LỜI TỰA (Một thời chống Pháp)
Kính tặng đồng bào và
Chiến sĩ Đường số 4 anh hùng
Cao Bắc Lạng;
Về chiến dịch đã từng là địa bàn trọng điểm của Chiến khu Việt bắc là căn cứ địa chính của chiến trường Bắc Bộ là chiến trường chính trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Trên mặt trận Cao Bắc Lạng, đặc biệt là trên con đường số 4 - “con đường lửa” - quân và dân ta đã chiến đấu với một tinh thần anh dũng và sáng tạo tuyệt vời, lập nên chiến công xuất sắc. Ở đây, cũng đã diễn ra chiến dịch đại thắng quy mô lần đầu tiên của quân đội ta, Chiến dịch giải phóng Biên giới.
Trung đoàn 174 vốn là trung đoàn chủ lực của Cao Bắc Lạng với các đơn vị tiền thân và các đơn vị bạn đã cùng với đồng bào các dân tộc góp phần xứng đáng vào thắng lợi lớn của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến trường kỳ.
Cuốn "Hồi ký Dọc đường số 4 miền Cao Lạng” của đồng chí Đặng Văn Việt đã trung thành ghi lại một phần những sự kiện quan trọng và những giờ phút không bao giờ quên trên chiến trường lịch sử.
Với ý nghĩa ấy, cuốn Hồi ký là một thành công. Tôi rất hoan nghênh.
Ngày 19 tháng 8 năm 1987
Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP
LỜI TỰAĐường số 4 là nơi đã diễn ra nhiều chiến công hiển hách trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Những chiến công đó đã được hình thành và phát triển theo sự lớn mạnh từng bước của các lực lượng vũ trang ta. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến (1945 - 1946), bộ đội Đường số 4 cũng như quân đội cả nước còn non trẻ, ít được huấn luyện, trang bị thô sơ đã tích cực chặn đánh đạo quân nhà nghề của thực dân Pháp được trang bị hiện đại, đã từng cùng quân Đồng minh chiến thắng phát xít Đức, giải phóng nước Pháp nay chuyển sang xâm lược và nô dịch các thuộc địa cũ.
Đến Thu Đông 1947, địch mở cuộc tiến công lên Việt Bắc với âm mưu thâm độc, đầy tham vọng: dập tắt cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, kết thúc cuộc chiến trong vòng ba tháng.
Làm theo lời kêu gọi của Bác, được nhân dân cả nước phối hợp, quân và dân vùng căn cứ địa Thần thánh đã nhất tề đứng dậy, kiên quyết kháng chiến thắng lợi bằng mọi khả năng, mọi phương tiện, đánh trả liên tiếp các mũi tiến công của giặc. Trận Bông Lau nổi tiếng (30-10-1947) trên Đường số 4 đã gây nhiều tổn thất cho cánh quân chủ yếu của địch do Bô-phrê chỉ huy. Mặt trận Đường số 4 cùng các mặt trận sông Lô và Đường số 3, làm thất bại âm mưu chiến lược đánh nhanh, tháng nhanh của bộ thống soái thực dân, buộc chúng phải chuyển sang thi hành chiến lược “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”.
Cuộc tấn công Thu Đông 1947 của thực dân Pháp thất bại nhục nhã, nhưng chúng vẫn không từ bỏ ý đổ nham hiểm. Chúng chiếm Đường số 4, đóng hàng trăm đồn bốt, bủa vây vùng biên giới Việt - Trung, chiếm Bắc Cạn, giữ Đường số 3, cắm mũi dao sâu vào giữa căn cứ địa Việt Bắc. Để đánh bại âm mưu của địch trong giai đoạn mới, Trung ương Đảng, Bộ Tổng chỉ huy chủ trương thực hiện phương châm “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung” để đẩy mạnh chiến tranh du kích và mở chiến dịch lớn dần từng bước.
Cuộc chiến đấu một mất một còn, giành giật từng tấc đất diễn ra vô cùng ác liệt. Đường số 4 là con đường huyết mạch. Thực dân Pháp buộc phải dùng con đường này để vận chuyển và tiếp tế. Mặt trận Đường số 4 được hình thành. Đây là một trong những nơi đầu tiên áp dụng chủ trương chiến lược mới của Bộ Tổng tham mưu. Trung đoàn được bố trí thành đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung. Nhờ vậy, chiến tranh du kích được phát động và phát triển, gây cho địch nhiều thất bại, tạo điều kiện cho chủ lực đánh lớn.
