Chương thứ nhất (3) LIÊN TỤC TIẾN CÔNG, NHIỀU VẺ CHIẾN THẮNG
Sau trận Bản Nằm, Bộ quyết định tôi ở luôn lại đất Lạng Sơn làm Trung đoàn phó Trung đoàn 28 của tỉnh. Ít lâu sau, do anh Liên Đoàn chuyển công tác khác, tôi làm Trung đoàn trưởng. Trên cử anh Hà Kế Tấn làm Chính ủy.
Cuộc đời chiến đấu của tôi cứ mỗi ngày một gắn bó sâu nặng hơn, thân thiết hơn với mảnh đất Lạng Sơn kiên cường, bất khuất. Tỉnh Lạng Sơn từ xa xưa vẫn nổi tiếng là vùng đất đẹp đẽ, hào hùng, miền địa đầu Tổ quốc. Một tỉnh có bề dày lịch sử về kì tích chiến thắng quân xâm lược phương Bắc qua bao thế kỷ. Lê Đại Hành diệt quân Tống, giết tại trận tướng Hầu Nhân Bảo ở Chi Lăng năm 981. Năm thế kỷ sau, năm 1428 cũng tại nơi này, thời Lê Lợi, Nguyễn Trãi, quân ta diệt Liễu Thăng, đánh tan tác bọn viện binh hòng cứu vãn cơ đồ cai trị của nhà Minh khi Vương Thông đang bị vây chặt trong thành Đông Quan.
Vẻ vang nhất là chiến công thời Lý, thế kỷ 11 với lời thơ hào hùng: Nam quốc sơn hà Nam đế cư của võ tướng tài ba Lý Thường Kiệt, người thực hiện hiệu nghiệm chủ thuyết tiến công để phòng ngự, thủ hoà trên thế mạnh.
Tới Lạng Sơn, mỗi khi nhớ đến anh Hoàng Văn Thụ, lòng tôi cảm kích vô cùng. Người trai xứ Lạng ra pháp trường với khí tiết, khẩu khí hùng hồn của người Cộng sản, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng thời 1943.
Việc nước xưa nay có bại thành
Miễn sao giữ trọn được thanh danh
Lời thơ, lời vĩnh biệt tâm huyết ấy của anh vẫn vang vọng đời đời với núi rừng, sông sâu, vực thẳm mà cũng là xứ sở của những danh lam thắng cảnh tuyệt vời. Người Việt Nam nào mà chẳng thuộc lòng câu hát:
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh
Cái dáng Vọng Phu trên núi, giữa một thành phố miền núi, soi bóng xuống dòng sông Kỳ Cùng nhấp nhoáng nắng vàng buổi sớm, tím biếc sắc lam buổi chiều gợi ta bao cảm xúc dạt dào về cái hùng tráng vĩ đại, vừa thơ mộng, vừa sôi động lao lung của người và cảnh quê hương xứ Lạng.
Hồi mới đến đây tôi còn bỡ ngỡ vô cùng. Dần dà qua những tháng ngày chiến đấu, qua cuộc sống gắn bó với cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 28 (từ 6-1948, Trung đoàn 11 đổi phiên hiệu thành Trung đoàn 28 ; Tiểu đoàn 374 thành Tiểu đoàn 249), gần gũi với bà con thôn bản, tôi đã thông thuộc thủy thổ, địa thế suốt dọc hai bên Đường số 4 như biết rõ từng vệt chỉ tay của chính lòng bàn tay mình.
Thuộc cả câu hát sli, hát lượn tình tứ ý vị, mà các chàng trai, cô gái Tày, Nùng hay hát vào phiên chợ hoặc vui hội hè chiến thắng:
Bi cóc noọng đây lai chắp khi vài
Mí cần ngồi chinh vài pây dai
Nghĩa là
Hoa em đẹp cắm ở vũng trâu vầy
Không người săn sóc héo hon thay...
Qua những lần làm việc với các anh ở Tỉnh ủy Lạng Sơn và các cán bộ ở các huyện, tôi càng hiểu thêm về phong trào cách mạng của tỉnh. Lạng Sơn nằm chung trong địa thế vùng căn cứ địa Việt Bắc nên rất giống các tỉnh Cao Bằng - Bắc Cạn - Thái Nguyên, sớm có phong trào cách mạng, tinh thần yêu nước của nhân dân rất cao. Ở đây sau ngày Tổng khởi nghĩa tháng Tám là nơi đụng đầu gay gắt quyết liệt giữa Mặt trận Việt Minh và bọn Quốc dân đảng, cả lũ Phục Quốc, Việt Cách của Nguyễn Hải Thần nữa. Trước đây, tôi vẫn tưởng chỉ có Nam Bộ là nơi khởi đầu tiếng súng chống xâm lược Pháp trở lại, sớm nhất sau ngày 2 tháng 9 năm 1945, ngày Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Các anh ở Tỉnh ủy Lạng Sơn, là những người kỳ cựu của phong trào cách mạng tỉnh nhà. Những người kế cận nhất của anh Hoàng Văn Thụ đã kể cho tôi biết: “Chính Lạng Sơn cũng là nơi phải chiến đấu chống chọi với thù trong giặc ngoài ngay từ sau ngày Độc lập 2 - 9 - 1945”
Nhân dân Lạng Sơn mới hưởng niềm vui Độc lập được ít ngày thì quân Tưởng kéo sang, theo danh nghĩa Đồng minh giải pháp quân đội Nhật. Chúng sang kéo thêm cái đuôi là bọn Quốc dân đảng theo đóm ăn tàn, hòng dựng nên một chính phủ tay sai của Tàu Tưởng. Bọn Tàu Tưởng sang đến Lạng Sơn đòi thủ tiêu Mặt trận Việt Minh, lập chính quyền do Quốc dân đảng chấp chính. Được sự chỉ đạo sáng suốt, mềm dẻo của Bác Hồ, Trung ương Đảng và Chính phủ lâm thời lúc bấy giờ, Tỉnh ủy Lạng Sơn đã rút ra ngoại thành để giữ bí mật, chỉ đạo phong trào. Bọn Tàu Tưởng và lũ Quốc dân đảng chiếm cứ các công sở ở thị xã, rất hùng hổ nhăng nhít. Nhưng vòng ngoài thị xã vẫn do ta kiểm soát. Ngay trong thị xã, hầu hết mọi người không kể Kinh hay Tày, Nùng đều một lòng một dạ theo Chính phủ Cụ Hồ, ủng hộ Việt Minh, ủng hộ bộ đội, dân quân, tự vệ, bảo vệ chính quyền. Tỉnh ủy đã chỉ đạo cuộc chiến đấu không khoan nhượng với bọn Quốc dân đảng. Với bọn Tàu Tưởng, nhân dân tìm trăm phương nghìn kế vừa mua bán đổi chác vừa tìm cách đánh chặn và cướp súng đạn của chúng. Súng đạn và các loại vũ khí ngày ấy là của quý đối với chính quyền và quân đội non trẻ chúng ta.
