Chương thứ nhất CUỘC CHIẾN ĐẤU QUYẾT LIỆT TRÊN ĐƯỜNG SỐ 4- -NHỮNG NGÀY MỞ ĐẦU
Ngày mồng 7 tháng 10 năm 1947, giặc Pháp bắt đầu mở cuộc tiến công lớn lên vùng căn cứ Việt Bắc. Để đạt phần thắng, tướng Xa-lăng được cử sang thay tướng Đép-bơ làm tư lệnh quân viễn chinh Pháp toàn Bắc Bộ. Nhờ có thêm mấy ngàn viện binh từ Pháp mới sang, y huy động cả thảy 12000 quân vào cuộc tiến công này. Cuộc hành binh được mệnh danh “Kế hoạch Lê-a” nhằm 3 mục đích:
- Tiêu diệt đầu não chỉ huy, bắt gọn Chính phủ kháng chiến Hổ Chí Minh.
- Tiêu diệt lực lượng chủ lực đối phương.
- Đánh phá các kho tàng, cơ sở kinh tế, quốc phòng, làm tê liệt tiềm lực chiến tranh của đối phương.
Nếu kế hoạch Lê-a thắng lợi địch coi như đã loại trừ về cơ bản công cuộc kháng chiến của Việt Minh. Còn lại có chăng chỉ mang tính chất kháng cự nhỏ, phá rối của các nhóm du kích ở từng địa phương riêng lẻ. Nó sẽ tan dần sau các cuộc hành binh càn quét.
Để thực hiện cái kế hoạch đẩy kiêu ngạo, hợm hĩnh, sặc mùi chủ quan của kẻ chuyên ỷ vào sức mạnh, ít chịu tính tới khả năng giáng trả của đối phương, tướng Xa-lăng tung hai gọng kìm lớn, đồng thời sử dụng quân dù như một mũi thứ ba hòng khép chặt vùng Việt Bắc.
Gọng kìm phía Tây do tên đại tá Com-muy-nan chỉ huy một binh đoàn hỗn hợp theo đường thủy, ngược sông Lô tiến chiếm Tuyên Giang, Chiêm Hoá. Còn tên đạt tá Bô-phrê chỉ huy một binh đoàn bộ binh thuộc địa, từ phía Lạng Sơn ngược theo Đường số 4 đánh lên Thất Khê, Cao Bằng rồi vòng xuống Bắc Cạn khuýp chặt hướng Đông và Bắc. Chúng dự tính hai gọng kìm sẽ hợp điểm ở Đại Thị, Tuyên Quang.
Cùng lúc, từ trên trời, binh đoàn đổ bộ hàng không của tên đại tá Xô-va-nhắc nhảy dù ở vùng Bắc Cạn, ụp xuống Chợ Đồn, Chợ Mới. Một khi vòng vây đã khép chặt, một số tiểu đoàn dự bị chiến dịch sẽ được thả tiếp xuống bất cứ địa điểm nào thuộc vùng chiến khu Việt Bắc nếu phát hiện ra cơ quan đầu não chỉ huy hoặc lực lượng chủ lực của tướng Giáp.
Hồi ấy tôi đang công tác ở Phòng tác chiến, tiền thân của Cục tác chiến thuộc Bộ Tổng tham mưu ngày nay. Tôi phụ trách Ban nghiên cứu. Cơ quan chúng tôi đóng tại vùng Yên Thông, ở xen kẽ trong nhà đồng bào dân tộc Tày, Nùng. Nơi đây thuộc vùng chiến khu Việt Bắc. Đồng bào đã theo cách mạng từ thời tiền khởi nghĩa tháng Tám, nên càng hết lòng, hết sức gắn bó với công cuộc kháng chiến, cứu nước. Tính tình chất phác, nói ít làm nhiều, hầu như từ mế già tới em nhỏ đều rất có ý thức bảo vệ cách mạng, có tinh thần cảnh giác giữ bí mật rất cao. Một người xa lạ dù đến sát bản làng cũng không thể hỏi ra nơi chúng tôi ở nếu không có liên lạc đưa đường hoặc giấy tờ đầy đủ. Người đó chỉ như chim chích lạc rừng, vì bà con triệt để thực hiện khẩu hiệu “Không nghe, không biết, không thấy”, cứ “Bò mi, bò chắc” và lắc đầu hoài.
