Chương thứ nhất (4) CHẶT ĐỨT HOÀN TOÀN ĐƯỜNG SỐ 4
Gần hai năm trời, sau khi địch chiếm đóng Cao Bằng - Bắc Cạn trong cuộc tiến công Thu Đông 1947, thế trận của ta mỗi ngày một vững mạnh thêm. Cho đến cuối năm 1949, quân khu biên thuỳ của ngài quan năm Công-xtăng trở nên bấp bênh, nghiêng ngả. Tuyến đồn bốt và đội Âu Phi cơ động ứng cứu không sao bảo vệ nổi con Đường số 4, ống thực quản nuôi sống phân khu Cao Bằng - Bắc Cạn. Các trận đánh của ta dồn dập hơn: đánh đồn, bức rút, xen kẽ với những trận phục kích dữ dội. Chiến công nối tiếp chiến công. Chủ lực, địa phương đều thắng. Tên quan tư Clê-men-xơn và cả phó quan Ba-bơ-ranh chi huy phân khu Thất Khê phải đổi về xuôi sau những thất bại liên tiếp trên Đường số 4, vì để mất nhiều đồn bốt vùng Tràng Định - Thoát Lãng. Rồi Ba Sơn giải phóng chúng tôi mở rộng khu du kích Cao Lâu - Xuất Lễ ở ngay phía sâu trong lòng địch. Trên Cao Bằng, do sự hoạt động mạnh mẽ của Trung đoàn 74 và bộ đội huyện, du kích địa phương, địch rút bỏ Bắc Cạn, Nước Hai, Trà Lĩnh, Quảng Uyên, Phục Hoà, Nguyên Bình.
“Con đường chết chóc”, “con đường đẫm máu” đấy là câu nói cửa miệng của bọn binh lính và sĩ quan Pháp, kể cả Lê dương lẫn Bắc Phi hay Pháp chính cống. Trên con đường đẫm máu, chết chóc ấy, chúng kinh sợ nhất khi phải đi qua đoạn Bông Lau - Lũng Phầy, Bản Nằm - Lũng Vài, Bố Củng - Lũng Mười. Mỗi lần phải nhận nhiệm vụ vận chuyển tiếp tế từ Lạng Sơn lên Cao Bằng, chúng đều khiếp đảm. Chúng phải tổ chức phòng vệ rất chặt chẽ, cẩn thận. Nào nghi binh, nào cho bộ đội tiễn tiêu chiếm lĩnh các điểm cao, tuần tiễu, sục sạo, kết hợp phi pháo dọn đường, rà quét ven rừng. Nhưng vô hiệu, càng về sau càng thua đau hơn trước. Người, xe, súng ống, đạn được, khí tài, dụng cụ, lương thực càng bị mất nhiều hơn. Có lúc từ Cao Bằng xuôi về hàng đoàn xe không, nếu có tiếng súng, địch chỉ có một cách duy nhất: phóng liều mạng, phóng bạt tử khi qua các đoạn hiểm yếu. Thông thường chúng tôi lờ những chuyến trở về của chúng vì chỉ có những chiếc xe rỗng và lũ con buôn bám theo đưa hàng về xuôi. Nhưng bất ngờ, hồi tháng 5 năm 1949, chúng tôi giã trận Bông Lau - Lũng Phầy lần thứ 2 diệt 15 xe. Từ hôm ấy địch kháo nhau:
- Đi lên chưa chết thì lúc về chưa hẳn đã thoát. Tốt nhất là thoát khỏi con Đường số 4 khủng khiếp này.
Hồi đó, mỗi lần về Quân khu họp tổng kết, tôi thường thay mặt Trung đoàn 28 báo cáo về những trận phục kích thắng lợi trên Đường số 4. Anh Văn và anh Thái hay xuống tham dự với Quân khu. Và tôi thường phải trả lời một câu hỏi:
- Tại sao chỉ quanh quẩn mấy địa điểm trên mà trung đoàn vẫn đánh thắng hoài?
Đúng. Địch bị đánh rồi tất nhiên chúng phải phòng bị kỹ hơn. Trận sau dĩ nhiên khó đánh hơn trận trước. Nhưng rõ ràng ngày nào địch còn phải đi qua những đoạn hiểm yếu mà thiên nhiên đã tạo thành cái thế có lợi cho ta thì chúng còn bị đánh. Một bên núi dựng, một bên là khe sâu, đường vòng vèo ven chân núi, đi ngược phải lên đèo, về xuôi phải xuống dốc. Cùng với địa lợi là sự tính toán lựa chọn phương án thích hợp tối ưu của chúng tôi. Trong tính toán bố trí trận địa, tôi thường đặt mình vào tình thế địch và dự kiến nhiều tình huống, giả định giả thử địch ứng phó thế này, ta phải xử trí thế kia. Giả định địch phản kích kiểu này, ta dùng cách nọ mà ứng phó. Có lần nghe tôi đưa ra nhiều giả định, anh Văn cười và bảo:
- Cậu này sao lắm giả định thế.
Trong hoàn cảnh địch mạnh ta yếu, địch chính quy hiện đại, ta còn thô sơ lạc hậu, lại ở một nơi rừng núi hiểm trở, kế hoạch của chúng tôi luôn phải kèm theo nhiều giả định, tình huống và biện pháp đối phó khi bất trắc xảy đến.
Trong trận Bố Củng - Lũng Vài lần 3, nhờ có nhiều dự kiến trước, nên khi đường liên lạc điện thoại giữa các tiểu đoàn và trung đoàn bị gián đoạn, các đơn vị vẫn tự động đối phó theo kế hoạch. Và khi thời cơ đến, có tín hiệu phát ra từ sở chi huy trên đỉnh núi, toàn thể mặt trận nhất tề nổ súng, chuyển bại thành thắng.
Bí quyết của sự thành công khi đặt kế hoạch tác chiến có nhiều giả định là như vậy.
Khi tôi trình bày đến cả những dự kiến về thời tiết, tính toán đến tuần trăng từng tháng, anh gật gù.
- Tay này thông minh.
Vì ta chưa có dự báo thời tiết hàng ngày qua đài nên tôi hay hỏi lịch thời tiết của các cụ già trong bản (loại lịch chữ Nôm tính theo ngày âm lịch) để dự kiến biết những ngày mưa nắng, cung cách trăng khuyết, trăng tròn mà tính thời điểm nổ súng có lợi. Thường đầu tuần trăng trời sáng lúc đầu, đêm về khuya trăng lụi dần. Chọn thời khắc nào bố trí trận địa dễ dàng hơn, đánh lúc nào thuận lợi hơn, là cả một sự tính toán khôn khéo giữa khoảng trời khi mờ, khi tỏ, lúc tối bưng. Nhờ khai thác cái vốn dân tộc ấy, mà ở nhiều trận, để đánh phi pháo địch, bộ đội ta hành quân ra trận vào lúc trời có mây, có mù. Đối với tôi, các cụ ké là những chiếc hàn thử biểu, phong vũ biểu sống. Các cụ rất nhạy cảm về thời tiết. Nhưng có lẽ cái mà thằng địch luôn luôn bị thua là ở chỗ chúng luôn luôn bị bất ngờ. Chúng tôi đánh chúng vào đúng sự suy nghĩ rất chủ quan của chúng. Chủ quan vốn là thuộc tính cố hữu của địch, những kẻ nặng đầu óc vũ khí luận. Có pháo binh bắn dữ dội vào rừng, chúng nghĩ “bắn thế này Việt Minh chui vào đâu mà mai phục”. Dùng máy bay rà soát ngọn cây, bắn hàng tràng đại liên xé cây, rạch đất, chúng nghĩ “Việt Minh nào mà chẳng lùi chạy”. Chiếm trước điểm cao rồi mới cho xe đi, chúng cũng nghĩ: “khống chế chặt chẽ thế này Việt Minh xung phong sao nổi xuống mặt đường”. Rồi chúng lại nghĩ: “Đánh một lần rồi, dại gì Việt Minh đánh lại chỗ đã bị lộ”. Cứ cái kiểu nghĩ “ta to, ta khoẻ, ta khôn thế này. Việt Minh lần này đụng độ sẽ chết”! Bởi thế luôn luôn kẻ địch bị chết rất bất ngờ về những tính toán rất chủ quan như vậy. Còn chúng tôi lại rất chịu khó đúc kết nhanh sau từng trận đánh, rút kinh nghiệm nhanh và dự kiến luôn những gì kẻ địch sẽ tính tới ở những cuộc vận chuyển sau. Trong trận Bố Củng - Lũng Vài lần thứ 3, ta bắt được một tên đại uý. Hình như tên hắn là Béc-nô hay Béc-xô gì đó, tôi không nhớ cụ thể nữa. Tôi cho dẫn hắn đến để khai thác. Tôi hỏi:
- Anh đi qua đi lại trên đường này nhiều rồi chứ?
