suốt mấy tiếng đồng hồ.
“Tôi… tôi thăm tu viện trưởng.”
“Ồ, lại ông ta! Thôi, dù sao thì đây cũng là lần cuối cùng, cảm ơn Thượng đế.”
“Ừ, chú ạ, lần cuối.”
Có một cái gì đó trong giọng nói của Conway và nhất là sau đó, Conway cứ nín lặng, khiến cho Mallinson phát cáu: “Ồ, sao anh lại cứ thờ ơ như vậy với công việc. Anh biết đây, chúng ta phải hết sức khẩn trương mới kịp.”
Conway căng người cố để tỉnh táo hơn. “Tôi rất tiếc,” anh nói. Một phần để thử thần kinh của mình và để xem mình thực sự cảm giác đến đâu, anh bật lửa châm thuốc hút. Anh thấy cả hai tay lẫn môi anh run run. “Tôi e rằng tôi không thực sự hiểu… Chú nói phu khuân vác.
“Phải, phu khuân vác, anh ơi - hãy trấn tĩnh lại.”
“Thế chú nghĩ là ra với họ à?”
“Nghĩ là ra với họ? Tôi quyết ra với họ - họ giờ chỉ đang ở bên kia đỉnh núi. Chúng ta phải khởi hành ngay lập tức.”
“Ngay lập tức?”
“Vâng, vâng - tại sao lại không?”
Conway lại cố gắng một lần nữa chuyển mình từ một thế giới này sang một thế giới khác. Cuối cùng, sau khi đã chuyển được một phần, anh nói: “Tôi cho rằng chú cũng thấy công việc không hoàn toàn dễ dàng như ta tưởng.”
Mallinson đang buộc dấy đôi ủng Tây Tạng cao đến tận đầu gối, loại giầy leo núi, anh dằn giọng nói:- “Tôi hiểu tất cả, nhưng đây là cái chúng ta phải làm, chúng ta sẽ làm và gặp may mắn, nếu chúng ta không chần chừ.”
“Tôi không thấy làm thế nào…”
“Ôi! Trời ơi! Anh Conway, anh cứ phải lẩn tránh hết mọi thứ à? Trong anh còn chút ít can đảm nào không?”
Lời kêu gọi, nửa thiết tha, nửa chế nhạo, đã khiến Conway trấn tĩnh lại được. “Tôi còn can đảm hay không, cái đó không quan họng, nhưng nếu chú muốn tôi nói lý do, thì tôi sẽ nói: Đây là một vấn đề đòi hỏi một số chi tiết quan trọng. Giả dụ chú ra được bên kia hẻm núi và tìm được đám phu khuân vác ngoài ấy, nhưng liệu họ có nhận để chú cùng đi với họ không? Chú trả công hay làm thế nào để họ nhận lời? Chú có nghĩ đến trường hợp họ có thể không sẵn sàng giúp chú như chú mong muốn không? Chú không thể cứ dẫn xác ra đây rồi yêu cầu họ đi hộ tống mình. Tất cả còn phải thu xếp, thảo luận thương lượng trước chứ.
“Hoặc một cái gì khác để trì hoãn!” Mallinson thốt lên chua chát. “Trời ơi, bấy giờ anh là con người thế nào rồi! Cũng may mà tôi đã không trông cậy ở anh để thu xếp mọi việc. Vì mọi việc đã thu xếp cả rồi - những người phu khuân vác đã nhận tiền công trả trước rồi và họ đã đồng ý đưa chúng ta về. Và đây là quần áo và trang bị để đi đường, tất cả đã sẵn sàng. Vậy cái cớ cuối cùng của anh đưa ra không còn nữa. Thôi, ta phải làm một cái gì đi.”
“Nhưng… tôi vẫn chưa hiểu…”
“Tôi không nghĩ là anh hiểu, nhưng cái đó không sao.”
“Thế ai đã vạch ra tất cả những kế hoạch này?”
Mallinson cộc cằn đáp lại: “Lo-Tsen, đây nếu anh thực sự muốn biết rõ. Cô ấy hiện nay đang ở chỗ đám phu khuân vác. Cô ấy đang đợi.”
“Đang đợi?”
“Phải. Cô ấy sẽ cùng đi về với chúng ta. Tôi nghĩ anh không phản đối chứ?”
Nghe nhắc đến Lo-Tsen, thốt nhiên hai cái thế giới chạm vào nhau và hòa làm một trong đầu Conway. Anh kêu lên, gay gắt gần như khinh miệt: “Vô lý, Không thể có thế được!”
Mallinson cũng bực mình không kém. “Tại sao lại không thể có được?”
“Vì… ồ, thế đây. Có đủ thứ lý do. Hãy tin ở lời tôi nói sẽ không được đâu. Không thể tin được rằng lúc này cô ta lại đang ở ngoài đó. Nghe chú nói những chuyện ấy tôi rất ngạc nhiên - nhưng cái ý niệm về cô ta đi xa hơn nữa là rất phi lý.”
“Tôi chẳng thấy việc ấy phi lý chút nào. Việc cô ấy muốn rời đây cũng là rất tự nhiên, như tôi vậy.”