Sớm tinh mơ ngày 7 tháng 10 vừa nghe tiếng kẻng, chúng tôi đều bật dậy, chạy ra sân tập thể dục như thường lệ. Bây giờ đã cuối thu, núi rừng Việt Bắc còn giăng mù sương sớm, phảng phất làn gió lạnh chớm đông. Bỗng nhiên kẻng báo động dồn dập, đồng thời cả vùng trời Yên Thông rền vang tiếng máy bay địch. Lúc đẩu chúng tôi tưởng chỉ là một vài chiếc khu trục Xpít-phai (cổ rụt) lùng sục dọc ngoài tuyến Đường số 3 như mọi lần thường đã xảy ra. Nhưng tiếng động cơ vang dội mạnh mẽ hơn, số lượng máy bay nhiều hơn. Ngồi dưới hầm và hào giao thông, chúng tôi đểu chung một ý nghĩ: “Bọn Pháp bắt đầu giở trò đây”.
Từ lâu, toàn cơ quan Bộ Tổng tham mưu đã được phổ biến tình hình chung. Trung ương Đảng từng nhận định: Một khi giặc Pháp chiếm được Hà Nội và một số tỉnh thành vùng đổng bằng, lập ra được chính phủ bù nhìn tay sai, chúng sẽ tính chuyện giải quyết nhanh cuộc chiến tranh xâm lược. Nhất định chúng sẽ tập trung binh lực lớn, với âm mưu đánh chớp nhoáng, ồ ạt, tiến công chiếm khu Việt Bắc hòng tiêu diệt cơ quan đầu não và chủ lực của ta. Chúng cũng có thể tiến mở rộng địa bàn chiếm đóng vào đất Thanh, Nghệ, vùng tự do khu Tư nữa. Nhận định xác đáng trên được quán triệt đến toàn thể quân và dân ta, nên chiến khu Việt Bắc đã sẵn sàng đối phó. Khắp mọi nơi đều thực hiện tiêu thổ kháng chiến, vườn không, nhà trống. Các phố phường, thị xã thị trấn đều bị phá hủy, chỉ trơ gạch ngói hoang tàn. Đường xá đào sẻ, cầu cống đánh sập, ngăn chặn bước tiến của cơ giới giặc. Các vùng tráng địa đều cắm cọc tre, chống quân nhảy dù. Do đó, bấy giờ cuộc tiến công lên Việt Bắc của giặc xảy ra không hoàn toàn bất ngờ với ta. Có chăng, cánh cán bộ nghiên cứu tham mưu chúng tôi chỉ không nắm được cụ thể ngày N giờ G và một số điểm chúng sẽ nhảy dù, cung cách sử dụng binh lực của địch mà thôi.
Chỉ sáu hôm sau (12-10) cuộc tiến công này, toàn bộ bản kế hoạch mang mật danh Lê-a và Clô-clô của giặc đã bị phơi bày với mọi chi tiết ngày giờ, cũng như đường đi nước bước cụ thể. Số là chiếc máy bay chở tên đại tá Lăm-be Tham mưu trưởng quân đội viễn chinh Pháp trên chiến trường Bắc Bộ, bị cao xạ của Trung đoàn 74 Cao Bằng bắn rơi. Lập tức, chiếc cặp đựng toàn bộ bản “Kế hoạch Lê-a” được hoả tốc mang về Bộ Tổng tư lệnh ngay. Liên lạc viên Nguyễn Danh Lộc đã chạy liên tục 4 ngày 3 đêm từ Cao Bằng về Yên Thông (9-10 đến 12-10). Tài liệu đó cùng với sự tổng hợp tình hình từ nhiều nguồn của Ban 2, đã giúp trên điều hành cuộc chiến hiệu nghiệm “quyết phá tan cuộc tiến công của giặc Pháp”.
