← Quay lại trang sách

Chương thứ ba THAM DỰ CHIẾN DỊCH BIÊN GIỚI THU ĐÔNG 1950- - -CHUẨN BỊ VÀO CUỘC CHIẾN

Sau khi đánh tan hai vạn quân Tàu Tưởng, toàn Trung đoàn 174 chúng tôi tập trung tại Nước Hai. Cũng giống như Thất Khê của Lạng Sơn, Nước Hai là vựa lúa của tỉnh Cao Bằng, cũng là nơi trù phú, đất giàu, người đẹp.

Nước Hai là thị trấn huyện lỵ huyện Hoà An cách thị xã Cao Bằng chừng 16 km, có dãy phố dài là Cao Bình. Tuy là một phố phường của tỉnh miền núi xa xôi nhưng khá đông vui, nhà ngói, tường vôi như dưới xuôi, lỗ chỗ một vài cửa hiệu giàu có xây hai tầng hẳn hoi. Chợ liền trong phố ngày nào cũng họp nên càng đông đúc. Từ ngày giặc chiếm Cao Bằng, dân ở thị xã tản cư đến sinh sống khiến Cao Bình - Nước Hai thành điểm hội tụ của nhân dân miền xuôi và dân bản địa. Những người một lòng một dạ đi theo kháng chiến, theo chính phủ Cụ Hồ, thề không cộng tác chung sống với giặc Pháp và chính quyền bù nhìn ngụy tặc. Bộ đội ta sau mỗi lần, mỗi đợt đi chiến đấu trên Đường số 4 hoặc tiến công cứ điểm nào đó, rút về nghỉ ngơi đều thích tạt ngang vào cái thị trấn phù trú này. Vài năm trước, hồi 1948, 1949, địch còn đôi lần tung quân càn quét quanh vùng và đánh nống ra hoặc dùng máy bay tiêm kích bắn phá. Nhưng nhịp điệu kháng chiến mạnh dần, địch có xu hướng co cụm quanh tụ điểm Cao Bằng nên phố Cao Bình và Nước Hai càng đông vui nhộn nhịp hơn. Bà con tản cư đã bắt đầu bàn tán gần ngày trở về nơi ở cũ. Tuy cách địch có trên 12 km, nằm trong tầm pháo lớn của địch, nhưng cuộc sống ở đây diễn ra trong không khí của một vùng tự do, đất thánh kháng chiến.

Trung đoàn chọn một cánh đồng ruộng dưới chân dãy núi đá vùng Lam Sơn. Dãy núi này có nhiều hang động hiểm trở. Các cơ quan Dân, Chính, Đảng tinh Cao Bằng sơ tán về làm việc ở đây từ đầu cuộc chiến tranh. Chỉ sau vài ngày, bộ đội đã san thành một bãi đất rộng, dựng khán đài. Cũng đủ cả loa phóng thanh, đèn điện đàng hoàng. Canh giữ máy bay địch đã có đơn vị cao xạ gồm toàn trọng liên 12,7 bố trí trên sườn núi. Trung đoàn 174 chúng tôi chính thức làm lễ thành lập. Nhân dân quanh vùng Nước Hai, Hoà An nô nức đến dự ngày ra mắt đứa con dày dạn chiến đấu của mặt trận Cao - Bắc - Lạng, đến để mừng đứa con đang độ trưởng thành sắp bước vào cuộc chiến quyết liệt. Một cục diện mới đang mở ra bước phát triển mạnh mẽ, đẩy nhanh tốc độ cuộc trường kỳ kháng chiến mau tới đích vinh quang. Ngày lễ thành lập biến thành ngày đoàn kết quân dân. Cùng với các đồng chí lãnh đạo Dân, Chính, Đảng tỉnh Cao Bằng, các đại biểu của hai tỉnh Lạng Sơn, Bắc Cạn (ngày ấy Bắc Cạn chưa sáp nhập với Thái Nguyên thành tỉnh Bắc Thái như ngày nay) cũng về dự. Trung đoàn 174 quả xứng đáng là con em của nhân dân Cao - Bắc - Lạng. Không kể thành tích của từng đơn vị trước khi sáp nhập vốn đã có độ dày chiến công ; từ lúc được lệnh tập trung thành trung đoàn giành nhiều thắng lợi mới. Quét sạch hai vạn quân Tưởng khỏi biên giới, chặn đứng âm mưu móc nối giữa chúng với Pháp ; chỉ mấy tháng đầu, trung đoàn đã đánh cho giặc Pháp, những đòn chí tử liên tiếp: Bông Lau -Lũng Phầy, Bố Củng - Lũng Vài, Bản Nằm. Mỗi trận là một thắng lợi vang dội và cuối cùng đã chặt đứt con Đường số 4, cát đứt cái huyết mạch quan trọng của chúng, từ Lạng Sơn đến Cao Bằng đẩy địch vào thảm cảnh phải tính toán cho số phận Cao Bằng. Cái số phận bỏ thì tiếc, ở không xong, vô cùng lúng túng.