- Thưa ông, đã một vài lần.
- Đây là lần thứ mấy?
- Lần thứ 3 thưa ông.
Tôi mỉm cười bảo hắn:
- Đây cũng là lần thứ 3 tôi thắng trên đoạn Bố Củng-Lũng Vài này.
Béc-nô buồn rầu:
- Vâng! Ở đoạn này hễ hôm nào có các ông phục kích chúng tôi đều bị cả.
Ngập ngừng giây lát hắn nói tiếp:
- Rất may là tôi không có mặt ở hai lần các ông phục kích trước đây.
- Vài lần không may hôm nay đã đến.
Béc-nô nhún vai:
- Vâng! Thế là hết - Hắn ngao ngán. Từ lâu tôi và bạn bè đã tiên liệu, còn phải đi lại trên con đường số 4 chết tiệt này ắt sẽ có ngày gặp cơ sự khủng khiếp.
Tôi ngắt đứt lời than vãn của hắn và hỏi luôn:
- Lần này các anh phòng bị chu đáo do đã rút được nhiều kinh nghiệm ở mấy trận trước và ở cả đây và Bông Lau - Lũng Phầy, Bản Nằm. Anh hãy nói thật: Lúc bắt đầu ra đi anh có tin là bị phục kích không?
Béc Nô cắn môi rồi gật đầu:
- Thưa ông! Phục kích lúc nào là quyền của các ông. Nhưng có điều chúng tôi tưởng có thể ứng phó được nếu bị phục trúng.
- Thì các anh cũng đã ứng phó đấy chứ.
Tên tù binh nhún vai, hai bàn tay xoè ra lúc lắc đầu:
- Biết làm sao được thưa ông? Mọi diễn biến không đúng như điều chúng tôi hoạch định.Chiến tranh là sự dự liệu của cả hai bên mà.
Tôi gật đầu đổng ý và hỏi thêm:
- Nếu như anh còn phải đi vận chuyển thì lần sau anh tính toán bố trí ra sao cho tốt?
Hắn mở to mắt nhìn tôi rồi nói:
- Với tôi thưa ông, tôi biết chắc chắn bây giờ chỉ còn một con đường đi về trại tù binh. Nhưng ông hỏi tôi xin nói: con nhà binh không ai muốn rơi vào cái bẫy cũ. Tôi chắc bạn bè tôi, cấp trên của tôi sẽ bố trí một cách đi hữu hiệu hơn. Bởi chúng tôi vẫn cứ phải tiếp tế cho Cao Bằng.
- Cứ giả tưởng như anh sẽ đi, anh sẽ định ra sao? - Vừa nói tôi vừa đưa cho Béc-nô một tờ giấy và chiếc bút máy Pác-ke của tôi. - Nào, lại gần đây.
Béc-nô suy nghĩ rồi hắn phác họa trên giấy một cung cách xử trí cho một đoàn công-voa tiếp tế từ Lạng Sơn lên Cao Bằng khi qua điểm hiểm yếu. Hắn giảng theo từng nét sơ đồ rồi gật gù:
- Chắc chắn là hữu hiệu hơn. Các ông khó mà đánh được.
Tôi cười:
- Anh đoán chắc chứ.
Béc-nô cũng thẳng thắn:
- Chắc chứ, với tôi thì chắc chắn. Còn với ông... chiến tranh mà! Sự đối chọi của hai bên. Thưa ông!
Tôi thưởng cho Béc-nô cả gói thuốc lá Phi-líp.
Quả nhiên, ít hôm sau, cung cách đi trên đường, mọi hoạt động và mối quan hệ giữa các đồn bốt dọc đường với đoàn xe vận tải chuyển gần giống như điều Béc-nô đã diễn giải.
Từ sự rút kinh nghiệm, ứng phó mới của địch, tôi tìm ra thế bố trí, cách đánh mới ở trận Bông Lau lần thứ 3. Trận thắng rất đậm. Sau này, chuyển sang làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 174, đơn vị của mặt trận Cao - Bắc - Lạng trực thuộc Bộ, mỗi lần lên báo cáo tình hỉnh tôi vẫn được anh Văn nhắc nhở:
- Dù địch mạnh thế nào, bố trí ra sao, ta vẫn có thể đánh được. Đánh cả tiêu hao lẫn tiêu diệt. Nhưng hãy chú ý phải coi việc tiêu diệt sinh lực địch là chính. Tiêu diệt gọn, tiêu diệt nhiều, địch sẽ mau tan rã ý chí. Về mặt tổ chức, chúng cũng khó khăn hơn trong việc bổ sung lực lượng và củng cố đơn vị một khi đơn vị đó bị ta xoá sổ hoàn toàn, và có tiêu diệt được sinh lực thì mới giải phóng được đất đai.
Tôi nhớ điều đó và rất tâm đắc. Tôi coi đó là phương châm hành động để thực hiện quyết tâm của trung đoàn: “chặt đứt Đường số 4”.
Khoảng từ tháng 8 năm 1949, thế chủ động của ta trên chiến trường Cao - Bắc - Lạng đã rõ rệt. Lực lượng bộ đội tập trung của ta đông hơn, mạnh hơn. Mới ngày nào, sau khi chiếm Cao Bằng, viên cao ủy Bô-la lên thị sát từng hí hửng tuyên bố:
- Không bao giờ! Thật vậy! Không bao giờ nước Pháp rời bỏ cái thành phố xinh đẹp này!
Quan năm Công-xtăng cũng thề thốt:
- Chúng tôi xin làm tròn sứ mệnh bảo vệ an toàn quân khu Biên thuỳ. Sẽ luôn ở tư thế uy hiếp cái chiến khu Việt Bắc của Việt Minh.
Ấy vậy mà con Đường số 4 vào thời điểm này đang rẫy chết. Nó chỉ còn bảo đảm an toàn từ phía dưới Tiên Yên đến Lạng Sơn. Từ Lạng Sơn ngược lên nó gần như bị tê liệt. Để nuôi sống phân khu Cao Bằng - Bắc Cạn, địch phải mở những chuyến đi đẫm máu ; các nhà chiến lược Pháp đã bắt đầu có sự bàn cãi tính toán. Liệu có nên rút bỏ Cao Bằng hay mở đường tiếp tế bằng hàng không cho an toàn. Tờ báo Thế giới (Le Monde) báo hiệu nỗi chua cay của bọn viễn chinh xâm lược Pháp ở Đông Dương: “Việt Minh đã giành thế chủ động hoàn toàn trên Đường số 4(1)”. Cái tít chữ to in trên trang một làm đau đầu cao ủy Bô-la vô cùng.
Trên cơ sở lực lượng vũ trang một số địa phương đã dày dạn, trưởng thành, để đáp ứng với nhiệm vụ mới, Bộ Tổng tư lệnh quyết định thành lập Trung đoàn 174, trung đoàn của Mặt trận Cao - Bắc - Lạng trực thuộc Bộ. Trung đoàn bao gồm 3 tiểu đoàn chủ công và một số đại đội thực thuộc lấy ở 3 trung đoàn 3 tỉnh hợp lại. Trung đoàn 28 của Lạng Sơn. Trung đoàn 72 của Bắc Cạn vừa tròn số cộng là 100. Thêm Trung đoàn 74 của Cao Bằng. Phiên hiệu 174 mang ý nghĩa sức mạnh đoàn kết của con em 3 tỉnh Cao - Bắc - Lạng tập hợp lại chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng quê hương miền biên giới Cao - Bắc - Lạng. Đầu tháng 8 năm ấy, tôi đang bám sát Đường số 4, bỗng có điện gọi về Trung đoàn bộ ở Kéo Coong. Về tới nơi đã thấy anh Thanh Phong, Quân khu phó đang chờ. Anh thay mặt Quân khu truyền đạt mệnh lệnh của Bộ về việc thành lập Trung đoàn 174. Anh Hà Kế Tấn lên Quân khu nhận nhiệm vụ mới. Tôi sẽ là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 174. Anh Chu Huy Mân Trung đoàn trưởng Trung đoàn 74 của Cao Bằng sẽ là Chính ủy trung đoàn mới. Trên giao cho anh Mân và tôi chịu trách nhiệm tổ chức hình thành trung đoàn vào tháng 9. Nghĩa là chúng tôi có một tháng để tập hợp lực lượng, sắp xếp, điều động cán bộ, tổ chức nề nếp công tác với nhiệm vụ “Trung đoàn 174, trung đoàn của Cao - Bắc - Lạng hễ đánh là thắng”.