Đây cũng là những ngày dồn dập sôi động của Bộ Tổng tham mưu nói chung, của Ban nghiên cứu, Phòng tác chiến chúng tôi nói riêng. Việc đầu tiên là cả cơ quan được lệnh chuyển quân gấp. Thay vào chiếc cặp da thường dùng, giờ mỗi người được phát một cái thùng sắt tây để đựng tài liệu, vừa không sợ mưa, vừa không lo cháy. Nom thật ngồ ngộ, vui vui. Anh nào anh nấy đeo kè kè bên người, như những anh bán lạc rang. Dọc đường hành quân có cậu cao hứng đã rao đùa:
- Ai phá xa nóng ròn đê!
- Lạc rang húng lìu nào!
Ngày ấy, chúng tôi độ tuổi 20, hầu hết là học sinh, sinh viên, nhập cuộc trường kỳ kháng chiến với tất cả nhiệt tình và tâm hồn tươi trẻ. Cả phòng tác chiến chỉ có mỗi đồng chí Ba Đang người Nam Bộ là ngoài 30 tuổi nên anh đạo mạo chững chạc hơn cả. Cơ quan tác chiến chúng tôi vừa hành quân vừa vẫn phải theo dõi tình hình và nghiên cứu đễ xuất ý kiến kịp thời lên Bộ Tổng tham mưu. Vì vậy, vừa đến địa điểm mới, chúng tôi bắt tay vào việc ngay. Lúc này các mũi tiến quân của địch đã rõ rệt. Thi hành Nhật Lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, bộ đội và dân quân các địa phương chặn đánh địch khắp nơi. Gọng kìm nào của chúng cũng bị chia cắt.
Tối 25 tháng 10, anh Hoàng Văn Thái, Tổng tham mưu trưởng triệu tập các cán bộ từ trưởng ban trở lên tập trung tại một hang đá ven rừng Vũ Nhai. Giữa hang kê một chiếc bàn nhỏ, trên để chiếc đèn con, anh Thái tóm tắt tình hình diễn biến chiến sự mấy ngày qua, sau đó anh Văn (1) bắt đấu nói chuyện. Bằng giọng miền Trung đầm ấm đầy sức thuyết phục, anh Văn nêu rõ quyết tâm của Bộ thực hiện tốt chỉ thị của Trung ương và Bác Hồ: “Quyết phá tan cuộc tiến công của giặc Pháp”.
Anh mỉm cười nói vui:
- Ba mục đích của giặc trong kế hoạch Lê-a thì rõ ràng có thể kết luận ngay về mục đích thứ nhất. Mục đích này là toan tính tiêu diệt bộ máy đầu não chỉ huy, bắt gọn Chính phủ ta. Vậy hiển hiên bị thất bại rồi, thất bại hoàn toàn, còn mục đích thứ hai đang bị đảo ngược. Không phải chúng tiêu diệt được lực lượng chủ lực ta, mà chính chúng đang bị ta kìm chân, căng mỏng giữa núi rừng. Chúng đang hứng đòn phục kích, tập kích, bị đánh trả ở mọi nơi, mọi lúc. Có chăng ở mục đích thứ ba, chúng chỉ phá phách được một vài kho lán ta chưa kịp phân tán mà thôi.
Sau đó anh chỉ thị:
- Mọi người trong Bộ Tổng tham mưu phải nắm bắt tình hình địch, nghiên cứu đề xuất những ý kiến, biện pháp tác chiến xác đáng. Đây cũng là dịp để cơ quan tham mưu phát huy năng lực, trưởng thành lên một bước trong cuộc đọ sức quyết liệt Thu Đông này.
Kết thúc cuộc họp, tôi đang cùng các đồng chí khác sắp sửa ra về, bỗng anh Thái gọi:
- Việt! Việt lại đây!