Cùng với lễ thành lập, chúng tôi còn tổ chức triển lãm. Nhân dân nô nức tới xem như ngày hội. Những chàng lính trẻ của trung đoàn sau một tháng trời quần nhau với bọn Tàu Tưởng nom hốc hác, mệt nhọc. Ấy thế mà chỉ ít ngày nghỉ ngơi lại được vui hội mừng công với nhân dân, đều trở lại tươi tỉnh ra dáng. Bước chân diễu hành, nét mặt nghiêm trang của họ, khi diễu qua khán đài, đầy vẻ tự hào với khí thế của đoàn quân chiến thắng. Hôm đó, anh Mân và tôi được Trưởng ban quân nhu Hoàng Lương Bình cấp cho mỗi người một bộ cánh bằng vải kaki mới toanh, mặc vào sột soạt cứng đơ đơ. Anh em cứ trêu: “Chỉ huy trung đoàn lên khung oách ghê!”. Có mấy cậu vốn từng là dân ăn diện ở thành phố trước kia, còn vừa làm động tác vừa bảo chúng tôi: “ấy ấy thế này mới đúng dáng”. Từ thuở vào bộ đội tới giờ, chúng tôi cứ tuềnh toàng có gì mặc ấy, đánh nhau hoài, đã bao giờ dự lễ lạt long trọng đâu mà chẳng ngượng nghịu với quần áo mới.

Sau lễ thành lập trung đoàn, bộ đội vui liên hoan với nhân dân, xem triển lãm, xem văn công và nghỉ ngơi. Nhiều cậu “bạt” phố Cao Bình, thưởng thức món quà đặc sản của tỉnh nhà như phở xá xíu vịt, bánh áp chảo, họ chao (loại bánh hình quai vạc trong suốt nom rõ cả nhân tôm, chấm với nước chẻo), hút thuốc lá Cô-táp, I-gơn, hoặc mua sắm bánh xà phòng Sang-gai, chiếc mùi xoa vừa với túi tiền anh bộ đội Cụ Hồ. Trong lúc đó, anh Mân và tôi cùng Đảng ủy trung đoàn vùi đầu bàn bạc với nhau về nhiệm vụ của trung đoàn trước tình hình mới. Từ lâu nay đánh phục kích, vận động phục kích hoặc chống càn, nghĩa là đánh địch khi chúng thoát ly ngoài công sự, cứ điểm, hầu như là sở trường, điểm mạnh của trung đoàn. Nay tình hình đã biến chuyển, con Đường số 4 hoàn toàn tê liệt, kẻ địch cũng không còn hung hăng dám tổ chức những trận càn, hoặc thọc ra vùng tự do hòng phá hoại ta hay mở rộng phạm vi chiếm đóng nữa. Chúng tôi phải tìm địch mà đánh chứ. Phải làm sao tiêu diệt sinh lực địch chứ. Vậy chỉ có cách đánh vào nơi chúng chiếm cứ. Phải công kiên vào cứ điểm giặc. Vậy chọn cứ điểm nào để thử sức trận đầu. Đã đánh là phải thắng. Một trận phục kích không thành công, bộ đội chỉ việc rút lui vào rừng là an toàn, còn đánh cứ điểm, nơi địch phòng thủ, chúng đã căn sẵn vùng ngoại vi cho pháo của chúng, rồi còn máy bay, rồi còn bọn cơ động ứng chiến từ cứ điểm lớn đến tiếp cứu. Nếu trận đánh dây dưa ắt thương vong, thiệt hại nhiều. Bàn bạc mãi chúng tôi đều nghĩ: Dầu khó cũng phải đánh xem sao. Sinh ra bộ đội là để đánh giặc. Không lẽ giặc không ra khỏi công sự, mình đành thôi sao.

Phải chọn lấy một điểm nào vừa sức, đánh một trận rút kinh nghiệm mới được. Trước mắt, trung đoàn mở một đợt luyện quân ngay tại vùng Cao Bình. Chiến sĩ học kỹ thuật cá nhân chiến đấu thật thuần thục, nhất là kỹ thuật đánh bộc phá, lối đánh lợi hại, thay cho dùng pháo phá rào, mở đột phá khẩu. Còn cán bộ lo nghiên cứu chiến thuật công kiên rối vấn đề hiệp đồng bộ binh, pháo binh, đánh điểm diệt viện v.v...