“Nhưng cô ta không hề muốn rời đây đi đâu hết. Chú lầm là ở chỗ ấy.”
Mallinson mỉm cười chua chát, nói: “Anh cho là anh biết rõ cô ta hơn tôi, tôi dám nói vậy. Song xem qua đây chứng tỏ có lẽ anh không biết gì về cô ta hết.”
“Chú muốn nói gì?”
“Có rất nhiều cách để hiểu được người khác mà không cần phải học một đống ngoại ngữ.”
“Lạy chúa, chú định ám chỉ gì vậy?” Rồi Conway nói thêm, vẻ bình tĩnh hơn: “Chuyện này thật phi lý. Tôi và chú phải bàn cãi cho kỹ. Mallinson, chú hãy nói cho tôi tất cả là thế nào? Tôi vẫn chưa hiểu gì hết.”
“Vậy tại sao anh lại làm ầm lên như vậy?”
“Hãy nói thực cho tôi biết, xin chú làm ơn nói rõ sự thực cho tôi biết!”
“Ồ, rất đơn giản thôi. Một cô gái ở tuổi cô ta, bị giam kín ở đây với một lô những ông già kỳ cục thì tất nhiên là cô ta sẽ ra đi, nếu cô ta có cơ may gặp dịp. Từ trước cho đến nay cô ta chưa gặp được đó thôi.”
“Chú đừng có suy bụng ta ra bụng người mà nghĩ cô ấy muốn ra đi. Tôi vẫn nói với chú là ở đây cô ta rất sung sướng.”
“Vậy thế tại sao cô ta lại bảo cô ta sẽ ra đi?”
“Cô ta nói thế à? Sao cô ta lại có thể thế được? Cô ta có nói tiếng Anh đâu.”
“Tôi hỏi cô ta bằng tiếng Tây Tạng - cô Brinklow mách cho nhũng từ cần thiết. Nói chuyện với nhau không thạo lắm, nhưng cũng đủ… Đủ hiểu được nhau.” Mallinson hơi đỏ mặt. “Này, anh Conway, anh đừng nhìn chằm chằm tôi như vậy - người ta có thể nghĩ tôi đã săn trộm trong khu cấm của anh.”
Conway đáp: “Không ai nghĩ thế, tôi mong vậy, song câu chú nói khiến tôi hiểu nhiều hơn ý chú muốn cho tôi biết. Tôi chỉ có thể nói tôi rất lấy làm buồn.”
“Nhưng tại sao anh lại buồn?”
Conway để điếu thuốc lá tuột khỏi hai ngón tay. Anh cảm thấy mệt mỏi, buồn bực, trong người anh tràn ngập những cảm xúc trái ngược nhau mà anh thì không muốn nó bị khuấy động lên. Anh nhẹ nhàng nói: “Tôi muốn giữa chúng ta không bao giờ có những sự hiểu lầm như vậy. Lo-Tsen rất đẹp, tôi biết, nhưng sao chúng ta lại phải cãi nhau về chuyện đó?”
“Đẹp?” Mallinson lặp lại vẻ khinh bỉ: “Cô ta còn hơn thế. Anh không được nghĩ ai cũng lạnh lùng trước những cái đó như chính anh. Chiêm ngưỡng cô ta như thể cô ta là một vật trưng bày trong nhà bảo tàng, có thể đây là ý kiến đánh giá cô ta của anh, nhưng ý kiến của tôi thực tiễn hơn, và khi tôi thấy người mà tôi mến lâm phải hoàn cảnh khốn khổ thì tôi phải tìm cách làm một cái gì đó.”
“Song chắc chắn là không có những chuyện quá bốc đồng? Thế chú nghĩ rời bỏ đây thì cô ta đi về đâu?
“Tôi nghĩ hẳn cô ta phải có bạn bè ở Trung Quốc hoặc ở đâu đây. Dù sao, thì cô ta cũng còn hơn ở đây.”
“Làm sao chú có thể tin chắc như vậy?”
“Ồ, tôi thấy cô ta chăm sóc tôi nếu không có người nào khác. Dù sao, khi cần cứu một người nào khỏi hoàn cảnh rất ghê tởm thường thường không ai lại đi hỏi người ấy sẽ đi về đâu.”
“Thế chú nghĩ Shangri-La là ghê tởm ư?”
“Đích xác thế. Ở đây có một cái gì đen tối, xấu xa. Toàn bộ câu chuyện của chúng ta đã là như vậy ngay từ đầu - cái lối chúng ta bị bắt cóc đưa đến đây chẳng vì một lý do gì hết, bởi một thằng điên - và cái lối chúng ta bị giữ lại ở đây từ đó, viện hết cớ này đến cớ khác. Những điều đáng sợ nhất đối với tôi - là cái nó đã tác động đến anh.”
“Đến tôi?”
“Phải, đến anh. Anh cứ thờ thẫn như đi trên cung trăng, chẳng quan tâm gì hết và anh tỏ ra vui lòng ở lại đây mãi mãi. Mà, thậm chí anh thừa nhận anh thích nơi này. Anh Conway, cái gì đã xảy ra với anh? Anh có thể làm thế nào để trở lại con người thực sự của anh không? Ở Baskul, chúng ta hợp nhau thế- những ngày gần đây anh khác hẳn.”