Mấy hôm sau anh Mân(2) ở trên Cao Bằng về Kéo Coong với tôi.
- Trời! Anh Lạc. - Tôi mừng rỡ kêu lên: - Hoá ra anh à?
Anh Mân chỉ tủm tỉm cười, tính anh vốn ít nói năng ồn ào. Vẫn là tác phong điềm đạm và giọng nói xứ Nghệ rủ rỉ, nằng nặng, anh bảo:
- Thế là mình chớ răng nữa.
- Nào “tui” có biết anh đổi tên từ khi “mô”.
Tôi cũng nói vui lại bằng giọng điệu quê hương xứ Nghệ chúng tôi.
Hai chúng tôi vốn có duyên nợ quen biết nhau từ lâu. Tôi quê Diễn Châu, anh ở Hưng Nguyên cũng tỉnh Nghệ An. Hồi Cách mạng tháng Tám năm 1945 cướp chính quyền ở Thuận Hoá, tôi đã gặp anh. Lúc đó, tôi là một sinh viên mới tham gia Việt Minh từ năm trước. Còn anh đã là một đảng viên kỳ cựu tham gia hoạt động cách mạng từ thời Xô viết Nghệ Tĩnh (1930), đã từng lãnh án tù đày đi Công -tum, từng vượt ngục để tiếp tục hoạt động cách mạng. Thực dân Pháp liệt anh vào loại nguy hiểm. Cứ hàng năm vào ngày kỷ niệm mồng 1 tháng 5 hoặc ngày “cách-to duy-dê” (14-7), ngày lễ quốc khánh của nước Pháp, là chúng lại bắt anh vào tù ít lâu. Anh thì chững chạc, chín chắn, tôi thì bồng bột sôi nổi, nguyên hình của một thanh niên thuở cách mạng mới thành công. Chúng tôi đã từng có mặt trong những ngày đầu thành lập xây dựng đoàn Vệ Quốc quân đầu tiên của Bình Trị Thiên. Ít lâu sau tôi lên mặt trận Đường số 9 ngăn chặn bọn Pháp từ sườn phía Tây toan tính chiếm lại Trung Bộ. Khi tôi chuyển sang mặt trận Đường số 7 thì anh được điều tới thay tôi chỉ huy Đường số 9. Rồi chiến tranh toàn quốc bùng nổ, hai người chung một chiến trường Đường số 4, ở hai tỉnh địa đẩu Tổ quốc mà không biết. Nay lại hội ngộ, cùng chung một trung đoàn, đúng là quả đất tròn. Rất tròn vậy! Điều vui sướng nhất lúc đó là tôi cứ thầm nghĩ mình có duyên may. Trước đây là anh Hà Kế Tấn, giờ lại anh Chu Huy Mân. Các anh vừa lớn tuổi đời hơn, vừa là chiến sĩ cách mạng từng dầy dạn trong đấu tranh, từng ra tù vào tội qua nhiều thử thách gian truân, có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống. Với người chính ủy như vậy tôi như có chỗ dựa vững chắc, yên tâm điều quân đi đánh giặc. Anh Mân bàn với tôi:
- Việc khởi đầu là ta phải quán triệt chủ trương của trên. Tình hình chiến trường càng phát triển, trung đoàn mới của ta phải đủ sức đáp ứng nhiệm vụ mới. Xây dựng sao để trung đoàn vươn lên có khả năng đánh vận động, tiêu diệt sinh lực lớn của địch, tiến tới những trận công kiên tốt.
Tôi nói:
- Vậy ta phải tính đến sức cơ động của trung đoàn. Khác với trước, chúng ta không còn là một đơn vị quanh quẩn ở địa bàn trong một tỉnh nữa rồi.
Anh Mân đồng tình:
- Đúng! Chẳng những có sức cơ động mạnh, mà còn phải mạnh về nhiều mặt. Một trung đoàn hoàn chỉnh là trung đoàn mạnh về tư tưởng, mạnh về trình độ kỹ thuật, chiến thuật, mạnh cả về công tác chính trị: Dân vận giỏi, sao cho đi dân nhớ, ở dân thương. Địch vận giỏi góp phần làm tan rã đội ngũ địch...
Chúng tôi còn bàn nhiều về tổ chức, về cán bộ, về vũ khí v.v... mọi việc dễ dàng nhưng khi bàn đến vấn đề hậu cần, lương thực thì cả hai chúng tôi đều cảm thấy đây là khó khăn lớn. Cao - Bắc - Lạng là đất miền núi, dân vẫn thường ăn ngô, sắn kèm theo thóc gạo. Toàn ruộng bậc thang một mùa cấy hái theo lối làm nương rẫy. Lạng Sơn có Thất Khê, Bình Gia. Cao Bằng có Nước Hai, Trùng Khánh là những nơi có nhiều đồng lúa, nhưng đâu phải ruộng kiểu thẳng cánh cò bay như vùng đồng bằng dưới xuôi. Với một trung đoàn tập trung gồm 5 tiểu đoàn cùng với bao nhiêu đại đội trực thuộc, quân số đến năm ngàn rưỡi. Chỉ đóng ở đâu độ một tháng là ăn nhẵn lúa gạo của dân rồi. Tập hợp quân lại cho đông vui thì dễ, nhưng nuôi số quân ấy hàng ngày đâu phải chuyện vui. Nhưng rồi chúng tôi đều nhất trí “Việc này phải có Dân, Chính, Đảng cùng lo với chúng ta mới xong”.
Anh Mân cười:
- Để tôi gánh chịu việc nan giải này cho. Tôi sẽ làm việc với Quân khu, với tỉnh, với Mặt trận Liên Việt sao cho lính có ăn mới đánh giặc. Còn anh lo công tác tham mưu tác chiến. Lo liệu, tính toán sao cho có một trận thắng to trước mắt mừng lễ ra quân của E ta nghe!
Tôi nói vui:
- Tháng hay không là do hũ gạo quyết định chứ không phải người cầm quân lúc này. Vậy anh là người quyết định đó!
Trước khi nhận quyết định của Bộ về việc thành lập Trung đoàn 174, tôi đang bám sát Đường số 4 với ý định đánh trận Bông Lau - Lũng Phầy một lần nữa. Khi có điện về Kéo Coong, tôi vẫn để trinh sát bám đường theo dõi chặt chẽ tình hình địch. Người phụ trách đại đội trinh sát là anh Sáu Nhật. Gọi như vậy vì anh vốn là một sĩ quan Nhật sang hàng ngũ ta khi được biết phải giao nộp vũ khí cho quân đội Tưởng ở Bắc Việt Nam. Ta thường gọi các sĩ quan, binh lính Nhật chạy sang hàng ngũ quân đội ta là “Việt Nam mới”, một cái tên thông dụng lúc bấy giờ. Sau bao nhiêu thử thách trong các trận, càng ngày anh càng tỏ ra là một cán bộ có bản lĩnh chiến đấu rất dũng cảm và trung thành. Đã có lần anh tâm sự:
- Tôi coi Việt Nam là quê hương thứ hai của tôi. Sống trong đội ngũ giải phóng quân Việt Nam, tôi đã giác ngộ nhiều lắm. Tôi đã hiểu thế nào là quân đội cách mạng. Quân cách mạng chiến đấu vì nhân dân vì sự nghiệp giải phóng của đất nước.
Điều anh tâm đắc nhất là trong quân đội cách mạng như quân đội Việt Nam, chỉ huy và chiến sĩ thực sự là anh em, là đồng chí. Sáu Nhật rất thích được mọi người gọi mình là đồng chí và luôn luôn chứng tỏ cho mọi người biết, anh sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Việt Nam.
Một lần, trong trận Người Kim - Chôc Ngà, Sáu Nhật xung phong lao xuống mặt đường. Tên quan ba Ri-vơ-ranh nấp ở cạnh đấy dùng khẩu súng ngắn bắn anh. Viên đạn sượt qua má. Cùng lúc ấy, Đại đội trưởng Lê Hoàn rút kiếm lao tới. Tên Pháp cuống quít xin hàng. Lê Hoàn vung kiếm chém khi thấy má Sáu Nhật đầy máu, nhưng chính Sáu Nhật đã ngăn Hoàn lại:
- Tha cho nó. Không thèm giết kẻ đã hàng.