Quân và dân Đường số 4 vận dụng một cách sáng tạo đường lối quân sự của Đảng và Chủ tịch Hổ Chí Minh, từ đánh nhỏ đến đánh lớn, từ dễ đến khó, tiến hành chiến tranh nhân dân rộng rãi, thực hiện mỗi người dân là một người lính, lấy vũ khí địch diệt địch, bám lấy địch mà đánh, từng bước giành chủ động, chuyển thế và lực giữa ta và địch, đánh đến đâu tổng kết, rút kinh nghiệm đến đó. Nhờ vậy mà trong khoảnh khác thời gian ba năm (1947 - 1950), quân và dân Đường số 4 đã làm xoay chuyển gần như đảo ngược tình thế. Hình thức tác chiến phổ biến của chủ lực lúc đấu là phục kích. Trong những năm 1948 - 1950, đã diễn ra một cuộc đấu trí, đấu lực quyết liệt về chống phục kích và phục kích. Địch tìm trăm phương nghìn kế để đề phòng ta phục kích. Nhưng vỏ quýt dày đã có móng tay nhọn, ta vẫn phục kích nhiều lần, phục kích ngày càng lớn, trên quãng đường ngày càng dài, trận sau tháng đậm hơn trận trước. Báo chí, đài phát thanh địch đã phải gọi Đường số 4 là “con đường chết chóc”. Kinh nghiệm của các trận phục kích nói trên không những rất có giá trị hổi đánh Pháp, đánh Mỹ, mà vẫn rất có giá trị sau này đối với quân đội ta.
Trên Đường số 4, còn diễn ra những trận đánh công sự vững chắc và đánh vận động lớn đầu tiên. Quân ta đã tiêu diệt gọn cụm cứ điểm Đông Khê lần thứ nhất. Trận Đông Khê lần thứ hai là trận khơi ngòi thành công để thực hiện cách đánh “công điểm, diệt viện” tiêu diệt hai binh đoàn Lơ-pa-giơ và Sác-tông trong chiến dịch Biên giới lừng lẫy, một chiến dịch giành thắng lợi giòn giã, mở toang cửa ngõ biên giới, mở đầu cho một giai đoạn chiến lược mới, đánh tập trung tiêu diệt lớn, giải phóng nhiều vùng đất đai, trong kháng chiến chống Pháp, cũng như trong lịch sử quân đội ta.
Đồng chí Đặng Văn Việt, tác giả cuốn sách này, vốn là một cán bộ nghiên cứu của Bộ Tổng tham mưu hồi 1947. Sau khi được phái xuống đơn vị, đồng chí là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 28 (Lạng Sơn), sau này là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 174, chủ lực của ba tỉnh Cao-Bắc-Lạng. Đồng chí đã có mặt từ những ngày đầu cho đến những chiến thắng cuối cùng trên trục Đường số 4, đã chỉ huy và đánh thắng nhiều trận phục kích và công đồn nói trên. Bè bạn và cả kẻ địch thường mệnh danh đồng chí là “Đệ tứ quốc lộ đại vương”.
Trung đoàn do đồng chí chỉ huy đã hoàn thành trọn vẹn và xuất sắc nhiệm vụ của mình, đã thực hiện đúng lời dạy của Bác “đi dân nhớ, ở dân thương”, “đã đánh là thắng”.
Cuốn sách này, bằng lời văn giản dị, mộc mạc của người lính, đã miêu tả được những trang sử hào hùng của Đường số 4 năm xưa, tinh thần chiến đấu anh dũng tuyệt vời của các lực lượng vũ trang, sự đóng góp tận tình, tận nghĩa của đồng bào Cao-Bắc-Lạng, mối tình cá nước thắm thiết quân với dân, sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của đảng bộ các cấp, sự chỉ huy tài tình của Bộ Tổng tư lệnh và các đơn vị. Một số sự kiện, tên người và địa danh, đã từng được ghi vào sử sách, nay được sống lại một cách sôi động và phong phú. Cuốn sách cũng đã nêu được một số nét đặc sắc của nền nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Tôi thành thực hoan nghênh tác giả vả cho rằng đây là một cuốn sách quý, không riêng đối với quân và dân Cao-Bắc-Lạng mà cả đối với quân và dân cả nước.
Ngày 28 tháng 6 năm 1986
Đại tướng HOÀNG VĂN THÁI