Rồi Hiệp ước mồng 6 tháng 3 năm 1946 như một nhát chổi quét sạch bọn Tàu Tưởng về bên kia biên giới, quét luôn đám rác rưởi Quốc dân đảng cùng lũ Phục Quốc, Việt Cách khỏi đất Lạng Sơn. Thị xã Lạng Sơn lại tưng bừng cờ đỏ sao vàng. Chính quyền và nhân dân cùng anh bộ đôi Vệ quốc đoàn khăng khít hồ hởi xây dựng cuộc sống mới, cuộc sống của người dân sau 80 năm dài nô lệ nay đứng lên mưu cầu Độc lập, Tự do, Hạnh phúc cho quê hương xứ sở. Xứ Lạng hoà nhịp cùng cả nước vâng lời vị cha già dân tộc hăng hái diệt giặc đói, giặc đốt, sẵn sàng đối phó với bọn xâm lược.
Thế rồi theo qui chế của Hiệp định sơ bộ (6 - 3 - 1946), bọn thực dân Pháp được đến đóng quân ở Lạng Sơn. Ngày kéo vào Lạng Sơn, chúng diễn võ dương oai phô trương xe tăng, thiết giáp, pháo binh diễu qua đường phố. Ngày ấy, anh bộ đội Vệ quốc quân và các chàng trai tự vệ của thị xã, chỉ toòng teng trên vai khẩu súng trường hoặc thanh đại đao, lưng đeo thây lẩy vài quả lựu đạn. Nhưng sức mạnh lớn lao của họ là toàn thể nhân dân Lạng Sơn không chỉ là ở phía sau, mà ở bên cạnh. Người chiến sĩ Vệ quốc quân thuộc Tiểu đoàn 374 Trung đoàn 11 (tiền thân của Trung đoàn 28) đứa con đầu lòng của xứ Lạng nom đơn sơ, áo vải, súng trường mà lại rất hùng dũng trong tư thế của người chiến sĩ một đất nước Độc lập, Tự do.
Nhưng rồi giặc Pháp đã phản bội hiệp ước, gây hấn, nổ súng ở Lạng Sơn vào tháng 11 năm 1946 cùng ngày với Hải Phòng. Cũng từ đây, cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp của quân và dân xứ Lạng bắt đầu. Tiếng súng chống giặc Pháp xâm lược đã nổ trước ngày toàn quốc kháng chiến một tháng.
Ngày ấy, gọi là một trung đoàn nhưng chỉ có một tiểu đoàn tập trung: Tiểu đoàn 249 cùng với các đại đội trực thuộc như trinh sát, thông tin, trợ chiến. Còn lại là các đại đội độc lập ở các huyện.
Anh Hà Kế Tấn(1) quê ở Hà Tây, tính tình điềm đạm, nom anh có dáng của một người thợ từng trải. Anh nhiều tuổi hơn tôi, tham gia cách mạng từ 1936, hoạt động, lăn lộn, gây dựng phong trào, cơ sở miền Hà Tây và vùng nội thành Hà Nội. Khi anh được Quân khu I cử về làm chính ủy trung đoàn, tôi đã được anh cáng đáng những việc chủ chốt trong đời sống của cán bộ, chiến sĩ. Nào công tác Đảng, quan hệ quân - dân, vấn đề hậu cần, những mối liên quan giữa quân đội với chính quyền, đoàn thể, Mặt trận Liên Việt v.v. nhờ đó mà tôi chỉ toòng teng cái ba lô cùng với cậu chiến sĩ bảo vệ Ma Văn Thành lao vào các trận đánh. Đánh xong trận này lại đi nghiên cứu thực địa, tìm cách đánh trận khác. Lúc thì tôi ở với Tiểu đoàn 249, lúc ở với đại đội trinh sát. Hàng tháng về hậu cứ của trung đoàn ở Bình Gia, vùng Bản Riềng, Kéo Coong để cùng anh Hà Kế Tấn bàn bạc, rút kinh nghiệm việc đã làm và vạch phương hướng, kế hoạch mới dựa vào chỉ thị, chủ trương của Quân khu.
Ngày ấy, địch đang ở thế mạnh. Bộ ra lệnh “Bằng mọi giá quyết chặt đứt Đường số 4, yết hầu quan trọng nối liền Cao Bằng, Lạng Sơn, Móng Cái của địch”.
Để thực hiện ý đồ chiến lược đó, Quân khu đã tính tới khả năng địch, để đề ra một phương châm thích hợp, rất có hiệu quả, như đánh từ nhỏ đến lớn, từ dễ đến khó, tránh chỗ rắn đánh chỗ mềm. Với phương châm như vậy, chúng tôi đảm nhiệm những trận đánh tập trung như Bông Lau - Lũng Phầy, Bản Nằm, Bố Củng - Lũng Vài, Ngườn Kim, Chọc Ngà, Nà Pá v.v... Sau này là các trận công đồn từ nhỏ tới lớn. Còn các đại đội độc lập, du kích địa phương hoạt động nhiều vẻ hơn, đa dạng hơn ; từ quấy rối, tiêu hao đến phục kích nhỏ và làm công tác địch vận kêu gọi anh em ngụy binh, giác ngộ họ, tạo nhân mối, tổ chức lấy đồn bằng nội công ngoại kích. Đồn nhỏ họ tự lấy, đồn lớn có chúng tôi tham gia.
Tôi nhớ hồi đó đồng chí Ngọc Trình, cán bộ trung đội, rất giỏi công tác địch vận. Trình vốn người Cao Bằng có tài bắt nhân mối rất khéo. Anh đã tổ chức được một số lính ngụy làm nhân mối, sẵn sàng nội ứng ở một số đồn như Chè Cáy, Na Sầm, Lũng Vài. Hồi ấy tôi chuyên đi đôi giầy đinh cao cổ, anh em vẫn gọi là “Cộp săng đá”. Với đôi giầy bền, chắc đó tôi lội nước, đi rừng rất tiện, không ngại gì gai góc, đường trơn.
Một hôm nom thấy đôi giầy của tôi đã mòn vẹt, Ngọc Trình nghĩ ngay tới việc gặp nhân mối trong đồn Na Sầm để kiếm đôi giầy mới. Anh sai tên lính ngụy nấu bếp tên là Đoòng:
- Này, ăn cắp trong kho cho mình một đôi “săng đá” cỡ 40.
Đoòng cười:
- Không được đâu. Ăn cắp thì không được nhưng lấy đôi cũ xin đổi đôi mới thì được vớ. Xếp Tây quy định thế mà.
Ngọc Trình gật đẩu:
- Giầy há mõm thì có ngay thôi. Đêm nay ra hàng rào mình đưa cho.
Trở về, Ngọc Trình bảo ngay với tôi:
- Trung đoàn trưởng tụt giầy ra để tôi đem đổi lấy đôi mới.
Không hiểu gì cả, tôi bảo:
- Cậu đổi cho ai? Thôi, để chờ đánh một trận kiếm đôi khác. Mình đi đôi mới thì người khác lại phải đi đôi há mõm này. Không nên vơ.