Tôi đi tới thì anh Văn cũng đứng dậy, nhìn tôi với cặp mắt nheo cười, anh nói rất gọn, rất thân:
- Cậu bàn giao công việc lại cho Ban, năm giờ sáng mai có mặt ở đình làng, đi theo tôi và Trường(2) lên mặt trận.
Tôi rập chân, tuân lệnh. Vì hiểu rằng lời nói tuy thân tình nhẹ nhàng, nhưng rõ ràng là mệnh lệnh do chính đồng chí chỉ huy tối cao trực tiếp giao.
Tôi chưa kịp quay đi, anh Văn lại hỏi:
- Này, cưỡi ngựa tốt chứ?
Tôi đáp:
- Báo cáo: Tốt ạ!
- Tốt! thế về chuẩn bị ba lô, còn ngựa, Tham mưu sẽ lo.
Về đến lán, kể lại tin này với anh em trong Ban, ai cũng phát ghen với tôi. Người này bảo:
- Ông được ra mặt trận, mãn nguyện quá rồi!
Người kia đùa:
- Thoát cảnh ôm thùng “phá xa nóng ròn” nghiền ngẫm giấy tờ nhé!
Riêng tôi, đêm đó thao thức hoài. Cứ tự nhủ thầm: “Mặt trận nào đây? Ở vùng nào nhỉ?”.
Quả tình anh em nói đúng tâm tư mình. Tôi vốn ưa năng động hơn làm công việc nghiên cứu. Hồi cướp chính quyển ở Huế, chính tôi và các đồng chí Võ Quang Hổ, Nguyễn Thế Lương(3) tức Cao Pha đã giật bỏ lá cờ quẻ ly của Bảo Đại xuống, và lần đầu tiên treo cao lá Cờ đỏ sao vàng lên cột cờ Huế (23-8-1945), trước mũi súng của quân cận vệ Hoàng Cung tại cửa Ngọ Môn. Sau đó tôi chỉ huy chiến đấu ở Đường số 9, ngăn chặn bọn Pháp từ phía Lào đánh sang miền Trung của ta ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công. Sau đó, tôi chuyển lên Mường Xén, chỉ huy mặt trận Đường số 7, vật lộn với quân Mèo, do hai tên phản động Tu Bi, Từ Rơ cầm đầu.
Bấy lâu ở Ban nghiên cứu, Phòng tác chiến, tôi vẫn thầm mong sẽ có ngày được điều xuống đơn vị. Nay rõ ràng ước mơ ôm ấp từ lâu đã thành hiện thực. Lòng tự nhủ lòng: “Chắc cấp trên hiểu được tâm tư nguyện vọng của mình, hiểu được sở trường, sở đoản của mình chăng?”.
Tôi thầm cám ơn anh Hoàng Văn Thái, anh Đào Văn Trường vì nghĩ rằng thế nào cũng có ý kiến của hai anh khi bàn bạc lấy người theo anh Văn ra mặt trận.
Sáng hôm sau, tôi có mặt trước 15 phút ở điểm hẹn. Ba lô nai nịt gọn gàng, khẩu Brô-ninh Ca-na-đa đeo ở hông với tác phong quen thuộc thời chỉ huy chiến đấu ở Đường số 9, Đường số 7. Đây là khẩu súng chiến lợi phẩm khi tôi và một số bạn chiến đấu do anh Thế Lâm chỉ huy đánh bọn Pháp nhẩy dù xuống Hiền Sĩ gần Huế, mưu toan bắt liên lạc với Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi, hòng lập lại bộ máy thống trị cũ.
Đúng 5 giờ, anh Văn cùng anh Trường xuất hiện từ góc rừng tới, theo sau là anh chiến sĩ cận vệ. Thấy tôi, anh Văn hỏi:
- Sẵn sàng chưa?
Tôi đáp:
- Rất sẵn sàng ạ!
- Thì lên ngựa thôi!