Công việc vừa bát đẩu triển khai thì tôi bị một cơn sốt kịch liệt sau một tháng liền đánh bọn Tàu Tưởng, liên miên cơ động, sức khoẻ của tôi bị sút. Anh Mân mấy lần giục phải nghỉ an dưỡng để lấy lại sức, tôi cứ nấn ná từ chối. Sau cơn sốt, lần này anh Mân cương quyết hơn:

- Ông phải nghỉ, phải tĩnh dưỡng một tháng, không có sức khoẻ không đáp ứng được nhiệm vụ Thu Đông năm nay đâu.

- Nhưng trung đoàn đang thời kỳ luyện tập.

- Không nhưng gì cả, việc trung đoàn, bọn mình lo, không sao hết.

Sau đó anh Mân và Đảng ủy trung đoàn quyết định giao tôi cho đồng chí y tá và đồng chí liên lạc Thành. Nhóm ba người chúng tôi phải về vùng Hoà An cách Nước Hai khoảng 3 km, nơi đó yên tĩnh, cảnh đẹp, khí hậu rất tốt cho người dưỡng bệnh.

Chúng tôi đến bản Thắc Thuý, Đức Long, gia đình đón nhận chúng tôi chính là nhà mế Nình, bà nội anh Bằng Giang đang là Tư lệnh khu 10.

Bà của anh Bằng Giang và vợ anh vốn từng nuôi nấng, chăm lo anh đi làm cách mạng từ hổi bí mật, nên rất hiểu và rất thương cán bộ, bộ đội. Mế bảo tôi:

- Trên giao cho mế nuôi mày, giúp mày khỏi đau ốm, mày chưa khoẻ, chưa béo tốt, mế không cho mày đi đâu vớ!

Sáng ở nhà chị Bằng Giang, bên cạnh liên lạc viên Thành, y tá Đàm, tôi lại nhớ những ngày ở Bình Gia, trong Ban Quân y Trung đoàn 28.

Ban Quân y lúc đó có anh Mậu Trưởng ban, bác sĩ Huy, anh Sĩ Quốc và tôi là Quân y sĩ và một số nam nữ y tá như chị Kim Chi, chị Thanh Diệp, chị Vân, chị Hồng Vi, chị Thiện, anh Mạnh Lục, anh Bội... Ngày ngày làm việc chăm sóc thương bệnh binh, tận tụy, thân vui như trong một gia đình.

Năm ngày có một phiên chợ. Ngày phiên chợ đối với chúng tôi là những ngày hội. Hết giờ là chúng tôi rảo xuống phố. Đồng tiền trong túi ít ỏi nhưng không bao giờ cảm thấy thiếu thốn. Quít Bình Gia, mía xương gà Đồng Mỏ, bánh bột nếp rán, phở chua thịt vịt...là những hoa quả và món ăn dân tộc mà chúng tôi rất ưa thích.

Tôi cũng nhớ đến bé Quốc Dưỡng, chú bé tù binh của Đường số 4 trong trận Bông Lau, tháng 10-1947. Sau trận đánh, bé Dưỡng được đưa về hậu phương, Ban Quân y Trung đoàn tình nguyện nuôi cháu. Vài năm sau, Dưỡng được ông bà Lê Duy Để, hồi ấy là Trưởng ty Công chính tỉnh Lạng Sơn, xin về làm con nuôi, đổi tên cho là Lê Quốc Dũng.

Gần đây, đến tìm thăm bác Để ở số nhà 22 đường Quan Thánh Hà Nội. Bác đã trên 80 tuổi, còn Quốc Dũng thì nay đã là một người đứng tuổi, râu quai nón, một vợ hai con. Anh đã là công nhân ở nhà máy Trung quy mô trên 20 năm, nay được nghỉ theo chế độ, mở thêm cửa hàng giải khát để hỗ trợ cho kinh tế gia đình. Bác Để cho tôi biết bố của Dưỡng trước là một kỹ sư mỏ người Bỉ, làm hợp đồng với chính quyền Pháp ở Đông Dương. Trong chuyến ông đi theo đoàn công-voa ở Bông Lau, một viên đạn lạc đã trượt qua gót chân Dũng rồi xuyên vào ngực của bố. Mẹ Dũng là người Việt, hiện chưa biết tung tích. Tôi cảm thấy yên tâm về số phận người tù binh bé bỏng của Đường 4 năm xưa. Mong sao anh Dũng có dịp về thăm quê bố, gặp những bà con ruột thịt mà chưa bao giờ anh được thấy mặt.