- Anh cứ tụt luôn ra. Tôi đổi ở trong kho “anh-tăng-đăng”(2) đồn Na Sầm hẳn hoi. Nó quy định quân trang phải đổi cũ lấy mới, không phát không. Bố thằng Tây, nguyên tắc cứng nhắc “oách xì xăng” ghê.
Anh toét miệng cười, còn tôi vui vẻ tụt giầy luôn. Hôm sau tôi có ngay đôi giầy mới toanh (do đồn Na Sầm cấp phát).
Giặc Pháp nghĩ chúng đang có thế mạnh về binh lực, vũ khí cùng với một hệ thống đồn bốt của toàn quân khu biên thuỳ suốt cả vùng Cao - Bắc - Lạng đến Tiên Yên - Móng Cái. Chúng tưởng thừa sức uy hiếp Việt Bắc nhưng dần dà hoá ra chính chúng lại bị bao vây trong các thế thiên la địa võng của chiến tranh nhân dân chúng ta. Thụ động, co rụt trong hàng rào đồn bốt, chúng buộc phải luôn luôn căng thẳng đầu óc đối phó với sự tiến công liên tục của ta. Với thế chủ động, chúng tôi hoàn toàn giữ quyền chọn thời gian, chọn địa điểm, chọn địa hình và chọn cách đánh thuận tiện nhất để giành phần thắng trên Đường số 4. Có thể nói Đường số 4 không bao giờ ngớt tiếng súng của quân và dân Cao - Bắc - Lạng. Bộ đội chủ lực nghỉ ngơi, chuẩn bị cho đánh lớn thì dân quân, du kích thay thế đánh địch liên tục trên Đường số 4. Nào phá đường, phá cầu, cắt dây điện thoại. Tiếng súng của du kích lúc nghi binh, lúc quấy rối, lúc tiêu hao bắn tỉa, bao bủa liên tục quanh các đồn bốt địch. Tiếp theo là những trận phục kích ngày một lớn của Trung đoàn 28 chúng tôi: Bông Lau lần thứ nhất rồi Bông Lau lần thứ hai. Rồi Bố Củng - Lũng Vài lần nữa, tiếp tới trận Bản Nằm lần thứ ba. Trận nào cũng thắng, trận sau to hơn trận trước và thắng đậm hơn. Có khi ở ngay một địa điểm đã bị đánh đi đánh lại, mà kẻ địch không sao chế ngự, tránh thoát nổi. Từ Đông Kê ngược lên Cao Bằng suốt trục Đường số 4, địch cũng bị các lực lượng dân quân, du kích và chủ lực tỉnh Cao Bằng nện những đòn chí tử. Trung đoàn 74 của các anh Chu Huy Mân, Trung đoàn trưởng, Lê Quang Ấn, Chính trị viên liên tục nổ súng tiến công địch. Tiểu đoàn 73, tiền thân của Tiểu đoàn 251, lực lượng chủ yếu của trung đoàn do quyền Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hữu An chỉ huy, diệt Tài Hồ Sìn, tiếp đến phục kích chặng Nà Tốn diệt 7 xe trên Đường số 4. Phía Suối Hai, Đại đội 398 diệt 3 xe ở đoạn Khau Máng. Đại đội 670 tập kích Phục Hoà, Trà Lĩnh. Cùng lúc đại đội 660 hoạt động ở Quảng Uyên, phục kích đèo Cao Nàu, tập kích đồn Cốc Bố, Đoàn Ngườn Bái của Đường số 4, Tiểu đoàn 73 diệt 12 xe. Sau đó đánh tiếp, luôn trận lớn vừa phá hủy vừa tiêu diệt 28 xe phía Bắc Đông Khê. Vào dịp gần Nôen, tiểu đoàn đánh thắng trận phục kích ở Lũng Mười, tiêu diệt 2 đại đội Lê dương, phá hủy 27 xe. Một khi các trung đoàn chủ lực như 74 Cao Bằng, 28 Lạng Sơn thắng lớn, càng tạo thế cho các đại đội độc lập ở các huyện vững mạnh bao vây, đánh phá các đồn bốt, nới bung thế kìm kẹp của giặc. Hễ nơi nào gây được nhân mối và anh em trong đồn giục ta lấy đồn nhanh để họ mau trở về với bà con dân bản.
Đồn Chè Cáy nằm sát đường ở đoạn gần Na Sầm thuộc huyện Thoát Lãng, có một trung đội ngụy do tên Vít-cốt chỉ huy, có nhiệm vụ án ngữ phong toả vùng Na Sầm để bảo vệ đoạn Na Sầm đi Đồng Đăng trên Đường số 4.
Đại đội của Đình Giang và Hùng Quốc nắm rất vững tình hình địch của một loạt đồn bốt trong huyện như Chè Cáy, Lũng Vài, Bố Củng, Kéo Thổ, Na Sầm. Nhân mối trong các đồn thường xuyên báo cáo cho Ngọc Trình những thay đổi, biến động cả về nhân lực và hoả lực cũng như cung cách bố trí của địch. Riêng ở Chè Cáy, hai phần ba quân số ngụy đã thuộc về ta. Một hôm, lính Sảy nhân mối tin cậy nhất trong đồn Chè Cáy báo ra: Quan đồn Vít-cốt phải đổi về Lạng Sơn, quan mới về thay nó. Đồn sẽ tổ chức tiễn quan cũ đón quan mới vào ngày 12 tháng 9.
Thời cơ tốt đã đến. Đánh vào lúc địch liên hoan chè chén say sưa, hẳn chắc thắng hơn. Đồn Chè Cáy ở trên đỉnh một ngọn đồi, xung quanh cây cỏ rậm rạp. Ngay tối hôm trước, ta bố trí một trung đội ém phục ở lưng chừng đồi. Đây là một hành động rất cảm tử, táo bạo. Chỉ cần một nhân mối phản bội hay một tên ngụy ác ôn bất ngờ phát hiện, ta sẽ bị tiêu diệt. Ngọc Trình rất tin vào nhân mối. Anh trực tiếp chỉ huy trung đội đó. Đã ước hẹn trước, đúng lúc tại phòng ăn, hai quan Tây nâng cốc chúc tụng theo lễ nghi “tống cựu nghênh tân”, người lính gác cổng mở cổng cho trung đội của Ngọc Trình ập vào. Những nhân mối khác giữ lô cốt đóng chặt cửa vào lô cốt. Mọi việc diễn ra rất nhanh. Cả hai tên đồn trưởng bị bắn chết tại chỗ cùng với mấy tên cai, đội ngoan cố, số ngụy còn lại quy hàng. Bộ đội và nhân dân bắt tay nhau. Sảy đại diện anh em ngụy binh giác ngộ nói:
- Hôm nay, Tây đồn bảo mổ thịt hai con lợn để làm tiệc, chúng tôi đã có ý để nguyên nửa con ở trong bếp dành cho bộ đội. Bây giờ ta liên hoan thôi.
Đại đội trưởng Đinh Giang vội can:
- Không nên liên hoan trong đồn. Địch đến tiếp cứu thì hỏng hết. Được mà hoá thua đấy.