Cả đoàn cho ngựa đi nước kiệu dong dả, nhằm hướng Đình Cả - Bắc Sơn đi miết. Người, ngựa, lúc xuyên trong rừng già, lúc men theo sườn núi cheo leo. Vẻ trùng điệp của núi rừng xiết bao hùng vĩ, xen giữa điệp trùng của rừng xanh, đèo núi, là những mảnh ruộng, nương ngô hình bậc thang. Đây đó, ló hiện bản làng của đồng bào với bóng áo chàm thấp thoáng ven nương. Lòng tôi đầy bâng khuâng xao xuyến. Mới ngày nào nơi cố đô Huế, trong không khí sôi sục Cách mạng tháng Tám, tôi từng hát bài Bắc Sơn với câu mở đầu đầy luyến tiếc: “Ôi còn đâu đây sắc chàm pha màu gió”, những tưởng con người và cảnh sắc một vùng chiến khu sống động chỉ còn là dĩ vãng một thời không trở lại, chỉ là niềm ước ao, mộng tưởng của người thanh niên trí thức nơi cố đô mà thôi, ấy vậy mà giờ đây, chính mình đang được rong ruổi giữa núi rừng chiến khu Bắc Sơn để nhập vào cuộc chiến rộng lớn: Cuộc kháng chiến trường kỳ quyết liệt với bọn xâm lược Pháp đang mưu toan cướp lại giang sơn đất nước ta lần nữa.*
Chuyến đi này, anh Văn làm việc với Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Lạng Sơn về những việc cấp thiết để đẩy mạnh cuộc chiến đấu trên Đường số 4. Lúc này, cánh quân của Bô-phrê đánh lên Cao Bằng đang cố vòng nối xuống Bắc Cạn. Ta cần tổ chức tốt để có lực lượng mạnh chia cắt, tập kích địch. Do đó phải thành lập các tiểu đoàn tập trung, phải có các đại đội độc lập ở các châu huyện sát kề mặt trận như Thất Khê - Na Sầm - Ôn Châu. Vừa có lực lượng cơ động đánh địch, vừa có lực lượng bám đất, bám dân, phát triển chiến tranh du kích.
Các anh Hoàng Văn Kiểu - Bí thư Tỉnh ủy, Trần Minh Tước - Chủ tịch Lạng Sơn đều hứa tiến hành nhanh công việc, huy động sức người, sức của vào công cuộc kháng chiến, biến chỉ thị của trên thành hiện thực. Anh Văn chỉ thị thành lập ngay Ban chỉ huy mặt trận Đường số 4, vì con đường này sẽ trở thành huyết mạch trong việc vận chuyển của địch giữa các cứ điểm đồn bốt trên trục Cao Bằng - Lạng Sơn. Anh giao anh Đào Văn Trường thay mặt Bộ đốc chiến ở Lạng Sơn. Anh cũng giao cho tôi ở lại làm đặc phái viên của Bộ ở mặt trận. Tôi có nhiệm vụ đi sát Tiểu đoàn 249, vốn là tiểu đoàn độc lập của Trung đoàn 11 Lạng Sơn, sau này là Trung đoàn 28. Tôi còn phải bám sát cả Tiểu đoàn 23 của Bộ vừa tăng cường cho mặt trận Đường số 4.
Tôi nhận lệnh với niềm say mê hăm hở, khoác ba lô cùng đồng chí Giã, cán bộ địa phương đến Bình Gia, vùng trú quân của Trung đoàn 11.