Chỉ mới hơn một tuần tôi đã sốt ruột vô cùng. Quả thật ở đây, hàng ngày liên lạc Thành và y tá Đàm ra chợ, vào bản mua thức ăn, lại thêm bà mế và chị Bằng Giang hỗ trợ vào việc nấu nướng nên tôi được hưởng những bữa cơm rất ngon miệng, sức khoẻ hổi phục mau chóng. Nhưng đã quen cuộc sống xô bồ, bận rộn với anh em, đơn vị, tôi khó thích ứng với cảnh sống nhàn nhã, ngày ngày dạo xem phong cảnh, ăn cơm, tiêm thuốc, ngủ sớm. Vắng lặng quá, êm đềm quá, ấm cúng quá trong lúc cả trung đoàn đang lao vào tập luyện. Mình nghĩ ngồi thế này, gánh nặng đơn vị dồn cả vào anh Mân. Mà công việc của chính ủy đâu có nhẹ nhàng, nào công tác Đảng, công tác chính trị, tổ chức lại các mối liên hệ với dân chính đảng địa phương.

Tôi bảo với y tá Đàm:

- Mình khoẻ rồi, ta về thôi, ở đây buồn có khi ốm lại mất.

Cả y tá Đàm và liên lạc Thành vốn trẻ, hai cậu cũng ngán ngẩm với việc nghỉ ngơi, cũng muốn trở lại đơn vị lắm, nhưng y tá Đàm lắc đầu:

- Cụ Mân kỷ luật em mất. Chính ủy giao cho một tháng mà mới chưa hết 10 ngày.

Tôi dỗ:

- Tội vạ tớ chịu hết. Đừng lo!

Thế là chúng tôi từ giã bà mế và chị Bằng Giang. Mế giữ mãi không được đành lắc đầu:

- Chúng mày giống nhau quá mà, thằng Cơ (tên cũ của anh Bằng Giang) cũng vậy à! Về nhà được vài ngày đã lại muốn đi rồi, hây í à! Bao giờ hết sạch thằng Tây chúng mày mới hết đòi đi à!

Tôi cười:

- Đánh hết Tây con về bản ở ăn hết gạo, hết gà, mế đuổi con cũng không đi đâu.

Ba chúng tôi rong ruổi trở về chuyện trò rôm rả suốt dọc đường rừng. Thấy chúng tôi, anh Mân chỉ tủm tỉm cười:

- Mình đã tính chỉ độ mười lăm ngày là ông chuồn về. Vậy mà lại quá mức, chưa hết 10 ngày, bậy thật!.

Nói xong anh dứ dứ ngón tay với y tá:

- Không làm trọn nhiệm vụ. Ông Việt mà lại ốm, cậu đừng trách tôi nghe.

Vào đầu năm 1950 này cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta bước sang năm thứ tư. Đây cũng là buổi mở đầu của bước ngoặt chiến tranh cứu nước. Ta đã bước vào giành thế chủ động, buộc địch lâm vào tình trạng tính toán, rất bị động lúng túng. Cái gọi là quân khu biên thùy Cao - Bắc - Lạng của quan năm Công -xtăng rất bấp bênh, chao đảo như con tàu trong bão tố. Con đường số 4 sau trận Bố Củng - Lũng Vài lần thứ 4 của Trung đoàn 174 chúng tôi hồi tháng 9 năm 1949 đã như con rắn bị nện gẫy gấp. Địch chỉ còn dám đi những chuyến nhỏ từ Lạng Sơn đến Na Sầm. Việc tiếp tế cho Cao Bằng hoàn toàn phải dùng đường hàng không, vô cùng tốn kém, trong lúc Chính phủ Pháp phải ngửa tay xin viện trợ Mỹ để duy trì cuộc chiến tranh vô vọng. Suốt giải biên giới, thế liên minh kìm kẹp của Tưởng và Pháp đã tan ra mây khói. Từ sau tháng 10 năm 1949, tình thế đã hoàn toàn đảo ngược. Địch rút Bắc Cạn rồi ; Cao Bằng nằm trong cảnh bấp bênh cũng luôn bị uy hiếp. Các nhà chiến lược của quân đội viễn chinh Pháp chia làm hai phái cãi nhau kịch liệt, mong tìm một giải pháp thoát khỏi nỗi bế tắc mà không xong.

A-léc-xăng-đri Tư lệnh Bắc Bộ và Sác-tông Chỉ huy trưởng Cao Bằng vốn là những tên thực dân cáo già, sống lâu năm ở Đông Dương, chủ trương giữ Cao Bằng án ngữ đầu mối giao thông quan trọng, chống sự mở thông biên giới của ta, ngăn chận sự vận chuyển tiếp tế quy mô cơ giới hoá từ phía Trung Quốc sang.