Anh ra lệnh thu vũ khí và vác cả nửa con lợn rút nhanh. Về đến hậu cứ, làng Pắc Lạng, quê anh Hoàng Vãn Thụ, bà con dân bản tặng thêm con lợn nữa, quân và dân liên hoan chiến thắng bằng một bữa tiệc vui. Nhiều người say rượu ngã quay ngay tại chỗ. Uống rượu mà say mới tốt, mới thật lòng với nhau mà. Phong tục ở đây là như vậy.
Gần một tháng sau, chúng tôi lấy luôn đồn Lũng Vài cũng theo lối nội công ngoại kích như vậy. Đồn này có cai Cẩm ngoặc trước với Việt Cường, nhưng khi vào sát đồn ta vô ý dẫm phải cái thùng làm chó béc-giê ở trên nhà tên đồn trưởng Tây sủa ầm ĩ. Cai Cẩm liền bảo anh em ta rút, rồi làm như dẫn tiểu đội đi tuần tiễu cho khỏi lộ ; hôm sau tổ chức lại và diệt gọn đồn. Bọn Pháp nghi ngờ nên thuyên chuyển ngụy binh lung tung, đồn nọ sang đồn kia, xé lẻ từng tiểu đội và tăng cường thêm bọn Âu Phi. Nhưng dần dà, các mắt xích nhân mối chẳng những được nối lại mà còn phát triển rộng, loang dần ra. Bởi vì đại đa số anh em thanh niên trong vùng giặc chiếm chỉ vì bị cưỡng bức, thúc bách mà phải vào lính ngụy. Trong thâm tâm, họ vẫn hướng về Cách mạng, về Chính phủ Cụ Hồ, chỉ mong chờ có dịp là trở về với Tổ quốc, vì vậy mà công tác địch vận phát triển mạnh, nhiều kết quả. Chẳng những ngụy binh mà cả bọn chính quyền ngụy như trưởng bản, lý trưởng cũng biến thành tề hai mang, vừa làm cho địch vừa phục tùng sự điều khiển của ta.
Trận Đồng Nọi đã diễn biến theo một dạng khá lý thú. Đây là một đồn án ngữ trên đoạn đường Lạng Sơn đi Bản Sầm. Địch cho xây dựng lô cốt và bắt dân phu nộp tre củng cố hàng rào, công sự cho vững chắc. Hàng ngày có 3 tên Pháp gồm 1 thiếu uý và 2 cai đội trực tiếp đôn đốc dân phu làm lụng. Dân phu một phần là thanh niên vùng xuôi chúng bắt qua các vụ càn quét dưới đồng bằng và gán cho cái tên PMT(3) đưa lên Lạng Sơn bắt xây đồn bốt hoặc mang, vác đạn dược, khi chúng hành binh. Một phần nữa chúng bắt bọn tề ngụy từng địa phương cắt phiên thay nhau lên đồn lao công.
Lợi dụng tình hình này, ta bàn với lý trưởng ngụy là Lý Khăng vốn là tề hai mang, dùng bộ đội giả dạng dân phu tuồn vào đồn. Sau vài ngày nắm được hết tình hình, bộ đội ta trong vai dân phu nhân lúc ba tên Pháp túm tụm lại hút thuốc trò chuyện, liền nổ súng giết luôn ba tên Pháp. Lính ngụy như rắn không đầu xin hàng. Mọi người phá nát đồn Đồng Nọi kéo nhau hả hê ra về. Riêng hơn chục người PMT xin được gặp chỉ huy, anh em dẫn họ đến gặp tôi. Tôi nghĩ số anh em này bị bắt đã lâu, đưa đi hết đồn này đến bốt khác, chắc họ biết được tình hỉnh địch ở nhiều nơi. Sau khi cho anh em ăn uống no nê, tôi hỏi:
- Bây giờ các anh muốn về quê quán hay sinh sống ở vùng tự do?
Họ đều nói rõ nguyện vọng:
- Chúng em bị Tây nó càn quét rồi vu cho là du kích, bộ đội. Nó coi như tù binh, hành hạ khổ lắm. Quê chúng em giặc chiếm bây giờ mà về thì cũng đến lại đi lính, đi phu cho giặc thôi.
Có người mạnh dạn đề nghị:
- Nếu chỉ huy tin chúng em cho chúng em đi theo bộ đội. Chúng em mang vác, nấu nướng cho anh em đánh giặc.
Tôi cười:
- Vệ quốc đoàn là bộ đội của nhân dân. Không bắt dân làm phu cho bộ đội đâu.
Sau đó tôi trao đổi ý kiến với anh Hà Kế Tấn. Anh với tôi nhất trí sử dụng anh em. Ai tình nguyện tham gia bộ đội, chúng tôi thu nhận luôn. Mấy anh nhiều tuổi làm cấp dưỡng, còn anh em trẻ phiên chế vào các tiểu đội. Nói chung anh em là dân vùng Thái Bình, Hải Dương, Quảng Ninh, nhanh nhẹn, tháo vát, rất am hiểu cung cách hành quân, đóng đồn của địch. Một số trở thành lính trinh sát của trung đoàn rất gan dạ, mưu trí như chiến sĩ Lung, Vĩnh, Xuyên, Tuấn, Hoài, Đức, Ngọc... Họ bám địch và lẩn quất ở vùng hậu địch rất giỏi.
Qua việc này tôi cứ suy nghĩ mãi. Dân ta ai cũng có lòng yêu nước, ai cũng ngưỡng mộ Bác Hồ, mong mỏi cuộc kháng chiến thành công. Sau 80 năm dài nô lệ bị bọn thực dân Pháp áp bức bóc lột thậm tệ, ai ai cũng thèm khát độc lập, tự do. Vì vậy, ai ai cũng kiên quyết kháng chiến để giữ vững độc lập, tự do.
Anh Hà Kế Tấn hổi đó như con dao pha của Khu ủy Khu I. Hễ nơi nào yếu, anh được cử đến củng cố. Anh vừa là Khu ủy viên, vừa là Thường vụ Quân khu ủy. Tháng 4 năm 1948, anh được cử làm Chính trị viên Trung đoàn Bắc Bắc do anh Đỗ Tấn làm Trung đoàn trưởng. Sang tháng 6, thấy Trung đoàn 28 cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, trên lại điều anh về với chúng tôi. Vừa là Chính ủy trung đoàn, anh vừa là Tỉnh ủy viên tinh Lạng Sơn nên giải quyết nhiều vụ việc dễ dàng trong mọi vấn đề liên quan giữa quân đội và chính quyền, Đảng bộ tỉnh.
Ngày ấy anh nắm rất chắc tình hình, màng lưới cộng tác địch vận, binh vận trong tỉnh. Một người có tác phong làm việc sâu sát, tự anh hiểu biết được cụ thể tình hình, mới quyết định hành động.