Sau này vết thương in một dấu sẹo dài trên má. Biết tôi hay chú ý tới công tác địch vận, Sáu Nhật thường chỉ chỉ vào má mình nói vui:
- Kỷ niệm biết làm địch vận của tôi đấy, Trung đoàn trưởng ạ!
Mới gần đây, sau hơn 35 năm xa cách, chúng tôi lại gặp nhau. Sáu Nhật là Tổng thư ký Hội mậu dịch Nhật - Việt. Anh đến Hà nội công tác và nhắn tìm tôi.
Một cuộc gặp gỡ đầy xúc động khi nhắc tới một thời đã từng chung sống gian nan, hào hùng dọc Đường số 4 miền đất Cao - Bắc - Lạng. Bấy giờ tôi mới biết tên thật của anh là Keochiro Iwai(3).
Một lần, Trung đoàn tổ chức một tuyến trinh sát từ dưới Mũi Ngọc theo dọc Đường số 4 tới sở chỉ huy tiền phương. Sáu Nhật chỉ huy toàn tuyến kể từ việc báo bằng điện đài, điện thoại tới chạy bộ kiểu Ma-ra-tông. Mỗi lần trung đoàn phục kích chờ địch, hễ đoàn vận chuyển của chúng xuất phát từ Mũi Chùa là đã có điện báo về trạm Lạng Sơn. Từ đấy, từng chặng một bằng mọi cách, anh báo về sở chỉ huy từng động tĩnh, từng đường đi, nước bước của chuyến công-voa tiếp tế của địch.
Tôi có ý định sử dụng các tiểu đoàn của ba Trung đoàn Cao -Bắc - Lạng vừa mới sáp nhập thành 174 để đánh trận Bông Lau - Lũng Phầy, làm trận ra quân đầu tiên của trung đoàn. Anh Mân tán thành ngay. Chúng tôi bàn bạc, không tập trung quân về mà chỉ triệu tập khung cán bộ tiểu đoàn, đại đội thuộc ba nơi và các đơn vị trực thuộc. Anh em về, vừa để nhận quen nhau, vừa bàn bạc tổ chức đánh trận đầu giòn giã. Tôi sẽ dẫn cán bộ đi trinh sát thực địa, lên phương án kế hoạch tác chiến tại trận. Sau đó cán bộ từng nơi về dẫn quân đến nhận vị trí và bố trí trận địa, tổ chức phục kích chờ địch. Anh Mân cùng với cán bộ hậu cần lo tổ chức đường dây tiếp tế lương thực từ phía sau tới mặt trận, anh cũng lo luôn việc bàn tính với Tỉnh ủy Cao Bằng về các mặt cơ sở vật chất, tinh thần cho buổi lễ ra mắt trung đoàn, đồng thời là lễ mừng chiến thắng mới trên Đường số 4. Nhiệm vụ đề ra cho chúng tôi khá rõ rệt. Bằng mọi giá, trận đẩu phải thắng, chỉ được thắng và thắng thật giòn giã, thật vang dội.
Cuộc hội ngộ của đông đảo các cán bộ quân sự chủ chốt của 3 tỉnh diễn ra đầy hào hứng, phấn chấn, toàn những con người mà tên tuổi gắn liền với chiến trường Cao - Bắc - Lạng. Biết nhau qua từng tiếng vang của các trận thắng, nay mặt nhìn mặt, tay cầm tay vui mừng khôn tả. Những Nguyễn Hữu An, Trung Ngọc, Nguyễn Chân, đồng chí Nùng, Nông Quốc Tiến của 74 Cao Bằng ; Lê Hoàn, Bắc Quân, Bế Chu Lang, Đinh Giang, Đắc Hanh, Hùng Quốc, Bằng Khê của 28 Lạng Sơn. Trung đoàn 72 Bắc Cạn có Thanh Tâm, Lê Vũ... Rồi đồng chí Kha, Đinh Như Thành, Tấn Phong, Ngọc Sương của pháo binh, trợ chiến, chân đồng vai sắt. Những cán bộ trinh sát, thông tin như Sáu Nhật, Tiến Hùng, Lưu Bằng lão luyện tinh thông nghiệp vụ. Một số cán bộ tham mưu, chính trị, hậu cần như Lê Phước, Hữu Sơn, Hữu Tố, Ngọc Sương, Tiêu Sơn. Ai cũng tin tưởng, cũng muốn đóng góp hết mình cho sự trưởng thành của Trung đoàn 174, đứa con đầu lòng kết tụ tinh hoa của ba tỉnh Cao - Bắc - Lạng. Khí thế ra quân giành thắng lợi tưng bừng, náo nức vô cùng.
Qua trinh sát, tôi đã nắm chắc quy luật đi lại của địch. Dạo này nhịp điệu vận chuyển của chúng thưa hơn. Nhưng đã đi thì đi hẳn những chuyến lớn hàng trăm xe, bố phòng rất chu đáo, rất tinh vi, tỉ mỉ và không tiếc đạn pháo lúc cần. Thông thường, chúng xuất phát từ Tiên Yên - Khe Tù chạy đến Lạng Sơn, nghỉ lại chờ và nghe ngóng. Từ Lạng Sơn chúng chỉ đi đến Thất Khê, dừng lại một đêm. Hôm sau, hoặc có thể muộn hơn mới đi tiếp chặng lên Cao Bằng. Từng chặng có bộ binh dọn đường, bố trí quân án ngữ bảo vệ. Kiểu cách như sau:
Tờ mờ sáng, địch dùng một tiểu đoàn Âu - Phi mở đường. Tới đèo Bông Lau, chúng rẽ trái, leo lên dãy núi Phau Pia, dàn quân chiếm lĩnh mười một mỏm cao trên đỉnh núi. Chúng đào công sự dã chiến, bố trí hoả lực nhằm về hướng Đông Bắc dãy núi đá, nơi chúng nghi ta xuất quân từ phía đó. Tiếp theo là 3 đại đội Lê dương, cùng xe tăng, xe bọc thép, bố trí dọc đường cái như những cọc tiêu sống, có cả chó bẹc-giê sục sạo đánh hơi vào trong sân để tìm dấu vết quân ta. Một số leo lên chiếm thành vại ta-luy. Tăng và xe bọc thép chĩa súng ngóng về phía núi đá hướng Đông.
Ở phía trên Đông Khê, chúng cho hai đại đội bộ binh, thiết giáp, bố trí quanh làng Lũng Phầy, sẵn sàng ứng cứu. Bố trí, sục sạo xong, bọn án ngữ báo tin hiệu: “Đường đã mở, có thể cho xe lên đường”, lúc này đoàn xe mới xuất phát. Một tiểu đoàn Lê dương hộ tống phía trước, ở giữa và sau đuôi. Cả đoàn thông thường trên 100 chiếc, chia thành nhiều tốp. Mỗi tốp 10 xe đi với cự ly 2 km một tốp. Xe nọ cách xe kia chừng 300 m.
Địch hy vọng, với cách này, đoàn xe được bảo đảm an toàn tuyệt đối. Và rõ ràng, khi chúng tôi chưa tổ chức đánh, đang nắm quy luật, thói quen của chúng, địch đã đi trót lọt. Chúng nghĩ, dù có bị đánh, giỏi lắm ta cũng chỉ phá được 5 hoặc 10 xe là cùng. Cả đoàn lớn vẫn hoàn thành công việc vận chuyển. Một khi đã trót lọt, an toàn dăm ba lần, địch dễ chủ quan, dễ lơ là, mất cảnh giác. Điều bất ngờ đối với chúng là như vậy. Chúng tôi đánh vào lúc chúng quá tin là ta không thể đánh được.