Ngược lại, Các-păng-chi-ê Tổng chỉ huy Đông Dương và Công-xtăng chỉ huy quân khu biên thùy lại muốn rút Cao Bằng để bảo toàn lực lượng nhưng sẽ tiến công chiếm đóng Thái Nguyên tạo ra điểm chốt giữ trước cửa ngõ đồng bằng Bắc Bộ.

Cả hai đều phải đưa hết lý lẽ để chứng minh tài thao lược của mình, nêu rõ chỗ mạnh tối ưu của phương án mình đề ra, và bới móc những điểm yếu của bên đối lập. Khốn nỗi tình thế bị động chiến lược thì phương án nào mà chẳng gặp phải khó khăn, sơ hở, và yếu kém. Chiếm giữ đất thì thiếu quân cơ động, mà ngược lại muốn đẩy mạnh sức cơ động thì lấy quân đâu mà tập trung co cụm khỏi bị dàn mỏng. Đã không còn đủ sức để chiếm đóng ngăn giữ trên một địa bàn rộng lớn mà phải bàn tính đến cách đóng giữ một điểm mà chặn được nhiều hướng, nhiều cửa ngõ xâm nhập xuống đồng bằng Bắc Bộ thì làm gì có điểm nào đắc địa, lợi thế!

Cao ủy Pi-nhông cũng lúng túng giữa hai ý kiến trái ngược nhau của hai tướng Các-păng-chi-ê và A-léc-xăng-đri. Cuối cùng con lắc Pi-nhông có phần nghiêng về Các-păng-chi-ê nên viên tướng này dùng đến quyền hành bảo với A-léc-xăng-đri:

- Tôi là tổng chỉ huy toàn cõi Đông Dương. Anh chỉ có việc tuân lệnh. Hãy thi hành lệnh của tôi.

A-léc-xăng-đri cứng đầu, cáo ốm xin nghi phép về Pháp với ý đồ tìm cách biện bạch với những người có trách nhiệm trong Chính phủ Pháp. Việc không thành, A-léc-xăng-đri nằm lì, nhưng cuối cùng, theo quân lệnh, vẫn phải mò sang nhận nhiệm vụ chỉ huy Bắc Bộ trong bối cảnh bùng nhùng, ảm đạm.

Sau này, khi Sác-tông, Chỉ huy trưởng phân khu Cao Bằng và đồng bọn bị bắt sống, anh Văn cho gọi Sac-tông đến để trực tiếp thẩm vấn. Anh hỏi:

- Anh nghĩ gì việc quân đội Việt Nam có thể tấn công Cao Bằng?

- Thưa ngài, không bao giờ tôi nghĩ rằng quân của các ngài dám tấn công Cao Bằng, vì đó là pháo đài kiên cố nhất trên toàn cõi Đông Dương. Để lấy Cao Bằng, tôi e chừng ngài phải mất ít nhất một tháng, thua thiệt 10000 quân, tức là toàn bộ lực lượng tinh nhuệ của ngài.

- Vậy tại sao anh rút bỏ Cao Bằng?

- Đấy là mệnh lệnh, thưa ngài, tôi phải tuân lệnh

- Anh nghĩ gì về việc Cao Bằng thất thủ?

Sac-tông xoè hai bàn tay lông lá đưa lên ngang vai, bực bội và thất vọng:

- Thưa ngài, bỏ Cao Bằng tức là bỏ ngỏ biên giới. Ngày nào ngài còn phải chuyên chở lương thực vũ khí trên lưng người, lưng ngựa, ngày đó còn chiến tranh du kích nhỏ. Nhưng một khi những chiếc Mô-lô-tô-va của các ngài chạy được đến cửa ngõ đồng bằng Bắc Bộ thì ôi thôi, lúc đó sẽ là chiến tranh lớn thật sự.

Thất bại của chiến tranh Đông Dương đã bắt đầu hình thành. Dù A-léc-xăng-đri và Sac-tông là những tên chỉ huy cáo già, có bản lĩnh hơn cả trong số bọn tướng tá thực dân hồi bấy giờ, nhất định chúng cũng phải cam chịu thất bại.

Cũng vào đầu năm 1950, kể từ sau chiến thắng Thu Đông 1947, tiếp tới những trận thắng giòn giã trên Đường số 4 và những trận thắng lợi ở phố Ràng, Phủ Thông, Nà Phạc, Đường số 3, Đường số 5 v.v. bộ đội ta đã lớn mạnh nhiều.