Cùng với nhiệm vụ “Chặt đứt Đường số 4” ta còn chủ trương đánh sâu vào lòng địch, tạo nên khu du kích lõm, giành dân, giành đất, ép địch thu hẹp dần phạm vi chiếm đóng lại. Đồn Ba Sơn ở vùng Cao Lâu - Xuất Lễ nằm sâu trong lòng địch. Cán bộ địch hậu và cơ sở của ta hoạt động rất khó khăn nguy hiểm. Một phía ở sát biên giới, bị bọn Tàu Tưởng khống chế, thổ phỉ cướp bóc. Phía dưới nằm trong thế kìm kẹp của giặc Pháp.
Vào lúc tôi đi chuẩn bị chiến trường để đánh trận Bông Lau - Lũng Phầy lần thứ 2, có Đại đội trưởng đại đội độc lập huyện Ôn Châu là Mai Chí Long lên gặp anh Tấn đề nghị cho đánh Ba Sơn:
- Trong đồn này ta có mấy lính dõng làm nhân mối rồi. Anh Phan Mạnh Cự cũng đồng ý cho đánh (Phan Mạnh Cự là Phó Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn hổi bấy giờ được giao nhiệm vụ đặc trách khu Ba Sơn). Vậy anh cho ý kiến.
Anh Tấn hỏi:
- Đánh được đã đành. Nhưng có giữ được không? Giữ được rồi phát triển thành căn cứ lõm sâu trong lòng địch mới tốt. Đánh xong rút lui chỉ khổ dân, vỡ hết cơ sở.
Đại đội trưởng Mai Chí Long trình bày tỉ mỉ tình huống, nhân mối, cơ sở và bảo đảm:
- Báo cáo với anh. Chúng tôi giữ được. Địch không có điều kiện lấy lại được nữa đâu.
Anh Hà Kế Tấn suy nghĩ rồi bảo:
- Thế thì để mình về với cậu ở dưới đó và gặp anh Cự bàn cụ thể đã. Rồi ta đánh!
Anh đi bám cơ sở và quả nhiên đêm 4 tháng 3 năm 1949, ta diệt Ba Sơn giải phóng cả vùng Cao Lâu - Xuất Lễ. Mười ngày sau, trung đoàn chúng tôi diệt 3 bốt Đèo Khách, Bản Trại, Bản Phiệt, khiến dịch vội rút luôn Pò Ma, Bình Nghi, Bản Pản, Pò Theo sát vùng biên giới thuộc huyện Tràng Định. Tiếp luôn, ngày 25 tháng 4, Trung đoàn chúng tôi diệt 53 xe ở Bông Lau - Lũng Phầy, tiêu diệt luôn đồn Lũng Phầy trên đồi cao. Địch hoảng sợ, liền rút Phương Mân và Nà Mần phía Đông Bắc Tràng Định.
Sau đợt thắng lợi liên tiếp, anh Tấn bảo tôi:
- Đợt này bọn mình làm ăn được. Trung đoàn đang có khí thế. Ta làm tới đi.
Ngắm vẻ người hơi thấp nhưng chắc nịch của anh, tôi thầm nghĩ:
- Chiến đấu bên cạnh một ông anh có quá trình cách mạng dày dạn, hăng hái thế này thật là yên tâm.
Vào thời điểm này, Trung đoàn 72 của Bắc Cạn tiêu diệt đồn Phủ Thông, phục kích địch ở Đèo Gió. Trung đoàn của anh Mân đánh địch trên Đường số 3 ở Bằng Khẩu, Ngân Sơn và diệt đồn Tài Hồ Sìn lần thứ 2 ; cho một đội biệt động tập kích pháo đài ở chi khu, phá nhà máy điện, đánh vào các đồn dọc bãi sông Hiến, Sông Bằng.
Địch đành co lại trên trục Đường số 4 từ Cao Bằng qua Đông Khê tới Lạng Sơn. Chúng vội vã rút bỏ Bắc Cạn, Nước Hai, Trà Lĩnh, Quảng Uyên, Phục Hoà, Nguyên Bình.
Toàn mặt trận Cao - Bắc - Lạng bừng bừng một cao trào đánh Pháp, trừ gian, diệt tề, phá kế hoạch “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của địch.
Năm tháng đã qua đi: Mỗi lần ôn lại cuộc sống sôi nổi, hào hùng dọc tuyến Đường số 4, tôi nhớ nhiều đến các cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn 28 và Trung đoàn 174. Đa số anh em đểu là người dân tộc Tây và Nùng miền Cao Bằng - Lạng Sơn. Những con người chân thực, chất phác, với dáng vẻ lầm lì, ít nói, nhưng rất tận tụy trong mọi nhiệm vụ. Họ chiến đấu dũng cảm, gan góc tuyệt vời và cũng rất đậm đà tình cảm. Mới gặp, chưa quen ở giây phút bỡ ngỡ ban đầu, anh dễ ngộ nhận lo lắng trước người chiến sĩ dáng dấp rụt rè, hỏi gì nói ấy với những câu đáp lại ngắn ngủi, dè sẻn từng lời, vừa đủ để anh hiểu ý. Nhưng bên trong cái vẻ ngoài lặng lẽ ấy, chứa đựng phẩm chất đẹp đẽ của người lính: gan bền, chịu đựng khắc khổ, đánh đến cùng, sẵn lòng hy sinh vì nghĩa cả, vì tự do, độc lập của Tổ quốc. Những con người thật đáng quý: có, bảo ngay là có, không, bảo rằng không. Ít người có ý nghĩa quanh co với cách xã giao uốn éo, khách sáo, lấy lòng nhau. Là chỉ huy, khi hỏi một chiến sĩ, tôi được trả lời gọn ghẽ, trung thực:
- Có nhớ nhà không?
- Có nhớ chứ!
- Có muốn về không?
- Có đấy. Nhưng còn muốn đánh Tây xong vớ.
- Thế tôi cho về có về không?
- Hí! Chỉ huy cho mình về thì mình về. Hết phép mình lại đến ngay thôi.
Những người chiến sĩ Cao - Lạng là thế: Chiến sĩ của Trung đoàn tôi là thế. Những người chiến sĩ đáng tin cậy cả lúc thường cũng như lúc cùng nhau trong cơn gian nan, nguy hiểm của trận đánh.
Ngày ấy có chiến sĩ Ma Văn Thành làm liên lạc và bảo vệ Trung đoàn rất lâu. Thành là người Nùng ở bản Páu vùng Điềm He - Tu Đồn. Tôi với Thành luôn cập kè bên nhau, từ lúc nghỉ ở hậu cứ đến khi trinh sát thực địa hoặc lên Quân khu, lên Bộ báo cáo, hội họp. Thành là một chàng trai to, khoẻ, rất điển trai, cưỡi ngựa rất giỏi. Hồi tôi đánh ở Hiền Sĩ gần Huế, bắt bọn Pháp nhảy dù, bọn này do quân Anh trang bị, nên mỗi tên mang một cái ba lô lính dù Anh to đùng, ba lô ngoài bạt, trong vải cao su, có thể tống toàn bộ chăn màn, áo quần và đủ thứ linh tinh vẫn thừa chỗ. Tôi đã được cấp chiếc ba lô đó. Suốt thời gian ở Đường số 4, tôi giao cho Thành, cậu ta đã mang gọn đủ thứ của hai người chúng tôi, chung trong cái ba lô “Đại chiến thứ 2” ấy.