“Chú em ơi!”
Conway giơ tay về phía Mallinson, câu trả lời bằng một cái nắm tay nóng hổi và thiết tha trìu mến.
Mallinson tiếp tục nói: “Tôi nghĩ anh không hiểu rõ điều ấy, nhưng mấy tuần lễ gần đây tôi thấy cô đơn khủng khiếp. Dường như không ai thèm để ý đến cái điều duy nhất, thực sự quan trọng - Barnard và cô Brinklow, họ có lý do của họ, song tôi rất sợ khi thấy anh chống lại tôi.”
“Tôi rất tiếc.”
“Anh cứ nói hoài như vậy, mà nói như vậy có giúp ích được gì.”
Thốt nhiên Conway như bốc lên đáp: “Vậy hãy để tôi giúp, nếu tôi có thể, bằng cách nói cho chú nghe câu chuyện sau đây. Nghe xong, tôi hy vọng là chú sẽ hiểu rất rõ những cái mà giờ đây dường như thực sự kỳ lạ và khó khăn. Dù sao thì chú cũng sẽ hiểu tại sao Lo-Tsen lại không thể trở về được cùng với chú.”
“Tôi nghĩ sẽ chẳng có gì khiến được tôi nhận ra điều đó. Và xin anh nói hết sức ngắn gọn, vì hiện nay thực sự chúng ta không còn thì giờ để chần chừ nữa.”
Rồi Conway kể cho Mallinson nghe hết sức ngắn gọn toàn bộ câu chuyện về Shangri-La như vị tu viện trưởng đã thuật lại cho anh nghe và về sau được mở rộng ra qua những lần nói chuyện cùng tu viện trưởng và tu sĩ Tưởng. Câu chuyện này từ trước anh vẫn giữ kín không nói ra; nhưng giờ đây, trong hoàn cảnh này, anh thấy có thể, thậm chí cần phải nói; đúng thực Mallinson là vấn đề của anh, anh phải giải quyết nó theo cách mà anh cho là đúng. Anh kể lại nhanh chóng, lưu loát, và trong khi kể, anh lại rơi vào trạng thái như bị mê hoặc bởi cái thế giới kỳ lạ, không có thời gian ấy; trong lúc anh nói, vẻ đẹp của nó lại đè trĩu lên anh và đã nhiều lần anh cảm thấy như anh đang đọc một trang hồi ký, những ý nghĩ và những câu nói tự nó đã gây ấn tượng sao mà rõ thế. Duy chỉ có một điều anh không nói ra - để tránh cho anh mối xúc cảm mà anh còn chưa chế ngự nổi - sự kiện về cái chết của tu viện trưởng đêm nay và việc chính anh được kế vị.
Khi kể gần hết, anh cảm thấy yên tâm; anh thấy vui mừng là đã kể xong, và suy cho cùng đây cũng là giải pháp duy nhất. Kể xong, anh bình tĩnh ngước mắt nhìn lên, tin tưởng mình đã làm đúng.
Nhưng Mallinson chỉ lấy ngón tay gõ vào đầu bàn và nói, sau một hồi lâu chờ đợi: “Anh Conway, tôi thực sự không biết nói thế nào… Nếu không nói là anh hoàn toàn điên…”
Yên lặng một hồi lâu tiếp theo, trong khi đó hai người nhìn nhau, với hai tâm trạng rất khác nhau. Conway co lại và thất vọng, Mallinson nóng nảy, bồn chồn, bực tức.
“Vậy là chú cho rằng anh điên phải không?” Sau một lúc, Conway nói.
Mallinson phá ra cười như bị thần kinh: “Ồ, qua câu chuyện anh kể như vậy thì nhất thiết tôi phải nói đúng thế đó. Tôi muốn nói… Ồ, thực sự… Điều quá ư phi lý ấy… Đối với tôi xem ra không cần bàn cãi.”
Conway nhìn Mallinson và tỏ vẻ hết sức ngạc nhiên.
“Chú cho là phi lý à?”
“Ồ… Còn gọi là gì khác được? Tôi rất buồn, anh Conway - nói thế là quá đáng đây - nhưng tôi thấy bất kỳ một người có đầu óc lành mạnh nào cũng không thể còn ngờ vực gì nữa.”
“Vậy chú vẫn cứ cho rằng chúng ta bị đưa đến đây là do ngẫu nhiên mù quáng - do một anh chàng mất trí đã có kế hoạch chu đáo cướp đi một máy bay rồi bay hàng nghìn dặm để làm trò đùa?”