Trận này tôi sử dụng 4 tiểu đoàn bộ binh, mở dài tuyến phục kích trên 6 km, với quyết tâm khuýp gọn toàn bộ chuyến công-voa lớn. Ngoài 3 tiểu đoàn của 3 tỉnh, tôi dùng cả Tiểu đoàn 23, đơn vị của Bộ, đã từng đánh Bố Củng - Lũng Vài lần thứ nhất. Sau khi nghiên cứu kỹ quy luật, tình hình địch, các cán bộ bàn bạc rất sôi nổi? Chúng tôi dùng lối vận động phục kích, ta để địch chiếm đỉnh cao, bố phòng khống chế ngay ở điểm chúng nghi bị mai phục. Ta giải quyết sao để vừa không bị lộ, vừa vô hiệu hoá ngay bọn này khi ta nổ súng vào đoàn xe. Phương châm hành động của chúng tôi là: “bí mật, táo bạo, mưu trí”. Tổ chức một bộ phận ém rất kín đáo, ngay ngang sườn, phía trước và phía sau ngọn Khâu Pia. Địch đến, bộ phận này phải dấu quân thật giỏi, để chúng lên thẳng trên các đỉnh cao, đúng như kế hoạch của chúng. Cốt sao cho địch đừng đụng phải mình, biến thành cuộc tao ngộ chiến với bọn bộ binh đi án ngữ này. Vì, nếu xảy ra như vậy sẽ không có xe nào đi nữa. Nhiệm vụ nguy hiểm này tôi giao cho Lê Hoàn là một đại đội trưởng(4) rất dày dạn, Hoàn người Tràng Định, đa số cán bộ, chiến sĩ trong đại đội của Hoàn cũng cùng quê, nên rất thông hiểu dãy Khâu Pia. Họ biết nơi nào ẩn tốt, từ hẻm núi hốc đá nào bất thần tiến công địch và đánh gục địch vào đúng lúc cần thiết nhất. Phía dãy núi đá đối diện, chúng tôi đặt hai tầng hoả lực mạnh dọc đỉnh và sườn đối diện với địch về phía núi Khâu Pia. Các vị trí hoả lực được chuẩn bị sẵn, nhưng chưa đặt vũ khí. Khi địch đã yên trí, không tìm ra dấu vết quân ta, trung đoàn mới ra lệnh các hoả lực vào vị trí. Khi nổ súng hoả lực này sẽ kiềm chế xe tăng, xe bọc thép, cùng bọn bộ binh chúng rải trên đường và dọc sườn ta-luy. Khẩu 70 ly và khẩu 37 ly sẽ trút đạn sang đỉnh núi Khâu Pia trợ lực cho xung kích của Lê Hoàn tiến công tiêu diệt chúng. Xung lực chính là Tiểu đoàn 251 của Nguyễn Hữu An(5) đơn vị chủ công của trung đoàn anh Mân trước đây. Tiểu đoàn này đã từng đánh những trận nổi tiếng trên trục Đường số 4, hoà nhịp chiến công với Tiểu đoàn 249 của Trung đoàn 28 Lạng Sơn. Về với Trung đoàn 174, Tiểu đoàn 251 được trang bị khá mạnh. Toàn những trung liên đầu bạc Brenn, tiểu liên Tôm-xơn, Sten chiến lợi phẩm lấy được ở các trận Lũng Mười, phía trên Đông Khê, dịp Nôen 1947 diệt 27 xe và 2 đại đội Lê dương tinh nhuệ, trận Nà Kéo, trận Nà Danh trên đường Đông Khê - Phục Hoà diệt 4 xe tăng. Đánh xong, An cho quay nòng súng bắn luôn vào Đông Khê uy hiếp bọn ứng cứu.
Nhiệm vụ của Tiểu đoàn 251 là từ chỗ ẩn quân phía sâu trong rừng, sẽ men theo khe, xung phong nhanh lên mặt đường sau khi đại liên, trung liên và cối ở sườn núi đã rà quét vào đoàn xe.
Hướng Thất Khê có tiểu đoàn Bông Lau (249) khoá đuôi chặn viện. Tiểu đoàn 23 chặn đầu không cho chúng thoát lên Đông Khê.
Muốn đoàn xe ùn tắc, dồn lại, chúng tôi cho công binh ném loại đinh ba chạc ra mặt đường, xe bị xịt lốp sẽ vướng ùn lại. Địch có phát hiện cũng cho rằng: “mẹo phá hoại của nhóm du kích nhỏ quấy rối, ngăn chặn tốc độ vận chuyển mà thôi”.
Một trận đánh được tính toán kỹ càng từng chi tiết nhỏ, để đối phó lại kế hoạch phòng vệ khá chu đáo cho việc thông xe của địch. Hôm đi trinh sát lúc gần tiếp cận đoạn Bông Lau - Lũng Phầy, chúng tôi phải rải chặn xuống chỗ bước lên đường. Xong đó lại có bộ phận vuốt từng cành cây, ngọn cỏ, để tránh lộ dấu vết, tránh cả việc đánh hơi của chó béc-giê. Tất cả đều xác định: “Giữ được bí mật là nắm chắc 80% thắng lợi”. Chỉ cần một sơ xuất nhỏ sẽ làm hỏng toàn cuộc. Con thú sẽ bỏ mồi, cá sẽ lảng khỏi câu, đành phải đi không về rồi mất. Cái khó không phải chỉ giữ bí mật trong khoảng thời gian nhất định, mà phải kiên tâm cho tới lúc địch xuất hiện, có thể một ngày, cũng có thể hai ba ngày, hoặc địch có thám báo biết bị phục kích không đi nữa. Sau này, có lần gặp lại anh Nguyễn Hữu An, nhắc đến cuộc kháng chiến xưa trên Đường số 4, anh bảo:
- Anh Việt nhỉ! Ngày ấy ta thắng lớn trận Bông Lau - Lũng Phầy do nhiều nguyên nhân. Nhưng nhớ lại tôi vẫn tâm đắc một điều, bộ đội rất kỷ luật, ý thức tổ chức cao, tinh thần chịu đựng gian khổ rất vững. Anh nghĩ xem! Chờ mãi thằng địch nó không đi không đến. Cứ phi pháo nó giã mấy ngày liền, vừa giữ bí mật, vừa gan dạ kiên trì, cơm vắt, muỗi rừng chịu đựng hoài. Chờ tới lúc được đánh mới thôi. Quý lắm! Chả trách mà dân Cao - Bắc -Lạng cứ bảo: “Bộ đội cụ Hồ quý lắm mà. Thương lắm mà”.
Quả thế thật! Trận đó chờ tới hai ngày địch không hề động tĩnh. Sang ngày thứ ba, hai máy bay “Cổ ngỗng” mò đến, cứ nhè dọc sau dãy núi đá xả trọng liên “đui xết” đinh tai nhức óc, tiếp đến pháo từ Thất Khê bắn đồn dập và cứ thế chúng nó cầm canh suốt ngày đêm. Một câu hỏi đặt ra buộc người chỉ huy phải suy tính: “Bị lộ rồi chăng? giặc không đi nữa chăng? chúng dùng phi pháo để phá cuộc phục kích hay chỉ là hành động nghi ngờ dọn đường cho một chuyến vận chuyển lớn”.
Tôi bàn tính với Tham mưu trưởng Nguyễn Văn Thước: “Nếu lộ chắc địch dùng bộ binh Âu Phi mở cuộc hành binh tiến công ta ngay. Đây chỉ là vấn đề bắn phá vào vùng rừng hiểm trở chúng thường lo bị phục kích. Ta cứ kiên trì! Con cá chờ lâu là con cá lớn”.
Bộ đội được lệnh giữ vững tinh thần đợi địch: tổ chức ẩn nấp tránh phi pháo cho tốt ; tuyệt đối giữ bí mật, không vì chờ lâu mệt mỏi mà lơ là mất cảnh giác. Nhưng chờ lâu, lương ăn đã cạn, đẻ ra vấn đề ăn uống hàng ngày khá nan giải. Tôi họp với cán bộ hậu cần và chính trị để bàn cách giải quyết. Cần liên lạc gấp với Đảng ủy và chính quyền các xã Quốc Khánh, Tân Tiến, Chí Minh, vận động bà con tiếp tế lương thực cho bộ đội. Một mặt tôi báo cáo về căn cứ để anh Mân tổ chức đường dây tiếp tế cho mật trận. Cán bộ dân vận và hậu cần trở về cho biết:
Nhân dân đang trong thời kỳ hết lương thực. Nhiều nhà phải vào rừng đào củ mài, nhưng các cán bộ địa phương đã huy động bà con lấy thóc giống ra giã gấp. Bà con sẽ vắt cơm nắm tiếp tế ngay trong đêm nay. Dưới vùng căn cứ cũng đang tổ chức dân công tiếp vận. Tất cả mọi nơi mong mỏi sao ngoài tiền tuyến bộ đội đánh thắng. Tôi xúc động vô cùng và cho phổ biến ngay tin sốt dẻo về tinh thần nhường cơm sẻ áo của bà con dân bản đối với bộ đội. Cả trận địa vui mừng, cả trận địa quyết tâm chịu khổ, chịu đói, kiên trì chờ giặc. Chúng tôi quyết đánh và đánh thắng.