Chợ Bình Gia vẫn sầm uất đông đúc, nhóm họp dọc kề dưới chân dãy núi đá. Gọi là chợ “tản cư” mà vẫn đủ các loại hàng phở chua, giải khát, đồng bào từ các bản mang tới bán đủ thứ sản phẩm, ngũ cốc, hoa quả, cả những tấm thổ cẩm sặc sỡ, nhiều màu. Vừa tới chợ, tôi bỗng thấy ba người phi ngựa từ phía Văn Mịch tới. Người đi đầu dáng to khoẻ, mặc áo bờ-lu-dông Mỹ, khẩu Côn bạt đeo trễ hông. Sau anh là một cán bộ khoác mặc quần áo chiến lợi phẩm, trừ chiếc mũ nan đội đầu. Cậu chiến sĩ bảo vệ, cưỡi ngựa phía sau khoác khẩu các-bin mới toanh. Thì ra đây là đồng chí Thế Hùng, Tham mưu trưởng Trung đoàn 11 cùng một cán bộ tác chiến vừa chiến thắng trận Bông Lau từ Tiểu đoàn 374 về (sau này là D249/E28). Các anh Liên Đoàn, Long Xuyên, Trung đoàn trưởng và phó trung đoàn niềm nở, hổ hởi, đón tiếp tôi. Anh Liên Đoàn vừa bắt tay vừa hỏi luôn:
- Hầy i à! Có phái viên của Bộ xuống thì tốt quá mà. Bọn tôi vừa đánh một trận phục kích ở đèo Bông Lau. Đánh sướng lắm! Thắng to à!.
Anh chỉ Long Xuyên và Thế Hùng:
- Thắng to nên mấy “tướng” diện toàn áo Mỹ, súng Mỹ, thắt lưng Mỹ lố!
Long Xuyên nói vui:
- Thằng Tây nó xin thằng Mỹ viện trợ, rồi đem lên Đường số 4 nộp ta mà.
Tôi vui lây niềm vui chiến thắng của các anh. Cảm thấy gần gũi dễ mến những con người khoáng đạt, tâm tình cởi mở này. Tâm trí tôi háo hức lạ lùng, được đến cùng một đơn vị khoẻ, đánh giỏi, thắng lớn trận đầu, ai mà chẳng vững lòng hởi dạ. Các anh kể lại:
- Địch đi 32 xe bị diệt mất 27 chiếc. Hơn trăm tên bỏ xác.
Trận đánh 30 tháng 10 năm 1947 này đã là một đòn giữa xương sống cái gọng kìm Bô-phrê.
Thế Hùng, người trực tiếp cùng Tiểu đoàn 374 vào trận, phất tay:
- Hầy i à! Không ngờ nó đi nhiều xe quá! Khuýp chặt tý nữa thì 5 xe kia không thoát đâu!
Nhìn con Đường số 4 trên tấm bản đổ tỷ lệ 1/100.000 có chấm bút chì đỏ chói nơi điểm Bông Lau, tôi bảo:
- Nó còn bị nhiều trận kiểu này nữa. Trên tuyến Đường số 4 hiểm trở này, chọn điểm phục kích lợi lắm.
Thế Hùng vỗ tay lên trán:
- Lú quá, tí nữa thì quên thông báo tin vui: bắt được một tù binh...
Trận đầu ra quân thắng lớn, lấy nhiều vũ khí, lại bắt được cả tù binh ; ai cũng hổ hởi, tò mò hỏi kỹ: Tây hay ngụy, trắng hay đen, lính hay quan. Trong khói bụi của trận đánh có tiếng trẻ khóc, nhìn ra là một chú bé Tây con đang ôm xác bố, bên cạnh hàng chục xác Tây khác. Anh Sáu Nhật được phân công đưa ngay chú ra khỏi trận địa.
Các anh ở Trung đoàn 11 đều là người dân tộc Tày, Nùng, giống nhau một điểm: năng động, hoạt bát, thẳng thắn và rất say mê chiến đấu. Chỉ vài ba câu chuyện là gần gũi thân thiết như trong một nhà ngay. Quen thân rồi một thời gian sau có hôm, Thế Hùng cười cười với tôi, anh nhắc chuyện cũ:
- Hầy, hôm gặp ông ở Bình Gia đó, tôi nghĩ riêng trong bụng: Húi! Phái viên gì mà trẻ quá à! Non choẹt thế này đánh đấm gì. Ôi! Phải là con cưng của Bộ đấy thôi.
Tôi cười:
- Nhưng mình làm ăn ở đất này được chứ!