Conway đưa cho Mallinson một điếu thuốc, Mallinson nhận. Cả hai xem ra đều bằng lòng với phút nghỉ ngơi này. Cuối cùng, Mallinson đáp: “Thôi, không việc gì phải tranh luận từng điểm một. Thực tế là, anh cho rằng dân ở đây đã cử một người một cách mơ hồ ra ngoài để bẫy bắt người lạ chứ gì, và anh chàng đây đã có chủ tâm học lái máy bay, rồi đợi thời cơ cho đến khi có một chiếc máy bay thích hợp có việc cần rời Baskul với bốn hành khách… Ồ, tôi không nói là sự việc hoàn toàn không thể có được, tuy tôi thấy nó dường như gượng gạo một cách rất buồn cười. Nếu thuyết ấy đúng, thì còn cần phải xem xét, nhưng khi anh đem ghép nó vào với các sự việc khác thì thấy tuyệt đối không thể có được - tất cả những chuyện các vị Lama già mấy trăm tuổi, rằng họ đã phát hiện ra được một thứ thuốc uống vào trẻ mãi, hay gọi tên là trường sinh bất tử gì đó… Ồ, nghe nói tôi cứ ngạc nhiên không hiểu thứ vi trùng nào đó đã cắn anh, có vậy thôi.”
Conway mỉm cười: “Vâng, tôi dám nói là chú thấy khó tin. Có lẽ thoạt đầu tôi cũng vậy - tôi cũng không còn nhó rõ nữa. Tất nhiên, đây là một câu chuyện kỳ lạ, nhưng tôi nghĩ chính mắt chú đã nhìn thấy đủ chứng có để thấy đây là một vùng đất kỳ lạ. Hãy nghĩ kỹ về tất cả những gì mà cả hai chúng ta đã nhìn thấy tận mắt, một khu thung lũng xa xăm nằm giữa một vùng núi non chưa có vết chân người thám hiểm, một tu viện với thư viện đầy ắp những sách của các nước châu Âu.
“Ồ, vâng, và cả máy sưởi lớn, với ống dẫn nước, bể chứa nước hiện đại, rồi dùng trà buổi chiều, và mọi thứ khác - tất cả thực kỳ diệu, tôi biết lắm chứ.”
“Ồ, vậy thì chú đánh giá nó thế nào?”
“Rất kỳ diệu, tôi thừa nhận vậy. Một điều hoàn toàn huyền bí. Song đây không phải là lý do để chấp nhận những câu chuyện mà về mặt vật lý là không thể có được. Tin vào những buổi tắm nước nóng vì anh đã được dùng, khác với việc tin là có những người sống mấy trăm tuổi chỉ vì người ta bảo với anh là như vậy.” Rồi Mallinson lại phá ra cười, vẻ vẫn còn bực bội. “Này nhé, anh Conway, nơi này đã tác động đèn thần kinh của anh, và thực sự tôi cũng không lấy làm lạ. Thôi hãy gói ghém đồ đạc lại và ta đi. Chúng ta sẽ kết thúc cuộc bàn cãi này một vài tháng sau khi ta đã ăn uống no say ở nhà hàng Maiden’s.”
Conway bình tĩnh đáp: “Tôi không muốn trở lại với cuộc sống ấy một chút nào.”
“Cuộc sống nào?”
“Cuộc sống mà chú đang nghĩ đến… tiệc tùng… khiêu vũ… pôlô… và mọi thứ.
“Nhưng tôi chưa hề nói gì về khiêu vũ và pôlô. Những thứ ấy thì có gì là xấu nào? Anh muốn nói là anh không muốn về cùng tôi chứ gì? Anh sẽ ở lại đây mãi mãi như hai người kia? Vậy ít nhất anh cũng không cản được tôi chuồn khỏi nơi đây!” Mallinson vứt điếu thuốc lá đi và nhảy bổ ra cửa, mắt nảy lửa, miệng kêu to: “Anh mất trí rồi đây! Anh điên rồi anh Conway, vấn đề của anh là ở đây! Tôi biết anh là người luôn bình tĩnh, còn tôi lúc nào cũng nóng nảy, nhưng dù sao thì đầu óc tôi cũng lành mạnh, còn anh thì không! Người ta đã nói với tôi điều này trước khi tôi đến Baskul với anh, lúc đó tôi nghĩ họ lầm, nhưng giờ đây tôi có thể thấy là họ nói đúng..
“Họ đã nói gì với chú?”
“Họ nói trong chiến tranh anh đã bị sức ép của bom đạn, từ đây nhiều lúc anh có vẻ kỳ cục. Tôi không trách gì anh - tôi biết đây là điều anh không cưỡng lại được… và lạy Chúa, tôi rất không thích nói những chuyện này… Ồ, tôi đi đây. Thực đáng sợ và đáng buồn, nhưng tôi phải đi. Tôi đã hẹn rồi.”
“Hẹn với Lo-Tsen?”
“Vâng, nếu anh muốn biết rõ.”
Conway đứng dậy, chìa tay ra: “Thôi chào Mallinson, tạm biệt.”
“Xin hỏi anh lần cuối, anh không đi à?”
“Tôi không thể đi được.”
“Vậy, xin chào anh.”
Hai người bắt tay nhau, Mallinson ra đi.
Conway ngồi một mình dưới ánh sáng chiếc đèn lồng. Anh thấy như một câu đã khắc sâu trong trí nhớ, dường như mọi vật đáng yêu nhất cũng chỉ thoáng qua như những áng mấy bay, và sẽ bị tiêu hủy hết, rằng hai thế giới cuối cùng cũng không hòa hợp làm một được, và một trong hai thế giới luôn bị treo trên một sợi chỉ. Suy nghĩ một lúc, anh nhìn đồng hồ, lúc ấy ba giờ kém mười.