Sang đến ngày thứ tư, mới sáng sớm địch dồn dập nhiều loại đạn 105 vào trận địa. Giữa lúc đạn pháo nổ, tôi được đài quan sát phía sau báo: “Nó đã xuất hiện 1 xe tăng, 2 xe bọc thép và 3 xe đầy Lê dương tiến rất thận trọng”.
Thôi đúng là bọn đi chiếm cao điểm án ngữ bảo vệ đường dây! Thế nào chúng cũng vận chuyển hôm nay.
Địch bắt đầu hành động. Hãy tuyệt đối giữ bí mật. Cố tránh không cho địch phát hiện. Giữ vững kỷ luật chưa có lệnh chưa được nổ súng. Lệnh từ đài chỉ huy được truyền xuống từng đơn vị. Sáu Nhật rời ống nhòm, bám sát từng hành động nhỏ của địch, nhất nhất đều báo cáo cho chỉ huy mật trận. Tôi ngồi sát điện đài theo dõi tình hình. Quả nhiên đúng như bài bản cũ. Địch cũng chiếm điểm cao trên Khâu Pia, cũng cho chó lùng sục, cũng dùng bộ binh và tăng án ngữ dọc đường thận trọng hơn, chúng cho cả máy bay bà già vè vè trinh sát mấy vòng. Không thấy một bóng Việt Minh nào dọc theo đường cái. Lệnh từ tên quan tư chỉ huy mở đường về căn cứ Thất Khê: “An toàn tuyệt đối - Đường đã mở - Cho xuất phát”(6) Thế là đoàn xe 126 chiếc hành tiến. Từng tốp, khói, từng tốp bụi mịt mù Đường số 4.
Tôi cũng tuần tự thực hiện bài bản của mình: lệnh cho Tiểu đoàn xung kích 251 của An và Tiểu đoàn 23 của Lê Niên từ trong rừng sâu, khe đá vận động tiến ra gần sát đường. Sau khi cho tốp đầu đi trót lọt, lệnh cho đội công binh ném đinh ba chạc. Lệnh cho 2 tầng hoả lực vào vị trí và sẵn sàng. Tầng cao, áp đảo bọn chiếm sườn ta-luy và bọn án ngữ trên đỉnh Khâu Pia. Tầng dưới úp vào bọn dưới đường và đoàn xe. Bên kia ngọn Khâu Pia, đại đội của Lê Hoàn chuẩn bị tư thế sẵn sàng, nghe súng lệnh là nhanh chóng diệt bọn địch chiếm cao điểm rồi đánh thốc xuống phía bên Bông Lau, bộ phận ở sườn phía Đông, tuột sát đường, đánh vào bọn địch trên các ta-luy ven đường, khống chế bọn tàn binh chạy ngược lên phía Khâu Pia.
Từ đài chỉ huy, tôi quan sát thấy chiếc xe thứ 12: xịt lốp, các xe khác cứ ùn lên. Từ cự ly 300 m, nay mỗi xe chỉ cách nhau 2 đến 3 mét, thế kéo dài dàn mỏng trở thành thế co cụm. Tiếng gầm của xe cộng với tiếng hò hét của bọn lính, tiếng chó béc-giê, dội vào vách núi đá, nghe ầm ẩm chấn động cả một góc núi rừng. Điện tới tấp từ các tiểu đoàn gọi về A1: Lê Hoàn, Bắc Quân, Nguyễn Hữu An, Lê Niên đều áp sát quá gần địch, xin đánh. Một sơ hở sẽ làm lộ bí mật, sẽ mất hết chủ động. Tôi vẫn kiên trì... Sáu Nhật báo cáo: “ Đã lọt vào trận địa hơn 90 xe. Địch đã chữa xong chiếc xe xịt lốp và đang lên xe chuẩn bị hành quân tiếp”. Đây là thời cơ, thời cơ tốt nhất đã đến. Tôi ra lệnh nổ súng. Sau này nghĩ lại trong một trận phục kích, chọn thời cơ nổ súng là cả một nghệ thuật.
Một trận đánh dữ dội rất khuýp, rất đẹp. Xe địch nghiêng ngả dài suốt 6km đường. Đã hết một thời mà bọn Lê dương ngổ ngáo hò hét: Mút-cơ-tông, pa pơ(7). Giờ chúng chỉ dám chui tụt xuống gầm xe, rãnh cống dọc bờ đường bắn trả một cách tuyệt vọng. Cuối cùng đành chịu chết hoặc xin hàng. Có lẽ đây là trận thắng lớn nhất, diệt nhiều xe nhất, bắt tù binh nhiều nhất trên Đường số 4. Còn chiến lợi phẩm thì nhiều vô thiên lủng. Sau này tôi mới biết, nhân dân các xã Quốc Khánh - Tân Tiến, Chí Minh gần đó đã ra lấy hàng hoá dọc khe, bờ rừng đến hai ba tháng không hết.
Khi tiếng súng vừa dứt, từ trên đài chỉ huy tôi xuống mặt đường, nhìn thấy một cảnh tượng rất vui mắt. Tiểu đoàn trưởng An đang bắt bọn tù binh Lê dương lái những chiếc xe mà ta đã thu hết hoặc không thu hết chiến lợi phẩm cho lao xuống vực. Bọn chúng ngoan ngoãn lên xe gài số sẵn rồi cho từng chiếc từ từ lao xuống sau khi chúng nhảy ra khỏi buồng lái.
Tiểu đoàn trưởng An cười với tôi:
- Bọn tù binh khác thì phải khiêng chiến lợi phẩm anh ạ!
- Thế còn những chiếc xe bẹp chết máy kia?
- Sẽ hoả táng! Khung xe cháy rụi để bọn Thất Khê tha hồ mang cần trục lên mà dọn.
Đêm đó tôi và An cứ loay hoay bên cạnh chiếc xe tăng, bàn nhau tìm cách cho tháo lấy khẩu đại bác 75 ly mà không sao tháo nổi. Cuối cùng An bảo:
- Không lấy được thì tống cho nó một quả lựu đạn vào nòng, tưới xăng đốt cháy, chẳng dại gì để nó dùng.
Trận ấy, khi hỏi tên quan ba Đuy-mê-ghi-ô, tôi mới rõ, có một tên Việt gian về tận Thất Khê báo với chúng là bộ đội ta hành quân về phía Đường số 4 nhiều lắm. Địch nghi và tổ chức bắn pháo, Đuy-mê-ghi-ô nói:
- Cái sai lẩm của chúng tôi là quá coi thường sự bền gan, vững chí của các ông. Chúng tôi nghĩ, sau ba ngày đêm máy bay và pháo bắn liên tục, chắc chắn các ông bị thương vong nhiều, khó lòng chịu đựng nổi, chắc đã rút. Ôi!... Không ngờ... rất không ngờ.
Sau giây phút đắn đo, hắn khai tiếp: còn một điều nữa chúng tôi buộc phải đi hôm nay, vì lẽ bốn hôm nữa là ngày hội Lê dương (7-9) ngày truyền thống của chúng tôi tổ chức ở Cao Bằng. Chúng tôi rất cần chở mọi thứ cho ngày hội lớn.
Thảo nào! Trận này có nhiều xe chở toàn gà, vịt, ngan, ngỗng, cừu, dê. Bánh kẹo và rượu hàng két, hàng thùng. Lại thêm rất nhiều con buôn đi theo nên đủ loại thập cẩm, bách hoá từ vải vóc, tơ, chỉ, đến cả vàng mã, mũ mão con công bằng giấy.
- Súng ống đạn dược cũng nhiều. Các anh vẫn bổ sung cho Cao Bằng những phương tiện chiến tranh. Đâu chỉ vì ngày hội.
Đuy-mê-ghi-ô thở dài:
- Súng ống quân trang nguyên vẹn đủ để trang bị cho một trung đoàn Pa-ti-dăng người bản xứ, chúng tôi sắp thành lập. Bây giờ thì hết cả. Đúng vậy, bây giờ thì hết cả.
Khi tôi xuống đường, thấy nhiều xe đầy ắp vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng. Một ý nghĩ đột nhiên nảy ra, tôi liền ra lệnh cho các đơn vị: “Trừ bộ phận trực và cảnh giới hai đầu, các đơn vị cho xếp súng vào hang đá, đi người không xuống đường. Tất cả, lột trang phục cũ, mặc toàn bộ trang phục mới của địch, trang bị lại bằng vũ khí mới và sau đó mang vác những gì có thể lấy được ra khỏi trận địa”.