Năm 1947, mới chỉ có một số ít trung đoàn tập trung, còn phần lớn là những tiểu đoàn và đại đội độc lập. Bước vào năm 1950, ta đã có Đại đoàn 308 ở Việt Bắc và Đại đoàn 304 ở khu 4. Bộ cũng đang dậm dạp một số đại đoàn tiếp theo nữa. Trung đoàn mặt trận Cao - Bắc - Lạng 174 chúng tôi cũng đã nằm trong dự kiến đội hình Đại đoàn 316.

Để đẩy mạnh cuộc kháng chiến lên một bước mới nhằm tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, Thường vụ Trung ương Đảng và Bác Hồ quyết định giao cho Bộ Tổng Tư lệnh mở chiến dịch tiến công biên giới vào mùa khô Thu Đông 1950.

Ngày 25 tháng 7, Ban thường vụ Trung ương ra nghị quyết thành lập Đảng ủy mặt trận biên giới gồm các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh, Hoàng Văn Thái, Lê Liêm, Bùi Quang Tạo do đồng chí Võ Nguyên Giáp làm Bí thư. Dạo ấy, Trung đoàn 174 chúng tôi đang luyện tập kỹ thuật, chiến thuật ở vùng Trùng Khánh (Cao Bằng) với khí thế sẵn sàng tham dự chiến dịch Thu Đông. Tuy chưa biết ở hướng chiến trường nào nhưng cán bộ và chiến sĩ đều mang chung một ý nghĩ: Thu Đông này ta sẽ đánh lớn.

Ngày 30 tháng 7, tôi được lệnh triệu tập đến sở chỉ huy tiền phương của Bộ Tổng Tham mưu họp. Địa điểm này ở dưới chân dãy núi đá vùng Quảng Uyên. Trên chọn chỗ này thật quả là đắc địa. Từ đây có đường ra Cao Bằng, có lối xuống Đông Khê.

Lui về hậu phương có đường qua Nước Hai, về Bắc Cạn ; đi ngả Trùng Khánh đến Phục Hoà thông được sang bên kia biên giới.

Đến nơi họp, ngoài các đống chí trên Bộ, tôi được gặp lại nhiều đồng chí quen biết qua những lần phối hợp chiến đấu trên trục Đường số 4 năm ngoái. Anh Vương Thừa Vũ và các anh Thái Dũng, Vũ Yên, Vũ Lăng, Hồng Sơn của Đại đoàn 308. Anh Lê Trọng Tấn Trung đoàn độc lập 209, anh Doãn Tuế ở pháo binh...

Anh Hoàng Văn Thái phổ biến mục đích của chiến dịch tiến công biên giới Thu Đông năm này nhằm:

- Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch.

- Giải phóng một phần biên giới, mở đường giao thông với các nước xã hội chủ nghĩa.

- Mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc.

Sau đó, anh đưa dự kiến kế hoạch tác chiến sẽ lấy Cao Bằng làm mục tiêu số 1, thứ đến Đông Khê rồi Thất Khê. Giải phóng được Cao Bằng, ta mở thông đường với toàn phe xã hội chủ nghĩa, tạo, ra nhiều thuận lợi cho công cuộc kháng chiến. Khi mọi người nắm được sơ đồ, vị trí và tình hình địch rồi, anh Thái giao nhiệm vụ để các cán bộ về tổ chức, trinh sát nghiên cứu chiến trường, báo cáo về Bộ. Lúc đó sẽ quyết định cuối cùng về kế hoạch phương án tác chiến cụ thể cho từng đơn vị.

Trước lúc ra về, anh Thái nói với tôi:

- Nếu đánh Cao Bằng, trung đoàn của cậu sẽ là mũi chủ công đấy.

Tôi về kể lại mọi chuyện với anh Mân, anh gật gù:

- Trên đã tin tưởng, là làm cho tốt. - Anh lại nói thêm: - Ông Việt này, giá trên cho ta đánh cái Đông Khê, ngon ăn hơn.

Tôi rất hợp ý với chính ủy vì hồi tháng 5 vừa qua, trung đoàn chúng tôi đã tiêu diệt nhanh gọn Đông Khê, giết tên đồn trưởng Ca-ga-nô-va ngay từ loạt đạn pháo đầu tiên. Đây cũng là lần đầu tiên Trung đoàn 174 chúng tôi đánh công kiên vào một cụm cứ điểm tương đối rắn, do toàn bọn Lê dương (3e REI) chiếm giữ. Dạo ấy sau khi tôi an dưỡng ở bản Thắc Thủy về, huấn luyện xong bộ đội, chúng tôi thực hiện nghị quyết của Đảng ủy: “Tìm địch mà đánh. Nó đóng trong đồn thì ta công kiên một trận rút kinh nghiệm”.