Anh vẫn còn đang ngồi bên cạnh bàn, hút điếu thuốc cuối cùng thì Mallinson quay lại. Anh thanh niên bước vào, vẻ choáng váng, nhìn thấy Conway anh dừng lại đứng trong bóng tối như để trấn tĩnh lại. Anh đứng lặng im, Conway đợi một lúc không thấy gì liền bắt đầu hỏi: “Này, có chuyện gì vậy? Tại sao chú quay lại?”
Giọng nói rất tự nhiên khiến Mallinson bước tới, anh cởi chiếc áo da cừu nặng trĩu ra rồi ngồi xuống. Mặt anh tái mét, toàn thân run rẩy. “Tôi sợ quá!” Anh kêu lên, nửa thổn thức. “Cái chỗ mà chúng ta đều phải buộc thừng quanh người ấy mà, anh còn nhớ chứ? Tôi đã đi đến tận đây… Tôi đành chịu. Tôi vốn không quen leo núi cao, dưới ánh trăng nom sợ quá. Ngớ ngẩn, phải không anh?” Anh hoàn toàn kiệt sức và cứ rít lên cho đến lúc Conway phải an ủi anh. Rồi Mallinson nói thêm: “Những người ở đây họ không cần lo lắng gì hết - sẽ không có ai đe dọa được họ bằng đường bộ. Nhưng, lạy Chúa, tôi sẵn sàng trả giá đắt để dội xuống đây một trận bom!”
“Mallinson, sao chú lại thích làm việc ấy?”
“Vì cái chỗ này nó muốn bị đập tan, bất kể nó là cái gì. Nó bệnh hoạn và bẩn thỉu - và vì thế, nếu câu chuyện hoang đường của anh là có thực, thì nó lại càng đáng căm ghét hơn! Một lũ già khọm nằm phục ở đây như lũ nhện rình bắt những ai lại gần… dù sao thì cũng thật là ô trọc.. những kẻ muốn sống đến cái tuổi như vậy phải không? Còn về vị tu viện trưởng quý báu của anh, nếu ông ta có già bằng nửa số tuổi mà anh nói là tuổi của ông ta thì cũng đến lúc giải phóng cho ông ta khỏi cái hoàn cảnh khốn khổ này… Ồ, tại sao anh lại không về cùng chúng tôi, anh Conway? Tôi không muốn phải cầu xin anh giúp tôi, nhưng cha nó, tôi còn ít tuổi, anh và tôi chúng ta đã từng là bạn thân của nhau - cả cuộc đời của tôi anh thấy không đáng để anh quan tâm so với những điều dối trá của những kẻ ghê tởm ấy ư? Và còn Lo-Tsen nữa, cô ta còn trẻ - cô ta cũng không đáng kể ư?”
“Lo-Tsen không còn trẻ.” Conway nói.
Mallinson ngước mắt lên và bắt đầu cười khúc khích như điên dại. “Ồ, không, không còn trẻ không còn trẻ chút nào, tất nhiên rồi. Cô ta nom như cô gái mười bảy tuổi, nhưng chắc anh sẽ bảo tôi rằng cô ấy thực sự là một bà già chín mươi tuổi còn giữ được tuổi trẻ đây thôi.”
“Mallinson, cô ấy đến đây từ năm 1884.”
“Anh đang mê sảng đây, ông anh ạ!”
“Mallinson, sắc đẹp của cô ta cũng như sắc đẹp của những người khác trên đời này, đều bị phó cho những kẻ không biết giá trị của nó. Đây là một vật mảnh mai dễ vỡ chỉ được yêu quý. Đem nó ra khỏi thung lũng này nó sẽ bị phai tàn như một tiếng vang.”
Mallinson cười một cách chua chát, như thể chính ý nghĩ của anh đã khiến anh vững tin. “Tôi không e sợ cái đó. Chính ở đây, cô ta mới chỉ là một tiếng vang, còn bất kỳ ở đâu đó cô ta vẫn là một con người.” Sau một lúc ngừng bặt, anh lại nói thêm: “Thôi cái lối nói chuyện này chẳng ích gì cho chúng ta. Tốt hơn hết là ta hãy cắt đứt cái phần thơ mộng đi, trở về với thực tại. Conway, tôi muốn giúp anh - tất cả đây chỉ là một điều cực kỳ phi lý, tôi biết, nhưng tôi sẽ cứ tranh luận cho ra nhẽ nếu tranh luận đem lại được chút gì có ích cho anh. Tôi cứ cho rằng trong tất cả những điều anh nói cũng có một cái gì đó có thể được, và cái ấy thực sự cần được xem xét kỹ. Giờ đây xin hỏi anh một cách nghiêm chỉnh, anh có bằng chứng gì cụ thể về câu chuyện của anh không?”
Conway nín lặng.
“Chỉ là một câu chuyện phi lý kỳ quái mà một người nào đó đã thêu dệt kể cho anh. Ngay với một người hoàn toàn đáng tin cậy mà anh đã quen biết trong cuộc đời anh, anh cũng không chấp nhận một thứ chuyện như vậy nếu không có chứng cớ. Trong trường hợp này anh có gì để làm chứng có không? Theo tôi biết thì chẳng có gì hết. Cô Lo-Tsen đã bao giờ kể lai lịch của cô ấy cho anh nghe chưa?”