Chỉ trong chốc lát, dưới ánh sáng ngọn lửa của hàng chục thùng xăng được đốt lên, các đơn vị tham chiến đều như thay da đổi thịt. Trừ cái mũ vải vành to của quân ngụy là không được đội đầu, còn chúng tôi đã mượn tạm những gì mà bọn thực dân định dùng cho trung đoàn Pa-ti-dăng. Những khẩu súng Mát kiểu mới toanh từ Pháp mới đưa sang, đang còn dính đầy dầu mỡ đủ các loại đã nằm chắc trong tay các anh Vệ quốc...
Tôi thẩm nghỉ: “quả cũng xứng với công bộ đội mình ăn chực, nằm chờ chúng suốt 4 ngày gian nan vất vả. Một trận thắng đầy ý nghĩa. Tước sạch trang bị của một trung đoàn ngụy quân. Biến ngày hội Lê dương của chúng thành ngày tang thất trận với trên 100 tên bị bắt, 96 xe tan tành. Mất cả 3 chiếc tăng lẫn bọc thép. Ba đại đội Âu Phi, Lê Dương bị xoá sổ. Với lối đánh nhanh giải quyết gọn, nắm chủ động từ phút đầu, số thương vong của ta rất ít: 15 người cả chết và bị thương”.
Chúng tôi đã thức trắng một đêm thu dọn chiến lợi phẩm mà không xuể.
Trung đoàn 174 mới ra quân trận đầu mà đã giành được thắng lợi lớn. Ai cũng cảm thấy mình lớn mạnh lên rất nhiều.
Chiến thắng Bông Lau - Lũng Phầy lần thứ tư ngày 3 tháng 9 năm 1949, cũng là lễ mừng ngày Quốc khánh (2-9-1949) của quân và dân Cao - Bắc - Lạng. Tin vui được báo cáo về Bộ, về Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân Cao Bằng - Lạng Sơn, về trung đoàn bộ chỗ anh Mân. Bà con Kéo Coong, Nước Hai được một phen bàn tán, chuẩn bị chờ đón quân ta trở về.
Sau trận đánh, quân ta rút về hậu cứ phía Bố Bạch, Pò Mã ở Đông Bắc Thất Khê, lấy lại sức khoẻ sau những ngày đêm căng thẳng kiên trì trên núi đá tai mèo cheo leo, sườn Khâu Pia dốc đứng, cơm nắm muối vừng, nước uống tính từng giọt, không nói gì đến chuyện rửa tay, rửa mặt.
Các mế già, các cụ phụ lão, các em thiếu nhi tới tấp đi xem triển lãm chiến lợi phẩm, ríu rít nói cười:
- Hoan hô, hoan hô các con, các chú bộ đội đánh lớn, thắng to, sướng cái bụng mế lắm lố. Cần Tây, mày chết thôi, mày chạy đằng trời. Chẳng lâu nữa, mày phải trả lại núi rừng cho dân bản thôi.
Sau vài ba ngày, trung đoàn lại cất quân, tiếp tục lên đường làm nhiệm vụ mới.
Còn nhân dân các xã hai bên Đường sổ 4 cũng kéo ra gần đường, dọc theo suối Bông Lau, thu chiến lợi phẩm còn lại đủ các loại, tiếp tục đến hai ba tháng liền, những thứ này còn đầy ắp trong các xe mà quân ta đã cho lao xuống vực...
Tôi nhớ sau trận đánh được dăm ngày, có một số cán bộ xưởng quân giới của Bộ Tổng tham mưu do đồng chí Đoàn Đà dẫn đến gặp tôi. Các đồng chí nói:
- Nghe tin trung đoàn diệt nhiều xe quá, chúng tôi đang rất cần nhiều thứ trong đầu máy ô tô và xe tăng địch.
Tôi kêu lên:
- Chết cha! chúng tôi cho xuống khe tiệt. Còn lại thì đốt. Uổng quá.
Nghe vậy các đồng chí sững người: “Ôi! Tiếc quá đấy!” Sau đó tôi phải cử một tiểu đội dẫn đường đưa các đồng chí tới khu vực Bông Lau. Các đồng chí quân giới cùng với anh em bộ đội đã mày mò tìm kiếm và tháo gỡ được rất nhiều máy móc, khí tài có ích cho xưởng.
Chỉ độ nửa tháng sau, chúng tôi lại tổ chức đánh một trận diệt 27 xe ở Bản Nằm. Một trận vận động phục kích với lối đánh rất nhanh gọn và cũng khá táo bạo.
Nhưng táo bạo và quyết liệt gay go lại là trận Bố Củng - Lũng Vài tiếp theo đó nửa tháng sau trận này, chúng tôi hoàn toàn bị lộ. Địch chủ động ngay từ lúc đầu, mang quân đến tiến công trước. Khoảng 10 giờ sáng, hai chiếc máy bay Hen-cát đến quần đảo mấy vòng rỗi bắn xối xả 12,7 ly vào đỉnh núi đá, chỗ sở chỉ huy trung đoàn. Cùng lúc đó, địch dùng một tiểu đoàn vây phía sau chặn đường quân ta rút qua sông về Hội Hoan. Còn một tiểu đoàn sục sạo vào sâu hai bên đường, chúng cắt dây điện thoại khiến tôi không liên lạc được với Tiểu đoàn 249 của Bắc Quân có nhiệm vụ chặn đầu và Tiểu đoàn 251 của Nguyễn Hữu An bố trí khoá đuôi đề phòng có bọn Na Sầm tiếp cứu. Máy bay vừa đi khỏi, bọn tiểu đoàn Bắc Phi của giặc nã “Bô-pho” (đại bác liên thanh) liên tục lên đài chỉ huy. Đây là một trận địch đánh khá quyết liệt, dữ dội. Tôi phải lựa chiều bổ nhào của máy bay để bám vào các gò đá mà ẩn nấp, tránh né. Cối và đại liên chúng nã xối xả. Một kỷ niệm đau đớn không bao giờ tôi quên được là trong lúc tôi và mấy cán bộ chiến sĩ liên lạc là Ngọc Am, Thành, Dưỡng, Sinh loay hoay ẩn nấp, bỗng có tiếng lẹt xẹt rất gần biết là đạn cối rơi tới, tôi vừa nằm rạp xuống thì cùng lúc một tiếng hét: “Cối nổ! chỉ huy” đồng thời chiến sĩ Dưỡng nằm đè ấp lên người tôi. Bao nhiêu mảnh đạn đã gắn lên lưng và đầu anh. Và anh đã hy sinh trong tư thế lấy thân mình che chở cho người chỉ huy. Còn tôi, vụn đá và mấy mảnh đạn nhỏ bắn vào đầu. Máu chảy cả xuống mặt. Phía dưới, tên chỉ huy địch đang hò hét thúc bọn Âu Phi tiến lên. Nhưng núi đá dựng đứng, tuy phía trên chúng tôi không bắn xuống mà chúng cũng không dám mò lên. Khi súng nổ, đại đội trưởng Phạm Như Lai từ chân núi phía sau đã cho bộ đội xung phong ứng cứu kịp thời cho sở chỉ huy, khiến bọn chúng phải rút chạy. Hướng tiểu đoàn 251, địch sục rất sâu, nhưng tiểu đoàn trưởng An ra lệnh cho các đại đội cố gắng tránh địch, rút sâu nữa. Anh bảo:
- Bấn cùng lắm đụng địch thì hãy đánh. Còn cố được hãy giữ bí mật đến cùng. Đây là lệnh của Trung đoàn trưởng.
Quả nhiên địch lùng mãi không chạm ta nên quay ra. Chúng quây và bắn phá tới 4 giờ chiều không thấy ta phản ứng gì. Cả quả núi đá nơi đặt sở chỉ huy vết đạn phá nứt nẻ trắng lốp, trông như một hòn núi đá vôi. Chắc có lẽ chúng tưởng ta đã rút bỏ trận địa còn trên núi đá nhúm người ít ỏi đã bị tiêu diệt. Tên chỉ huy báo về Na Sầm: “La route est ouverte”(8).