- Ôi tốt rồi! Hiểu rồi - Anh cười vang - vì thế mới nói lại điều nghĩ cũ cho vui mà. Qua đường dài mới biết ngựa hay chứ!
Hôm tôi xuống bám sát Tiểu đoàn 29 và Tiều đoàn 374, anh Trần Sơn(4) chính trị phái viên Trung đoàn 11 tặng tôi chiếc áo rét và đôi gầy đinh Lê dương, đôi tất len dài đến gối. Anh Trần Sơn thân mật bảo:
- Đất rừng Lạng Sơn rét dữ à. Tặng ông bạn trước khi ra mặt trận. Trên Bộ “cao hơn” nhưng nghèo hơn bọn này.
Long Xuyên thì nói đùa:
- Đầu gà vẫn hơn đuôi trâu mà... hà hà...
Ngày ấy, Tiểu đoàn 23 đóng ở Hội Hoan, huyện Thoát Lãng đang áp sát Đường số 4 và chuẩn bị đánh một trận phục kích. Tôi muốn xuống ngay để tham gia bàn bạc chung. Vào cuộc chiến, ai mà chẳng sốt ruột khi biết được tình hỉnh chiến sự chung ở mọi nơi đang tiến triển mạnh tới tấp tin vui thắng lợi. Nào là, bọn Com-muy-nan ở phía tây bị đánh chìm ca-nô, tàu chiến dọc sông Lô, bị đánh co lại tại vùng Bản Thi, Đầm Hồng, Chiêm Hoá. Thế là phá sản cái kế hoạch hội quân của hai binh đoàn Com-muy-nan và Bô-phrê, Bọn Com-muy-nan đang cố sống cố chết rút về cố thủ ở Tuyên Quang. Nào là binh đoàn Bô-phrê.
Quân dù Xô-va-nhắc bị tập kích liên tục tại vùng Chợ Mới, Chợ Đồn, Chợ Rã, Phủ Thông, Đèo Cả, Đèo Giàng. Đường tiếp viện Cao Bằng, Bắc Cạn hầu như bị cắt đứt.
Vậy thì, ở Đường số 4 này, chúng tôi nhất định phải quất tơi tả gọng kìm Bô-phrê và tiến tới làm khốn đốn bọn đồn trú tại các cứ điểm trên đất Lạng Sơn đẹp người đẹp cảnh, giầu nhiệt huyết cách mạng.
Cuộc đời chiến đấu gắn bó với Đường số 4, với Cao - Lạng của tôi bắt đầu từ hôm rời Trung đoàn bộ 11 một mình một ngựa đến với Tiểu đoàn 23 ở Hội Hoan. Người xưa biểu hiện niềm yêu xứ sở Cao - Lạng bằng câu ca dao:
Ai lên xứ Lạng cùng anh,
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em.
Còn tôi ngày đó, đến với Cao - Lạng, với con Đường số 4 lịch sử, bằng tấm lòng cháy bỏng niềm khát khao: “chiến đấu”, cùng nhân dân Cao-Lạng đánh quỵ bọn giặc Pháp xâm lược trên mảnh đất thơ mộng và hào hùng này.
Chú thích:
(1) Anh Văn là bí danh cùa đồng chí Võ Nguyên Giáp, Đại tướng Tổng tưu lệnh, Bộ trưởng Bộ quốc phòng.
(2) Anh Đào Văn Trường lúc ấy làm Trưởng phòng tác chiến cùa Bộ tổng tham mưu - chưa có Cục Tác chiến. Sau này có lúc làm Tổng tham mưu phó.
(3) Nguyễn Thế Lương tức Cao Pha, lúc ấy là Trưởng ban II, Bộ Tổng tham mưu. Sau này là thiếu tướng, Cục phó cục II, Viện phó Viện Lịch sử quân sự.
(4) Trần Sơn sau là Thiếu tướng Cục trưởng Cục quản lí kĩ thuật, Bộ Tổng tham mưu.