“Chưa, nhưng…”
“Vậy sao anh lại đi tin lai lịch của cô ấy do một người khác kể? Và cả cái chuyện sống lâu ấy nữa - anh có thể kể ra một sự việc nào ở ngoài giúp cho tin được điều ấy không?”
Conway nghĩ một lát rồi nêu ra chuyện những tác phẩm của Chopin mà Briac đã choi.
“Ổ, vấn đề ấy đối với tôi chẳng có ý nghĩa gì hết. Tôi không phải là nhạc sĩ. Nhưng, ngay dù cho những tác phẩm ấy thực sự là của Chopin nữa, thì cũng rất có thể ông ta, đã học được bằng cách nào đó, song không thể vì thế mà câu chuyện ông ta kể phải là sự thực, phải không?”
“Có lẽ, chắc vậy.”
“Và rồi còn cái phương pháp anh nói giữ được cho con người trẻ mãi và gì nữa. Vậy cái đó là cái gì? Anh nói đây là một thứ thuốc. Ồ, tôi muốn biết đó là thuốc gì? Anh đã được trông thấy nó chưa, hoặc đã uống thử chưa? Đã có ai đưa ra một sự việc cụ thể nào để chứng minh điều ấy cho anh rõ chưa?”
“Về chi tiết thì chưa, tôi thừa nhận như vậy.”
“Và anh chưa hề hỏi họ một cách chi tiết phải không? Anh không hề thấy một câu chuyện như vậy cần phải có bằng chứng xác nhận ư? Anh cứ nhắm mắt tin bừa à?” Nhân đà lợi thế, Mallinson nói tiếp: “Anh thực sự biết nơi này được bao nhiêu, ngoài những gì mà người ta kể cho anh nghe? Anh đã gặp một số ông già - có thể nói nơi này được trang bị rất tốt, và xem ra những người lãnh đạo là những nhà tri thức. Cái cơ sở này được ra đời như thế nào và tại sao, chúng ta không rõ và tại sao họ lại không rõ, và tại sao họ lại muốn giữ chúng ta lại ở đây, nếu thật vậy, thì cũng là một điều bí mật, nhưng chắc chắn đây không phải là một cái cớ để tin bất kỳ câu chuyện huyền thoại nào về nó đều là đúng! Suy cho cùng, ông anh ạ, anh vốn là con người hay phê phán nhận xét cơ mà - anh còn không tin ngay tất cả những gì người ta kể cho anh nghe thậm chí là của tu viện. Ở anh, tôi thực sự không thế hiểu tại sao anh lại vồ lấy mà tin ngay mọi thứ chi vì nó xảy ra ở Tây Tạng!”
Conway gật đầu. Ngay trong lòng những nhận thức sắc bén hơn nhiều, anh cũng không thể không tán thành một lý luận đúng. “Chú Mallinson, chú nói đúng đấy. Tôi cho rằng sự thực là khi người ta tin vào một cái gì không cần chứng cớ rõ ràng, người ta thường thiên về cái mà ta thấy hấp dẫn nhất.”
“Ồ, mẹ kiếp, tôi chẳng hề nhìn thấy được một cái gì hấp dẫn trong cuộc kiếm sống cho đến lúc sắp chết dở. Hãy cho tôi chọn một cuộc sống ngắn thôi nhưng còn vui vẻ. Và còn câu chuyện vó vẩn về cuộc chiến tranh trong tương lai - tất cả những cái đó tôi coi thường. Làm sao người ta lại biết được là cuộc chiến tranh tiếp theo đang sắp nổ ra hoặc nó sẽ như thế nào? Các nhà tiên tri chẳng đã đoán sai toét về cuộc chiến tranh vừa qua đây ư?” Thấy Conway không đáp lại, anh nói thêm: “Dù sao thì tôi cũng không tin khi nói là sự việc không thể tránh được. Mà dù nếu không tránh được, thì cũng không cần phải hoảng sợ nó. Thượng đế biết rõ tôi sẽ hoảng sợ nếu tôi phải đi ra mặt trận để đánh nhau, nhưng tôi thà đương đầu với nó còn hơn tự chôn vùi mình ở đây.”
Conway mỉm cười. “Mallinson, chú có một sở trường tài tình là rất hay hiểu lầm tôi. Hồi ở Baskul chú nghĩ tôi là một trang anh hùng - giờ đây chú cho tôi là một thằng hèn nhát. Thực tế tôi chẳng anh hùng mà cũng chẳng hèn nhát - tuy, tất nhiên cái đó không đáng kể. Khi trở về Ấn Độ, nếu chú thích thú chú có thể cứ nói với mọi người rằng tôi đã quyết định ở lại một tu viện ở Tây Tạng vì tôi sợ sẽ có cuộc chiến tranh khác sắp nổ ra. Đây không hề là lý do thực sự của tôi, nhưng tôi tin chắc mọi người sẽ tin bởi họ vốn đã cho tôi là một thằng mất trí.”
