Chương Ba CỐ PHƯƠNG MỘT GIẢI U SẦU
Sau khi rót cho Sơn một ly nước lọc, chị Thu Dung tiến lại chiếc máy vi âm vặn lên một băng nhạc êm dịu. Âm thanh dìu dặt làm căn phòng ấm cúng hẳn lại. Tiếng hát của Ánh Tuyết trong bài “Giấc mơ hồi hương” làm sống lại trong lòng chị những kỷ niệm ấu thơ khi còn ở Hà Nội. Bờ hồ Hoàn Kiếm vào buổi chiều cuối hạ với dòng nước trong xanh, những con đường xơ xác đầy lá rụng bay xào xạc trong gió lạnh buổi đầu thu. Âm thanh kỷ niệm như giao động, làm thức dậy trong lòng chị những nỗi xao xuyến nhẹ nhàng êm dịu.
Trong lúc thằng Sơn vẫn không rời bỏ được óc tò mò của nó với bao thư vừa lượm được. Bao thư này vẫn nằm yên một cách ngoan ngoãn trên mặt bàn, bên ngoài tuy dán kín, nhưng lại có vẻ là một bao thư chuyển tay, và địa chỉ chỉ ghi một dòng chữ vỏn vẹn “gửi công ty ấn loát Hai Cây Dừa”. Thật là kỳ cục. Dẫu có sục sạo khắp mọi hang cùng ngõ hẻm Sài Gòn, Chợ Lớn này hẳn chưa chắc tìm thấy cái nhà in nào mang bảng hiệu Hai Cây Dừa. Nhưng đó là chuyện phải điều tra kỹ càng mới có thể kết luận được. Vấn đề bây giờ là hãy tìm hiểu bên trong bao thư chứa đựng cái gì. Sơn sốt ruột nhìn về phía chị Thu Dung. Lúc này chị cũng vừa điều chỉnh xong âm thanh của bản nhạc. Chị nhìn Sơn mỉm cười như thông cảm với nó về nỗi sốt ruột phải chờ đợi. Sau đó, chị trịnh trọng nâng bao thư lên ngang tầm mắt. Liếc qua dòng chữ ngoài phong bì, chị chép miệng:
– Công ty ấn loát lấy tên gì không lấy, lại đi lấy tên Hai Cây Dừa. Bọn anh Tư Bạch Đằng bao giờ cũng đầy vẻ bí hiểm, khó thương.
Nói rồi chị rút ở hộc bút ra một cây viết chì, lùa vào một khe hở trên mép dán rồi xoay nhè nhẹ. Như một phép lạ tài tình, bao thư bị bóc ra một cách dễ dàng mà không để lại vết sước nham nhở nào. Thấy Sơn chăm chú nhìn, chị Thu Dung hơi đỏ mặt mắc cỡ, và chị vội nói:
– Tò mò đọc thư của người khác là một thói xấu, thiếu văn minh. Ở ngoại quốc còn có thể bị kiện đi tù nữa… Nhưng… nhưng… đây lại là vấn đề khác, phải không Sơn nhỉ.
Sơn tán thành ngay:
– Đứt đuôi đi rồi! … Mình lịch sự với ai kia chớ, với anh Tư Bạch Đằng thì còn lâu!
Rồi mắt nó sáng lên nhìn về phía mảnh giấy trắng mà chị Thu Dung vừa rút ở bao thư ra. Chị giơ lên đọc thật nhanh rồi ngơ ngẩn:
– Thế là cái quái gì…
Sơn không nhịn được, vội chạy bổ lại và nghển cổ lên đọc qua vai chị. Nó cũng không giấu được vẻ ngạc nhiên bởi vì trái với điều mà cả hai chị em cùng dự tưởng, mảnh giấy trong bao thư chỉ ghi chép vỏn vẹn có một… bài thơ! Mà thơ lục bát đàng hoàng, vần điệu thì cũng có đấy, nhưng lời lẽ thật ngô nghê khó hiểu. Nguyên văn như sau:
Bài từ thói xấu tật hư
Mới hay còn lắm công tu triệu lầm.
Đất mình, mình ở sao không?
Gắng công vun tỉa để hòng kết hoa.
Vùng lên một giải sơn hà
Nước non còn đó tình ta chấp gì.
Tâm tình thêm nữa rồi đi
Một mai thương nhớ xuân về hè qua
Kể đâu cho xiết tình ta
Nghìn năm phân cách; đường xa câu chờ
Thề vì một mối duyên mơ
Cam tâm tháng đợi năm chờ hợp hôn
Cố phương một giải u buồn!
Chị Thu Dung đọc lại một lần thứ hai, rồi thứ ba, thứ tư mà chị cũng chẳng tìm ra được chút ánh sáng nào, bực dọc, chị ném tờ giấy xuống mặt bàn, rồi đi đi lại lại trong phòng, miệng luôn mồm lẩm bẩm:
– Bài từ thói xấu tật hư… bài từ hay bài trừ… bài từ là cái cóc khô gì…
Hay có lúc chị giận dỗi:
– Vùng lên một giải sơn hà. Nước non còn đó tình ta chấp gì. Tình ta chấp gì! Con khẹc! Sao lại chấp gì! Thật đúng là thơ con cóc! Rồi lại Cố phương một giải u buồn. Cố hương hay cố phương? Quê cũ? Trời cũ? Phương cũ?