Nhớ lại, có một lần tôi lên Quân khu họp. Quân khu bộ đóng trong khu rừng vùng Trại Cau, Thái Nguyên. Sau ít ngày họp xong khi sắp sửa ra về, Thành nói với tôi:
- Chỉ huy à! Hết cả tiền ăn đường, cái ví đựng tiền để quên đâu không thấy nữa. Nguy lắm thôi.
Thấy vẻ lo ngại, áy náy của người cận vệ thực thà như đếm, tôi bảo:
- Cứ yên tâm! Để mình đi lo vậy.
Thành dặn tôi:
- Chỉ cần tiền ăn đường đến Bắc Sơn thôi. Đấy là đất Lạng Sơn, đất quê, đất bản của Trung đoàn ta rồi, không sợ đói vớ!
Tôi quay lên trên lán gặp anh Lê Hiến Mai(4), anh là Quân khu ủy viên, Chính ủy quân khu. Tôi hỏi xin anh ít tiền và nói rõ tình cảnh của anh em chúng tôi:
- Chỉ xin anh đủ tiền đến đất Bắc Sơn. Tới đấy ném đâu tôi cũng không sợ chết đói. Lính Trung đoàn 28 với dân Lạng Sơn là một mà.
Anh Mai cười phô hàm răng nổi tiếng và dốc túi cho tôi số tiền còn lại của anh. Ngày đó là tiền Tài chính, đồng tiền đang bị xuống giá. Bộ đội chưa có chế độ cung cấp hậu cần mà phải dùng tiền mua lương thực, thực phẩm ở chợ. Đi công tác phải mang tiền ăn đường. Tôi đưa số tiền xin được cho Thành. Cậu ta cười rất hiền lành:
- Lố! Bây giờ lại giàu rồi. Vào quán ăn bánh chưng rán, phở xá xíu cũng được lố.
Hồi đó vùng Kéo Coong (Bình Gia), Hội Hoan được coi như thủ đô kháng chiến của bộ đội và nhân dân tỉnh Lạng Sơn. Hầu hết đồng bào ở thị xã Lạng Sơn đi theo kháng chiến đều tản cư, sinh sống tại vùng đó. Các quán tản cư mọc lên đông vui sầm uất giống như Cầu Bố, Rừng Thông của Thanh Hoá, Nước Hai của Cao Bằng hay Nho Quan - Đầm Đa - Xích Thổ ở Ninh Bình thuộc Khu 3. Các cơ quan Dân Chính Đảng cũng đóng quanh gần đó. Còn người lính Trung đoàn 28 sau mỗi trận chiến thắng đều trở về đây nghỉ ngơi. Những chàng lính trẻ và cả cán bộ chúng tôi cũng rất trẻ trung, có khi dạo phố và nếm phở xá xíu hoặc giải khát món trứng đường, cà phê tại các phố phường tản cư quen thuộc này.
Sống ở Lạng Sơn, Trung đoàn 28 chúng tôi như con cá lội giữa dòng nước mát của lòng dân xứ Lạng. Khi đi chiến đấu có dân lo cơm nước, phục kích địch có bà con tiếp tế cơm nắm muối vừng. Chị Đường Thị Kim công tác hội phụ nữ lặn lội vận động chị em trong bản với khẩu hiệu: “Một ngàn chiếc bánh chưng, một ngàn “ống bò” cốm để bộ đội ăn no đánh thắng”.
Thế là tiếng chày giã gạo vang rền thậm thịch khắp thôn bản cả một vùng Thoát Lãng, Tràng Định, Bình Gia. Gạo cũng của từng nhà, công sức cũng của từng người dân, chỉ một đêm đã có bánh, có cốm, có cơm vắt muối lạc, kìn kìn chuyển đến trung đoàn. Rồi mỗi lần chiến thắng trở về, người lính Trung đoàn 28 được bà con dân bản tưng bừng đón mừng. Chuyện đánh Tây, câu hát lượn, hát sli, hát then rộn ràng quyện với tiếng đàn âm vang khắp làng khắp bản. Ngoài bữa cơm liên hoan là những hoa trái đặc sản của xứ Lạng, nào là mận Thất Khê, nào là đào Mẫu Sơn, mít Bình Gia, Bắc Sơn. Mùa hồng đến, vườn cây trong bản vàng rực trĩu nặng những trái hồng không hạt, nổi tiếng của đất Lạng. Năm tháng qua đi rất xa rồi nhưng trong tôi, mỗi lần nghĩ đến Trung đoàn 28, nghĩ đến xứ Lạng là cả một chuỗi hồi ức tưng bừng rất đẹp đẽ, rất đầm ấm trỗi dậy với muôn vàn hình ảnh đầy thương, đầy nhớ, đầy ơn huệ về bản làng và tấm lòng của bà con xứ Lạng. Nhớ anh dân quân đào đường, phá cầu, ngăn giặc, nhớ người du kích quấy rối, phá bót, hỗ trợ đắc lực cho bộ đội đánh to. Nhớ cụ ké, bà mế thương người lính Trung đoàn 28 như con đẻ, nhớ các chị phụ nữ Tày, Nùng đẹp người, đẹp cả tấm lòng, những người chăm sóc tận tình anh bộ đội Cụ Hồ từ đường kim vá áo, đến bát cháo cho người chiến sĩ thương binh và tiếng hát sli uốn lượn tình tứ khi người chiến sĩ chiến thắng trở về.
*
* *
Trận đánh Bố Củng - Lũng Vài lần thứ 3, địch bắn ca nông Bô-pho liên hồi vào khu vực đài chỉ huy. Cây cành đổ nghiêng ngả, tôi vừa xê dịch rời vị trí, vừa giữ liên lạc với trận địa dưới đường. Cậu Thành không rời tôi nửa bước, vừa lúc một cành cây to quật xuống chính Thành đã rất nhanh, dùng sức mạnh trai trẻ của mình đẩy bật tôi sang một bên. Chỉ chút xíu nữa là tôi không còn đến hôm nay. Tôi cười cười nhìn Thành cảm ơn, nhưng cậu ta quắc mắt đầy vẻ bực bội.
- Hầy! Bảo phải chú ý mà chỉ huy cứ không nghe à. Ngồi sát vào cái hố này chứ!
Nếu ai bảo đấy là lính cáu với chỉ huy thì tôi vui lòng đón nhận những lời cáu kỉnh, hờn dỗi ấy. Tôi hiểu, Thành đã rất quý tôi, chăm lo cho sức khoẻ và tính mệnh của tôi. Đã nhiều lần, trong nhiều trận đánh, trong nhiều cuộc hành quân, Thành không ngại nguy hiểm cứu tôi như vậy. Tôi cảm động vô cùng, mỗi lúc ở rừng, anh hái từng lá rau tàu bay, rau ngót rừng, ít đọt măng nấu cho tôi bát canh ăn đỡ xót lòng.