Anh Mân bàn với tôi:

- Ta nghiên cứu tình hình cái Đông Khê coi!

Chúng tôi bàn với các cán bộ tham mưu và tiểu đoàn. Anh em hăng hái hưởng ứng. Thế là tôi tổ chức đi trinh sát thực địa, nghiên cứu cách đánh. Chúng tôi tập kết ở xã Vân Trình, nhà cụ Việt An, cách Đông Khê 10 km.

Cụ Việt An sau này là Chủ tịch Ủy ban huyện Đông Khê, có con là Nguyễn Văn Khoa, hiện nay là Bí thư huyện ủy Đông Khê.

Ngày ấy có bộ phận tiền phương của Bộ Tổng tham mưu ở gần kề với trung đoàn do anh Phan Phác, quyền Tổng tham mưu phó phụ trách. Tôi gặp anh đề xuất ý kiến và xin được đánh Đông Khê sau khi đã trinh sát nghiên cứu kỹ. Anh Phan Phác đồng ý và bảo sẽ báo cáo về Bộ. Thế là chúng tôi đánh.

Nhớ lại trận đó, hôm trung đoàn chiếm lĩnh trận địa, trời đố mưa to, suối ngập đầy, bộ đội hành quân rất khó khăn, anh Mân với tôi phải leo lên một mỏm núi đá. Chúng tôi đặt sở chỉ huy trên đó, trước cả trận địa pháo 75, cách phố Đông Khê chừng 300 m. Mưa như xối, vách đá dựng đứng lại rất trơn, chỉ vô ý một chút là lăn xuống chân núi như chơi. Từ trên đỉnh núi, chúng tôi quan sát được toàn cảnh thị trấn Đông Khê, nhìn rõ cả pháo đài, sở chỉ huy địch. Bọn Lê dương nhốn nháo đi lại, đứa chặt cây, đứa bổ củi, hò hét nhau nhặng xị.

Đúng 5 giờ sáng ngày 25 tháng 5, tôi hạ lệnh công kích. Hai khẩu pháo bố trí ở dãy núi Yên Ngựa bắn vào Cạm Phầy. Theo kế hoạch, chúng tôi định áp đảo ngay từ phút đầu tiên, chiếm lấy Cạm Phầy vì đồn này ở trên núi cao, chiếm được nó không khác gì chúng ta ngồi lên đầu cả phân khu Đông Khê. Thế nhưng, đây là lần đầu tiên, trung đoàn đánh hiệp đồng bộ pháo, mà pháo ngày đó bắn còn kém. Đạn pháo cứ nổ lưng chừng núi, không phát nào trúng đồn cả. Trong khi đó, địch phản pháo dữ dội, tiểu đoàn trưởng Kha và một số pháo thủ của ta hy sinh sau một loạt đại bác 75 ly bắn thẳng của địch ; xung kích của Tiểu đoàn 257 không sao tiếp cận được, đã hết nửa cơ số đạn mà đột phá khẩu chưa mở được. Tôi và anh Mân bàn tính: “Tình hình này không ổn, địch có thể còn gọi phi cơ yểm trợ nếu chúng tổ chức phản xung phong thi sao. Cần phải dừng lại, củng cố đã”.

Chúng tôi cho lệnh tạm ngừng. Các đơn vị giấu quân, đảm bảo an toàn, chống phi pháo địch. Vận chuyển tiếp tế gấp cho trận địa pháo 100 viên nữa. Tối nay đánh tiếp. Cả ngày hôm ấy chúng tôi bị máy bay địch từ Hà nội lên liên tiếp thả bom và bắn phá. Từ sở chỉ huy nhìn lên các mỏm núi đá phía Bắc và Đông Bắc, trước đây xanh rì nay phờ phạc trắng xoá, như những quả núi vôi. Nhưng tất cả bộ đội đều thoải mái nghi ngơi trong các hang sâu. Trong đồn chính của giặc có nhiều tiếng cưa xẻ và đóng đinh. Địch cũng không dám đánh ra, chỉ dùng phi pháo nã liên hồi, hết đợt này tới đợt khác. Sau này, khi đã chiến thắng, chúng tôi mới vỡ lẽ: tên quan ba Ca-ga-nô-va chỉ huy trưởng đã bị giết ngay từ phát đầu của ta. Tiếng đóng đinh, chính là chúng làm quan tài cho tên chỉ huy xấu số. Đây cũng là sự bối rối của chúng suốt ngày hôm đó. Buổi chiều, đúng lúc sẩm tối, khi bốn chiếc Hen-cát cuối cùng chỉ còn là những chấm đen ở chân trời hướng về Hà Nội, tôi hạ lệnh nổ súng. Qua một ngày bàn bạc tính toán, pháo ta bắn rất tốt. Chúng tôi chiếm Cạm Phầy và như từ trên nóc nhà đánh thọc xuống chiếm khu pháo đài, trung tâm chỉ huy thông tin và hoả lực của địch và như thế chẻ tre, toả xuống phố chiếm đốn, khu nhà thương Phủ Thiện, giành thắng lợi ngay trong đêm ấy. Sáng sớm ngày 27 tháng 5, tôi và anh Mân ung dung từ sở chỉ huy trên núi xuổng, vào thăm thị trấn Đông Khê còn ngổn ngang kho tàng để xác địch.