Mallinson đáp lại có vẻ buồn: “Anh biết đây, nói như vậy thực là ngớ ngẩn. Dù sao đi nữa, tôi cũng sẽ không bao giờ có một lời nói xấu anh. Anh có thể tin ở điều đó. Tôi không hiểu anh, cái đó tôi xin thừa nhận - nhưng, nhưng tôi rất muốn hiểu anh. Ôi, tôi rất muốn hiểu anh. Anh Conway, tôi có thể giúp anh được không? Có điều gì tôi có thể nói hoặc việc gì tôi có thể làm?”
Một lát lặng im dài sau đó; cuối cùng, Conway thốt lên: “Có một câu tôi muốn hỏi chú, nếu chú thứ lỗi cho tôi đã xen vào đời tư của chú.”
“Việc gì vậy?”
“Chú có yêu Lo-Tsen không?”
Gương mặt chàng thanh niên đang tái xanh chuyển ngay sang đỏ hồng. “Tôi dám nói là tôi có yêu. Tôi biết anh sẽ bảo đây là phi lý và không thể nghĩ tới và cũng có thể đúng là như vậy, nhưng tôi không thể cản được tình cảm của mình.”
“Tôi không hề coi đây là phi lý chút nào.”
Cuộc tranh luận dường như đã đi vào bên đậu sau nhiều phen sóng gió, và Conway nói thêm: “Tôi cũng không thể cản được tình cảm của tôi. Chú và cả cô gái ấy là hai người tôi quan tâm nhất trên đời này… mặc dầu chú có thể nghĩ tôi là người kỳ cục.”
Đột nhiên, anh đứng dậy, đi đi lại lại trong phòng. “Chúng ta đã nói với nhau tất cả những gì chúng ta có thể nói, phải không?”
“Vâng, tôi cho là như vậy.” Nhưng Mallinson tiếp tục nói, thốt nhiên vội vã hăm hở: “Ồ, mới ngớ ngẩn làm sao khi nói cô ấy không còn trẻ nữa! Một điều phi lý điên dại và ghê tởm nữa. Anh Conway, anh không thể tin được điều ấy! Nó quá lố bịch. Làm sao nó thực sự có nghĩa được?”
“Làm sao chú lại thực sự biết là cô ta còn trẻ?”
Mallinson quay nửa người đi, vẻ mặt nghiêm trang e thẹn.” Vì tôi biết rõ mà… Có lẽ anh sẽ ít nghĩ về tôi trong chuyện đó… Nhưng tôi biết rõ mà. Tôi e rằng anh chưa bao giờ hiểu đúng cô ấy, anh Conway. Cô ấy bề ngoài lạnh lùng, song đây chỉ là kết quả cuộc sống ở đây đây thôi - nó đã làm lạnh giá đi tất cả mọi hơi nóng. Nhưng hơi nóng vẫn còn đó.”
“Để không bị giá lạnh?”
“Vâng… Đây cũng là một cách nói.”
“Và này Mallinson, cô ta còn trẻ - chú tin chắc điều đó ư?”
Mallinson nhẹ nhàng đáp: “Trời ơi, đúng thể cô ta chỉ là một cô gái. Tôi vô cùng thương hại cô ấy, và cả hai chúng tôi đã hấp dẫn nhau, tôi nghĩ vậy. Tôi thấy việc đó chẳng có gì đáng xâu hổ. Thực ra ở một nơi như ở đây, tôi nghĩ đấy là điều tốt đẹp nhất có thể có được…”
Conway đi ra ban công và ngắm nhìn đỉnh núi lấp lánh của ngọn Karakal; mặt trăng đã lên cao trong đại dương yên lặng. Cũng như tất cả những sự vật đáng yêu khác, giấc mộng trong anh đã tan vỡ khi chỉ mới chạm vào thực tại, cái tương lai của cả toàn thế giới được đặt trên bàn cân với một bên là tuổi trẻ và một bên là tình yêu thì chỉ nhẹ như lông hồng. Anh cũng biết tâm hồn anh, đầu óc anh đang sống trong một thế giới riêng của nó, Shangri-La trong một cái thế giới thu nhỏ lại, và cái thế giới ấy cũng đang có nguy cơ bị tiêu diệt. Vì dù cho anh đã ráng sức, tập trung hết nghị lực, anh vẫn thấy trung tâm tưởng tượng của anh cứ xoắn lại, cứ căng ra, do một sức gì đó tác động, những lâu đài, đình tạ nơi đây cứ lộn nhào; tất cả như sắp bị đổ nát. Anh chỉ đau buồn một phần, nhưng anh vô cùng bối rối và có phần buồn bã. Anh cũng không biết, trước đây anh đã điên dại và giờ đây lành mạnh hoặc đã một thời gian lành mạnh và bấy giờ lại điên dại.
Khi anh quay lại, trong anh có một sự khác biệt, giọng nói đanh hơn, hầu như cộc cằn, gương mặt hơi rúm lại; coi anh giống hệt như Conway trước kia, một người anh hùng ở Baskul. Lăm lăm để hành động, anh nhìn Mallinson, thốt nhiên với một vẻ hoạt bát hẳn. Anh hỏi: “Thế chú cho là ta có thể vượt qua được quãng đó với một chiếc thừng nếu ta đi với chú phải không?”