Sau mỗi trận đánh, tôi hay đến trạm xá của quân y để thăm các đồng chí cán bộ, chiến sĩ bị thương. Một lần thấy cậu y tá đang băng cho một chiến sĩ bị thương ở ngay chỗ khuỷu tay. Cậu y tá mới vào nghề được mấy tháng cứ luống cuống không biết cách nào buộc cho chặt. Tôi ngồi xuống băng cho cậu chiến sĩ. Thấy tôi làm rất thuần thục, cả y tá và mấy chiến sĩ đều hỏi:
- Trung đoàn trưởng học nghề y bao giờ thế?
Tôi cười:
- Mình là y sĩ của Trạm quân y Pác Kéo của Trung đoàn hồi 46 mà.
- Hí a! Thế mà lại làm chỉ huy đi đánh nhau.
Anh em bàn tán vậy.
Tôi nói vui:
- Khắc làm khắc biết thôi! Khắc đi khắc đến mà.
Quả thật, cuộc chiến tranh đã xoay vần cuộc sống của tôi qua bước ngoặt bất ngờ rất mau lẹ. Trước Cách mạng tháng Tám, tôi là sinh viên y khoa năm thứ hai, rồi được giác ngộ tham gia bí mật vào Việt Minh. Nhật đảo chính Pháp, tôi cùng một số anh em được đoàn thể giao nhiệm vụ vào Huế. Toàn là những người miền Trung đã từng học ở trường Quốc học Huế. Rồi tham gia cướp chính quyền, rồi vào Vệ quốc đoàn đi đánh nhau ở Nam Bộ, ở Nha Trang, Đường số 9, Đường số 7. Khi có Hiệp định mồng 6 tháng 3, ngỡ tưởng đất nước yên ổn, ta sẽ giành độc lập qua những diễn biến bằng hoà nghị, hoà bình, tôi được ra Hà Nội để chữa bệnh sau những cơn sốt rét rừng khá nặng, chữa chạy chưa lành hẳn thì trường võ bị Trần Quốc Tuấn mở khoá đầu tiên ở Sơn Tây. Anh Tạ Quang Bửu (người thầy cũ) lúc ấy làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng bảo tôi lên gặp anh Hoàng Đạo Thuý, Hiệu trưởng Trường võ bị. Túm được một chàng trai mới từ mặt trận trở về, lúc ấy là một của quý. Anh Thuý sung tôi vào làm giáo viên và cán bộ khung của trường.
Những ngày đã qua ở Trường võ bị, mãi mãi đối với tôi là những ngày đẹp. Anh Nguyễn Phước Hoàng, Hà Đống, Nguyễn Thế Thương, Phan Viên, Hoàng Xuân Tuỳ, Sanh Thí v.v... những bạn đồng học ở trường Quốc học Huế, không hẹn mà hội tụ cùng nhau dưới một mái trường. Những học sinh lớp võ bị đầu tiên của quân đội ta tuyển từ khắp cả nước, toàn là những chàng trai trẻ đẹp, khoẻ, đầy nhiệt huyết. Không nói ra lời nhưng tôi có cảm tưởng là họ không tiếc một hy sinh nào để quên mình cho Tổ quốc.
Gần đây, để kỷ niệm ngày khai giảng khóa một của lớp võ bị đầu tiên (tháng 6-1946 đến tháng 6-1947) những người bạn cũ họp lại. Đồng chí Đỗ Hạp điểm danh: gần một nửa trong số 300 học sinh lớp võ bị khoá I đã bỏ mình trên các chiến trường toàn cõi Đông Dương. Tôi xúc động bùi ngùi, tưởng nhớ đến những học viên võ bị khoá I của Trung đoàn 174 đã bỏ mình trong các trận chiến đấu: Anh Phan Văn Đắc ở trận Bình Liêu, anh Đỗ Văn Bàng ở Đồn Mỏ Thổ (Bắc Giang). Những cán bộ võ bị Trấn Quốc Tuấn đầu tiên của quân đội ta quả đã không thẹn với lá cờ mà Bác Hồ hôm khai giảng khoá học đã tặng cho nhà trường với dòng chữ: “Vì nước quên thân vì dân quên mình”. Sau võ bị khoá I tôi xin tiếp tục về học lớp quân y trường Đại học Y khoa. Tất cả học viên quân y lớp đầu tiên của quân đội. Chúng tôi sống tập trung thành một trung đội. Anh Nguyễn Sĩ Quốc(5) và tôi được chỉ định làm phụ trách. Mỗi lần lên lớp, chúng tôi đến giảng đường trường Y, học chung với sinh viên bên ngoài.
Giặc Pháp trở mặt gây hấn. Trước kháng chiến toàn quốc ít ngày, cả lớp quân y chúng tôi được phân tán về các nơi. Tôi và anh Nguyễn Sĩ Quốc lên mặt trận Lạng Sơn phục vụ ở trạm điều trị Pác Kéo, huyện Bình Gia. Hai người cứ thay nhau người giữ trạm, người ra mặt trận. Một hôm, vào khoảng ra ngoài tết năm đó, anh Vũ Văn Cẩn, Cục trưởng Quân y, đi kiểm tra vùng mặt trận Lạng Sơn thấy tôi đang lúi húi với một thương binh, anh kêu lên, vẻ ngạc nhiên:
- Ô! Cậu còn ở đây à? Điện gọi cậu về Bộ mấy lần mà chẳng thấy về.
Tôi cũng ngạc nhiên, lắc đầu:
- Báo cáo anh, tôi có biết gì đâu?
- Thôi, ở đây có Sĩ Quốc và anh Mậu(6) lo. Cậu chuẩn bị ba lô về Bộ thôi.
Thế là tôi theo anh về Bộ, nhưng lại ở Phòng tác chiến Bộ Tổng tham mưu chứ không phải ở Cục Quân y với anh Cẩn. Tôi hiểu ngay. Vào những ngày đầu kháng chiến, ta thiếu nhiều cán bộ quân sự. Vì vậy, hễ ai đã từng chiến đấu từ sau Cách mạng tháng Tám hoặc đã học trường võ bị hay các trường quân chính đều được gọi về Bộ. Bộ sẽ điều xuống các đơn vị hoặc giữ lại ở Bộ Tổng tham mưu.
Tôi vẫn hay nói đùa với anh em: “Với riêng mình thì cuộc tiến công lên Việt Bắc của thằng Pháp lại là điều may mắn. Không có sự kiện này, còn lâu mình mới được sống với các cậu ở Đường số 4. Còn ôm thùng “phá xa lạc rang” nghiên cứu hoài...”