Còn chúng tôi! Chúng tôi biết chắc chắn không bao giờ một đoàn công - voa vận chuyển nào ngủ đêm lại Na Sầm cả. Ở đó, đồn nhỏ, địa hình không bảo đảm. Chúng rất sợ bị tập kích ban đêm. Sống chết thế nào chúng cũng phải vượt 30 km đến Thất Khê, tiểu khu vững chãi an toàn hơn. Điểm đáng ngại nhất là khu vực Bố Củng - Lũng Vài thì chúng đã dùng cả phi cơ lẫn binh lực quần thảo gần trọn ngày rồi Việt Minh chắc chắn đã bỏ chạy. Cái bệnh chủ quan kinh niên của bọn xâm lược viễn chinh Pháp là vậy. Nhận tín hiệu “Đường đã mở” đoàn xe rời Na Sầm vào lúc xế chiều.
Đoàn xe đầy ắp hàng hoá rầm rộ, tiến vào trận địa qua làng Lũng Vài. Như một con rắn khổng lồ bằng sắt thép đoàn xe mở tốc lực lao theo hướng Đèo Khách, Thất Khê. Theo giả định thứ tư đã ghi trong kế hoạch, các đơn vị tự động từ các hốc đá khe rừng áp sát lề đường. Từ đài chỉ huy, đã phát lệnh nổ súng cho toàn trận địa: bắn lên trời ba phát pháo hiệu đỏ và một tràng đạn lửa.
Tín hiệu vừa phát lên, tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ rền vang. Tiếp theo là tiếng xung phong vang dội cả một góc rừng.
Một trận đánh thật đáng nghi nhớ. Chúng tôi từ thế bị lộ nhưng nhờ vào sự gan lì và ý thức kỷ luật, sự nhất trí cao từ trung đoàn đến tiểu đoàn, đại đội cho tới chiến sĩ mà chúng tôi đã lại tạo được thế bất ngờ và thắng một trận tuyệt đẹp. Trận đánh có nhiều điểm bất ngờ, nhưng những bất ngờ xảy ra đều đã có trong các giả định và biện pháp đối phó của kế hoạch đã bàn kỹ trước khi đánh. Ta đã diệt gọn 26 xe, một tiểu đoàn đi hộ tống. Ta thương vong 10 cán bộ, chiến sĩ. Đây là trận chúng tôi thu được nhiều trung liên nhất: 26 khẩu loại đầu bạc còn mới toanh. Thú vị nhất là anh em hò nhau tháo bằng được chiếc nòng pháo khẩu Bô-pho, vượt sông vượt rừng mang về triển lãm ở Hội Hoan. Cái nòng pháo Bô-pho ấy là một chứng minh về thế thắng của quân và dân Đường số 4, là sự phơi bày bộ mặt bi thảm của giặc. Trận này đánh xong thì trời tối. Tiểu đoàn trưởng An phát hiện ra một sự lạ. Quái! Sao xác giặc chết ít thế. Vậy bọn chúng biến đi đâu? Anh nêu ngay, anh bảo với đại đội trưởng trợ chiến Chu Ngọc:
- Chúng nó còn trốn quanh trong rừng, dưới khe hoặc rúc vào cống rãnh dưới đường thôi. Cậu biết tiếng Pháp gọi hàng đi.
Chu Ngọc dẫn hơn chục tay súng vừa theo dọc đường vừa gọi oang oang:
- Chúng tôi biết các anh trốn ở đâu rồi. Lên hàng ngay.
Hễ gọi một lần không nghe động tĩnh gì liền ném luôn lựu đạn và hô tiếp:
- Không hàng sẽ bị tiêu diệt hết!
Theo thường lệ, sau trận đánh, tôi và một số anh em xuống đường thị sát. Đang đi thì, quả nhiên, từ trong khe núi, một tốp địch hai tay cầm súng giơ ngang đầu, kéo ra. Đi trước là tên quan hai Bút-xăng-duy cao kều, theo sau là bốn tên người An-giê-ri, mặt mũi lem luốc, trông vừa thảm hại vừa rất nực cười. Một tên hạ sĩ quan hấp tấp nói: “Chúng tôi biết chính sách của các ông rồi, không giết tù binh, hành binh. Chính tôi đã bị bắt một lần và đã được phóng thích hôm lễ duyệt binh ở Kéo Coong”.
Việc đầu tiên là nhanh chóng tước vũ khí bọn chúng.
Tôi quay nhìn cạnh đấy thì thấy Phạm Như Lai, Đại đội trưởng Đại đội 186 và Thiên Xạ, Đại đôi trưởng Đại đội công binh đang loay hoay bên cạnh khẩu Bô-pho. Tôi liền bảo: “Hãy huy động bọn hàng binh này vào tháo khẩu súng ấy”.
Chúng đã ngoan ngoãn giúp hai anh Như Lai và Thiện Xạ tháo xong khẩu đại bác liên thanh và sau đó khênh vác cái nòng súng lịch sử về đất Hội Hoan. Cùng lúc ấy, ở đoạn trận địa phía Nam, gần làng Bản Vạc. Đại đội trưởng Đại đội 185, Dương Thế Nghiệp, trong lúc đang kêu gọi tàn binh Pháp thì bị một băng đạn từ trong rừng bắn ra. Anh ngã xuống và hy sinh tại chỗ. Chúng tôi vô cùng thương tiếc anh, một đại đội trưởng còn rất trẻ và tài năng của trung đoàn.
Thắng trận Bố Củng - Lũng Vài lẩn này nữa coi như chúng tôi đã khai tử con Đường số 4 từ Na Sầm lên Cao Bằng, đoạn quan trọng nhất của cái cuống họng nối từ Lạng Sơn đến chiếc dạ dày Cao Bằng, nơi mà chúng ngốn người, lương thực, thực phẩm, súng ống, khí tài, đạn được như một cái thùng không đáy. Chúng đành phải dùng đường hàng không để tiếp tế cho Cao Bằng, và chỉ còn dám đi lại bằng đường bộ ở chặng ngắn ngủi từ Na Sầm - Đổng Đăng - Lạng Sơn nữa mà thôi.
Toàn bộ con đường dài 340 km tuy còn ngắc ngoải phía dưới, nhưng coi như Đường số 4 đã chết. Cuộc đọ sức vật lộn giữa ta và địch suốt hai năm trời đã ngã ngũ. Với địch, con đường đẫm máu, con đường chết chóc, nay đã rõ rệt con đường thất bại chua cay. Nó đã chết hẳn nửa người và đang rẫy chết hoàn toàn. Với chúng tôi, Trung đoàn 174 đã có thể hát vang bản hùng ca chiến tháng vì lẽ trung đoàn đã cùng nhân dân Cao - Bắc - Lạng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của Bộ Tổng tư lệnh đề ra: “Quyết chặt đứt Đường số 4”.
Chú thích:
(1) Les Việt prennent absolument les initiatives des opérations sur la RC4 - (3) Dangereux
(2) Anh Chu Huy Mân hồi hoạt động bí mật ở Quàng Ngãi phải già danh là người bán kẹo lạc, nên cũng lấy bí danh là Lạc. Trong chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ có nhiều cống hiến được phong Đại tướng. Ủy viên Bộ Chính trị. Chù nhiệm Tổng cục chính trị. Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước.
(3) Tháng 5 - 1990 nhân dịp sang công tác Việt Nam, xét công lao và sự cống hiến trong chiến tranh, cũng như 30 năm trong hoà bình Nhà nước Xã hội chù nghĩa Việt Nam đã tặng thưởng anh Iwai hai huân chương: Huân chương Chiến công hạng nhất, Huân chương Chiến thắng hạng hai.
(4) Anh Lê Hoàn, hồi ấy là đại đội trưởng, sau là tiểu đoàn trưởng, rồi trung đoàn trưởng, sư đoàn trưởng, quân khu phó. Anh là một cán hộ kiên cường, dày dạn, liên tục chiến đấu trên các chiến trường Bắc, Nam, Lào, Cam-pu-chia.
(5) Anh Nguyễn Hữu An lúc ấy là quyền tiểu đoàn trưởng sau này làm trung đoàn trưởng trung đoàn 174 thay tôi, đã phát huy dược truyền thống chiến dấu cùa trung đoàn, lập được nhiều chiến công. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, làm quân đoàn trưởng quân đoàn 2, một mũi đánh vào Sài Gòn, nay là Thượng tướng Quân dội nhân dân Việt Nam, có lúc làm Phó tổng thanh tra quân đội, có lúc là Tư lệnh quân khu 2. Hiệu trưởng Học viện quân sự Đà Lạt.
(6) Sécuritê absolue - route est ouverte - ordre du départ
(7) Mosuqueton, pas peur: súng trường, không sợ
(8) Đường đã mở.