Cuối cùng chị thất vọng quay ra cầu cứu Sơn:
– Thế nào? Chú Sơn! Chú có hiểu cái gì không?
Sơn ngán ngẩm lắc đầu:
– Em cũng chịu. Không biết bài thơ có ẩn ý gì?
– Chắc chắn là phải có ẩn ý rồi. Nó càng vô nghĩa mình càng nghi ngờ. Duy chẳng biết phải dựa vào đâu để mình có thể phăng ra được.
Sơn buột miệng:
– Hoài của, nếu hồi chiều chị biết được địa chỉ của ông thi sĩ Xao Xuyến.
Chị Dung ngạc nhiên:
– Biết địa chỉ của ổng để làm gì?
Sơn đáp:
– Để mình hỏi?
– Sao lại hỏi ông ấy được?
– Bởi vì ông ấy là thi sĩ. Làm thơ được thì chắc là phải hiểu thơ chứ.
Chị Thu Dung mỉm cười:
– Thơ gì thì thơ chứ cái kiểu này đến thi hào Nguyễn Du cũng chẳng hiểu nổi. Bởi tác giả của nó có định làm thơ đâu. Họ chỉ dùng hình thức bài thơ để chuyển đi một bức mật thư…
– Mà muốn giải mật thư thì phải có chìa khóa. Chìa khóa ở đây là đâu?
Chị Thu Dung vụt rạng rỡ hẳn mặt lên, chị vội chạy lại chộp lấy tấm bao thơ giơ lên coi lại. Sau câu nói của Sơn, chị hy vọng chìa khóa của lá thư này sẽ nằm ở đâu đó ngoài phong bì. Nhưng chị thất vọng ngay, bởi vì ngoài dòng chữ “gửi công ty ấn loát Hai Cây Dừa”, chị không còn thấy bao thư có dấu hiệu gì khác. Chị thất vọng ra ngồi phịch xuống chiếc ghế salon, và đầu óc không ngừng quay cuồng những lời thơ quái gở “Bài từ thói xấu tật hư. Mới hay còn lắm công tu triệu lầm”. Trên vầng trán phẳng của chị bắt đầu lấm tấm những giọt mồ hôi. Một lát sau chị đứng dậy:
– Thôi dẹp nó đi. Bây giờ có ngồi đến sáng thì cũng chẳng mò ra được cái gì. Theo nguyên tắc làm việc của chị, thì lúc nào gặp chuyện không giải quyết được, ta hãy vứt nó đấy đi làm việc khác thoải mái hơn. Chờ một lúc khác, đầu óc sáng suốt trở lại, biết đâu chẳng nẩy được ý kiến hay. Chú có đồng ý như thế không?
Sơn mỉm cười:
– Em đồng ý!
– Vậy hãy dẹp nó qua một bên. Hai chị em mình đi ăn một chầu kem rồi chị đưa chú về nhà. Còn bài thơ này, để mai hãy tính.
Hai chị em lại tiếp tục dẫn nhau ra xe, chị Thu Dung lái lên đường Nguyễn Huệ vào một tiệm kem quen thuộc. Tuy chị nói là gạt bỏ lá thư qua một bên, không thèm suy nghĩ, nhưng rồi chị cũng không giấu được vẻ ưu tư. Câu chuyện giữa chị và Sơn không được vui vẻ, hồn nhiên như mọi ngày, chị cũng ít cười hơn, đôi mắt chị bỗng xa vắng hẳn đi, chắc là chị vẫn còn bị ám ảnh bởi những câu thơ quái gở.
Cuộc đi chơi không giúp ích cho hai chị em được gì hơn, trái lại cả hai cùng cảm thấy mệt mỏi hơn lúc bình thường. Nhìn đồng hồ tay đã hơn mười một giờ, chị Thu Dung uể oải rủ Sơn đứng dậy trả tiền, và chị lẳng lặng ra xe. Trên suốt quãng đường về, chị vẫn giữ cái vẻ yên lặng, trầm buồn ấy.
Lúc chia tay với Sơn, chị hẹn gặp lại nó vào ngày mai ở tòa báo Ánh Sáng, rồi chị quay xe trở về. Trong đầu óc của chị không ngớt vấn vương bài thơ kỳ cục trong bao thư lượm được. Chị tự nhủ phải áp dụng phương pháp làm việc khoa học hơn mới có thể hy vọng soi sáng được vào những dòng chữ mù mờ khó hiểu. Sau khi ngâm mình thật lâu trong nước lạnh cho tâm hồn thật sảng khoái, chị lại tiếp tục vào bàn làm việc. Lần này chị ghi trên một mảnh giấy những chữ được dùng trong bài thơ mà chị cho là mang vẻ ngây ngô một cách cố ý. Chị khởi đầu bằng ngay câu thơ thứ nhất:
– Bài từ thói xấu tật hư
Theo sự suy xét của chị, hai chữ “bài từ” nghe thật chướng. Nhưng giả sử hoán vị (đổi chỗ) hai phụ âm đứng đầu thì được chữ TÀI, có thể là một lời lẽ bí ẩn ở trong thư. Vậy chị tạm coi là phải khởi đầu bằng nguyên tắc thứ nhất:
– “Cứ hai chữ một, nếu đem lấy phụ âm đứng đầu của chữ sau thế chỗ cho phụ âm của chữ đứng trước sẽ thu được một chữ có nghĩa” (Như BÀI TỪ thì trở thành chữ TÀI).