Giờ nghĩ lại tôi thấy thêm điều may mắn nữa. Những ngày tháng đầu tiên bước vào cuộc chiến, tôi đã được sống ở một địa bàn tuy địch mạnh, thiện chiến nhưng ta lại có nhiều thuận lợi: núi rừng, địa hình hiểm trở, dân tốt, bộ đội dũng cảm. Ở Lạng Sơn, tinh thần giết giặc cứu nước rất sâu sắc trong mỗi người dân, mỗi người chiến sĩ. Đặc điểm chung của người dân tộc, người miền núi là không muốn xa nhà, xa bản. Phải đi xa ở lâu một nơi nào đó, anh em nhớ từng con suối, dòng khe, tiếng chim kêu, vượn hú của rừng quê, thôn bản mình, ấy thế mà ngày đó, cả Lạng Sơn bừng bừng khí thế diệt xâm lăng, cứu mường, cứu bản. Thanh niên chỉ muốn vào du kích, đi bộ đội. Được ở bộ đội huyện rồi lại muốn thoát ly đi bộ đội chủ lực để được rong ruổi đánh Tây khắp đây đó. Dạo tháng 10 năm 1984, tôi lên Thất Khê, Ủy ban huyện Tràng Định đã tổ chức một cuộc họp mặt đông đảo các cán bộ cũ của huyện đã từng tham gia chiến đấu từ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp tới ngày chúng thất bại trong chiến dịch Biên giới, phải rút bỏ Lạng Sơn tháo chạy. Một cuộc hội ngộ của những con người từng vang bóng một thời, từng hiến dâng tất cả sức lực tuổi thanh xuân của mình vào công cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại.
Nay đã bạc xoá mái đầu, tuổi đã cao, ngồi ôn lại chuyện cũ 35 năm qua mà ai nấy vẫn đầy hào hứng, sôi nổi. Có cụ còn hát lại bài ca cũ, giọng điệu thật hào hùng: Bông lau, Bông lau, Rừng xanh pha máu.
Tối hôm ấy Cụ Quốc Tân, 76 tuổi, trước từng làm cán bộ Mặt trận Liên Việt và Chủ tịch Ủy ban huyện: cụ nghỉ hưu đã lâu, ở bản Chu, cầm tay tôi tâm sự:
- Việt ơi, ngày xưa mày đánh Tây ở Đường số 4 giỏi. Tây nó cũng khen mày vớ. Nó gọi mày là “Đệ tứ quốc lộ Đại vương”. Nó muốn giết mày lắm vớ. Nhưng bây giờ tao nói thật một điều, ngày ấy mày là ông trung đoàn mà mày quan liêu lắm đấy! Tao đổi lính của mày luôn mà mày không biết đâu à. Hà hà hà!
Cụ vừa ẩy mạnh vai tôi vừa cười đầy sảng khoái, đấy thú vị.
- Trời ơi, đổi lính của tôi! Tôi thốt lên, - làm sao mà bố già đổi được.
- Hí i a! Quân của mày toàn là người của Lạng Sơn chúng tao thôi mà. Đứa ở Thoát Lãng, đứa quê Na Sầm, thằng ở Tràng Định, con em dân bản cả mà.
Tôi im lặng lắng nghe cái điều bí mật thuộc tệ quan liêu của tôi 35 năm trước mà tôi không hề hay biết. Cụ rầm rì kể, hơi rượu phả vào mặt tôi.
- Việt ơi! Ngày ấy trung đoàn chủ lực của máy đánh thắng to ở Đường số 4. Hiểu chưa? Mà bộ đội ở huyện tao nó chỉ cùng du kích, phá rối ; đánh các bốt nhỏ thôi. Nó muốn đánh cái trận to, giết nhiều Tây mới sướng. Nó muốn được theo trung đoàn mày lắm vớ. Có một lần trung đoàn mày về vùng quê tao chuẩn bị đánh. Đánh trận nào à? - Cụ vỗ tay vào trán rồi lắc đầu không nhớ trận gì. Lâu lắm rồi, quên lú rồi. Tao bàn với thằng Giang, nó là chỉ huy đại đội độc lập của huyện mà. Nó bàn với thằng chỉ huy trung đội của bộ đội mày. Cùng người Nùng cả vớ, quen thân nhau cả mà. Thế là đổi vài thằng ở đại đội địa phương cho nó đi theo trung đội chủ lực, nó đánh trận to cho sướng. Còn mấy thằng ở chủ lực nhân nhà gần, đổi cho nó về với vợ con cho khỏi nhớ. Đánh xong trận rồi đổi lại thôi mà. Hà! Hà! Hà...
Cười xong cụ bảo:
- Úi giời giời! Người dân tộc chúng tao xa vợ, thương lắm, nhớ lắm. Ngày ấy tao hai con rồi mà công lác huyện, xa nhà mấy ngày cũng đã nhớ. Nói gì lính nó là thanh niên. Nó về rồi nó lại đi đánh giặc thôi mà.
Tôi thở phào, tủm tỉm cười và hỏi:
- Đổi thế nhiều lần không?
- Lúc nào thuận lợi thì đổi. Nhiều trận đấy. Mà quên rồi.
Tôi lắc mạnh tay cụ:
- Trời đất ơi! Đổi người thay nhau đi đánh giặc. Tốt lắm chứ việc gì phải giấu tôi. Bàn với tôi, đổi cả đại đội tôi cũng ưng luôn thôi mà.
Cụ Quốc Tân gật:
- Ngày ấy mình cũng nghĩ: đứa được đi đánh giặc, đứa đánh nhiều rồi thì về thăm bản, thăm vợ con hợp tình hợp lý quá chứ. Nhưng mình sợ, ông ở xuôi lên, ông làm chỉ huy trung đoàn, ông hiểu gì người dân tộc mà bàn cho hỏng việc. Thôi, dưới trung đội, đại đội, cùng bàn chuyện với nhau thôi. Giấu trên đi có đến chết thành ma nó cũng không biết. Nó cưỡi ngựa hồng, đi giầy đen, đeo Côn-bát mà... Hà hà... hà...
Tôi cũng cười theo và mặc cụ đấm thùm thụp vào vai, tôi thầm nghĩ:
- Dân như thế, cán bộ địa phương như thế, lính trung đoàn tôi như thế. Hồi đó tôi đánh được giặc là phải!
Chú thích:
(1) Anh Hà Kế Tấn lúc ấy là Khu ủy viên Khu 1. Sau kháng chiến chống Pháp, có lúc làm Bộ trưởng Bộ Thủy lợi.
(2) Intendant: Hậu cần
(3) Prisonnier militaire du Tonkin (tù binh Bắc Kì).
(4) Anh Lê Hiến Mai tên thực là Dương Quốc Chính, hồi ấy là chính ủy Quân khu I. Sau hoà bình, có lúc là Bộ trưởng Bộ Thương binh xã hội. Anh có hàm răng vẩu nổi tiếng nên anh em đặt tên cho là Lê Mái Hiên. Anh xin đổi là Lê Hiến Mai.
(5) Nay là Giáo sư. Thiếu tướng. Phó Chủ nhiệm Tổng cục hậu cần.
(6) Bác sĩ Nguyễn Thúc Mậu, lúc ấy làm Trưởng ban Quân y Trung đoàn 28 Lạng sơn. Sau kháng chiến chổng Pháp là Thiếu tướng. Hiệu trưởng Trường Đại học Quân Y.