Mallinson chồm lên: “Anh Conway!” Nghẹn ngào trong tiếng kêu. “Anh nói anh sẽ đi với chúng em ư? Cuối cùng, anh đã nghĩ lại rồi ư?”
Khi Conway chuẩn bị xong cho chuyến đi, là hai người đi liền. Ra đi thực đơn giản lạ lùng - một chuyên ra đi chứ không phải lẩn trốn. Không có chuyện gì xảy ra khi họ bước qua những vạch của ánh trăng và bóng tối trong các khu sân. Người ta có thể nghĩ không có ai ở những nơi ấy; Conway nghĩ vậy; và lập tức cái ý niệm về sự hống vắng đó trở thành cảm giác trống không trong anh. Trong suốt lúc này, tuy anh chẳng để ý nghe, Mallinson vẫn cứ luôn mồm huyên thuyên nói về chuyến đi. Kỳ lạ thực, cuộc tranh cãi kéo dài của họ đã kết thúc thành hành động như vậy, cái nơi ẩn náu bí mật này đã được một người tìm thấy ở đây niềm hạnh phúc lớn lao rồi bỏ lại! Vì thật vậy, chưa đến một tiếng đồng hồ sau đó, hai người đã dừng lại để lấy lại hơi ở một quãng cong trên con đường mòn và nhìn lại Shangri-La một lần cuối. Sâu thẳm bên dưới họ là thung lũng Trăng Xanh lúc này như một đám mây, và với Conway, những mái nhà rải rác như đang bồng bềnh theo anh qua đám mấy mù. Giờ đây là lúc chia tay.
Mallinson từ nãy phải leo quãng dốc đứng nên cứ nín lặng, giờ mới thốt lên: “Anh ơi, chúng ta đã leo giỏi quá - thôi, ta tiếp tục!”
Conway mỉm cười, nhưng không đáp lại, anh đã chuẩn bị dây thừng để qua quãng đường tắt sắc như dao này. Đúng như Mallinson nói, anh đã nghĩ lại, mà trong đầu óc anh cũng chỉ còn vậy. Cái phần nhỏ và hoạt động ấy giờ đây át hết, phần còn lại chỉ là một khoảng trống không sao chịu nổi. Anh là người lang thang đi giữa hai thế giới và cứ phải vơ vẩn đi mãi, nhưng lúc này, trong cái khoảng trống sâu kín ở trong anh, tất cả những gì anh cảm thấy chỉ là anh mến yêu Mallinson và anh phải giúp chú ấy; cũng như hàng triệu người khác, anh phải từ bỏ cái khôn ngoan để làm người anh hùng.
Đến chỗ sắp phải leo xuống vực thẳm, Mallinson tỏ vẻ bồn chồn lo lắng, nhưng Conway đã làm anh khỏi lo với cái tài leo núi truyền thống của mình. Và khi đã qua đoạn khó khăn, hai người chụm đầu bên mấy điếu thuốc lá của Mallinson.
“Anh Conway, anh cực kỳ tốt… Có lẽ anh cũng đoán được cảm giác của em… Em không thể nói hết được niềm vui của em lúc này…
“Nêu tôi là chú thì tôi cứ lặng im.”
Sau một hồi lâu nghỉ chân, và trước khi tiếp tục đi, Mallinson nói: Nhưng em rất vui - không phải vui vì em, mà còn cả vì anh nữa… - Thực hay quá, bây giờ anh lại hiểu được rằng tất cả những chuyện ba láp ấy đều cực kỳ phi lý… Được nhìn thấy anh trở lại con người thực của anh, thật kỳ lạ..
“Có gì đâu,” Conway đáp lại, vẻ gượng gạo và cũng là để an ủi riêng mình.
Về gần sáng thì họ tới chỗ phân ranh giới, không hề bị người canh gác hỏi han, cho dù có gặp, tuy trong thâm tâm Conway vẫn nghĩ con đường chỉ được canh gác vừa phải thôi. Một lát sau họ tới vùng cao nguyên bị quét sạch chỉ còn như một khúc xương bởi những hận gió gào thét và sau một lúc xuống dốc thoai thoải, họ nhìn thấy lều trại của đám phu khuân vác. Tất cả đều đã đúng như Mallinson nói trước; đám phu khuân vác sẵn sàng chờ đón họ, những con người vạm vỡ khỏe mạnh, mình mặc áo lông thú và da cừu, đang thu mình dưới những con gió gào thét, đang hăm hở để bắt đầu cuộc hành trình trở về Tatsien-Fu, một nghìn một trăm dặm về phía Đông trên biên giới Trung Quốc.
“Anh ấy về cùng với chúng ta!” Mallinson phấn khởi kêu lên khi hai người gặp Lo-Tsen. Anh quên là Lo-Tsen không biết tiếng Anh song Conway đã dịch lại.
Dường như chưa bao giờ cô bé Mãn Châu trông lại tươi tỉnh rực rỡ như lúc này. Cô mỉm cười đáp lại Conway, một nụ cười quyến rũ, nhưng cặp mắt cô dồn tất cả vào anh chàng thanh niên.