Nhưng chị vấp ngay phải cái khó khăn ở mấy chữ kế tiếp: như Thói xấu thành Xói, Tật hư thành Hật, hai chữ không có ý nghĩa ăn nhập gì cả. Sau một hồi lâu suy nghĩ, chị lại ra nguyên tắc thứ hai là:
“Mỗi câu thơ dù lục hay bát thì chỉ mang một chữ có nghĩa mà thôi” (như câu lục thứ nhất thì chấp nhận chữ TÀI) – Qua đến câu kế tiếp “mới hay còn lắm công tu triệu lầm” nếu áp dụng cách chấp nối phụ âm ở trên, thì 8 chữ sẽ cho chị 4 tiếng sau này: Hới (mới hay) lòn (còn lắm) tông (công tu) liệu (triệu lầm). Chị vụt khám phá ra rằng tiếng sau cùng rất phù hợp với tiếng Tài ở trên thành ra hai chữ “tài liệu”.
Chị reo lên mừng rỡ như một đứa trẻ thơ hồn nhiên được mẹ cho quà và chị nêu ngay được nguyên tắc thứ ba, là
– “Trong bài thơ lục bát, câu lục chỉ lấy hai tiếng đầu, còn câu bát thì lấy hai tiếng cuối” – Rồi cứ dựa vào ba nguyên căn bản tắc ở trên, chị hăm hở nhặt ra được những đôi chữ sau này:
BÀI TỪ – TRIỆU LẦM – ĐẤT MÌNH – KẾT HOA – VÙNG LÊN – CHẤP GÌ – TÂM TÌNH – HÈ QUA – KỂ ĐÂU – CÂU CHỜ – THỀ VÌ – HỢP HÔN – CỐ PHƯƠNG –
Sau đó chị lấy phụ âm đầu của chữ sau, thay thế cho phụ âm đầu của chữ trước, chị phăng ra dễ dàng nguyên văn bức mật thư mà anh Tư Bạch Đằng phải gửi đến “Công ty ấn loát Hai Cây Dừa”:
“TÀI LIỆU MẤT HẾT – LÙNG GẤP TÂM QUÈ ĐỂ CHÂU VỀ HỢP PHỐ”
Như trút được gánh nặng ngàn cân đè trĩu tâm hồn của chị suốt một buổi tối đầy ưu tư, chị nhẩy chân sáo khắp quanh nhà, vặn nhạc lên thật to và hát theo bản nhạc một cách ồn ào như kẻ say sưa. Một lát sau, chị mới lấy lại trầm tĩnh và ngồi biên ra ba câu hỏi mà chị thấy cần phải giải đáp được:
1) Thứ nhất: Tài liệu bị mất là tài liệu gì? Nó có liên quan gì đến vụ vượt ngục của Đông Hưng và nhất là những con đom đóm trời của Giáo sư Thomas Vincent nằm ở đâu đó trên giải Thiên Mã trùng điệp?
2) Thứ nhì: Tâm Què là ai? Một hội viên của Hội Hoa Phù Dung? Một kẻ phản bội? Hay một tay thân tín?
3) Thứ ba: Công ty ấn loát Hai Cây Dừa là cái gì? Một tổ chức? Một tên ở nhà in? Hay một ám hiệu?
Để trả lời cho ba câu hỏi này, chị thấy cần phải nhờ đến nhiều người cộng tác và sự hoạt động của chính mình nữa. Về tập “tài liệu bị mất hết” phải mất nhiều công phu mới có thể biết nó là tài liệu gì, nhưng tông tích của Tâm Què chị có thể nhờ ông Thanh Tra Mạc Kính, người am hiểu khá nhiều về các nhân vật tứ chiếng. Còn về công ty ấn loát Hai Cây Dừa thì việc điều tra không gì tốt hơn là nhờ Sơn và cả tiểu đoàn trẻ con bán báo mà Sơn quen thuộc. Một mật lệnh sẽ được ban ra, là “đi sưu tầm tất cả những cơ sở, những công ty ấn loát những quán ăn nào lấy bản hiệu Hai Cây Dừa.” Đáy bể mò kim thật đấy, nhưng trong kỹ thuật điều tra, không ai có quyền bỏ sót một cây kim giữa một rừng sắt vụn. Và sau đó, một phần lớn sẽ phải trông vào may rủi. Biết đâu, các cụ ngày xưa đã dạy “Có công mài sắt có ngày nên kim mà”.