Trận ấy trung đoàn chúng tôi có một khuyết điểm là không có kế hoạch đánh bọn viện binh nhảy dù đến chiếm lại đồn, vả lại cũng nghĩ: “Nó có chiếm lại cũng phải dăm bữa nửa tháng”. Ai dè đối với địch, Đông Khê là một tiểu khu quan trọng, lá chắn của Cao Bằng, nên chúng vội vàng cho quân nhảy dù chiếm lại ngay ngày hôm sau. Còn chúng tôi thì đã cho đơn vị rút, chỉ còn lại một bộ phận nhỏ cùng dân công thu dọn chiến trường. Khi địch nhảy dù chiếm lại, các tiểu đoàn của chúng tôi đang trên đường hành quân về hậu cứ khó tính chuyện quay lại. Cả trung đoàn cứ tiếc mãi. Nhưng có lẽ sự ấu trĩ của chúng tôi đã tạo ra cho địch thói chủ quan. Chúng lầm tưởng thất thủ Đông Khê lần đó là do sự rủi ro đem lại cái chết của tên Ca-ga-nô-va, chi huy cụm cứ điểm nên ảnh hưởng tới cục điện chiến đấu ; ta đánh xong, vội rút bỏ, hẳn là cũng bị tổn thất nặng. Mọi suy luận đó đã dẫn tới việc giặc tuy có tăng cường bố phòng Đông Khê mạnh hơn, nhưng vẫn chủ quan và không hề biết gì tới số phận của nó là mục tiêu lựa chọn của ta trong chiến dịch Biên giới sắp tới.

Hôm đó, đồn Đông Khê ngổn ngang xác giặc, nhà cửa, công sự đổ nát tan tành. Hoạ sĩ của trung đoàn, anh “Sĩ Tốt” đặt giá vẽ trên pháo đài, đang say sưa ghi lại vài nét làm lưu niệm chiến thắng. Bỗng có tiếng máy bay, bom đạn đổ như xối, quân dù nhảy xuống pháo đài. Một tên rơi cạnh ngay giá vẽ. Tên giặc đang loay hoay gỡ giây dù, “Sĩ Tốt” một tay cầm bút lông, một tay vớ thanh củi xông tới đánh vào đầu nó. Rồi cướp luôn khẩu tiểu liên, lia một băng, tên giặc chết liền. Sau đó, anh lủi xuống chân pháo đài và thoát khỏi vòng vây của địch.

Bên cạnh những hành động anh hùng của các dũng sĩ trong trung đoàn cũng xảy ra một vài vụ vi phạm kỷ luật chiến trường: anh chàng T.S. khi vào sâu trong hầm của pháo đài, trước cảnh rượu vang, sâm banh ngổn ngang trên một cái bàn, không tự kiềm chế được, anh nốc liền mấy chai, say đến mức khi địch nhảy dù lên đầu, anh đã mềm như bún, nên bị bắt làm tù binh. Mãi đến 1954, anh mới được trao trả.

Tôi còn nhớ sau hôm thắng trận Đông Khê, tôi được lệnh về ngay Bộ để báo cáo cụ thể trận đánh. Đến nơi tôi được trực tiếp gặp anh Văn. Anh hỏi rất tỉ mỉ về sử dụng binh lực, bố trí các mũi và quá trình diễn biến trận đánh. Hỏi xong, anh cười cười khen:

- Cậu đánh tốt đấy! Chiến thuật khá, thương vong ít. Nói xong anh dặn thêm: “Từ nay đánh đâu phải xin ý kiến cụ thể của Bộ đã ; nhớ đấy!”

Đến bây giờ tôi mới hiểu. Thì ra trên đã có ý đồ về một chiến dịch lớn mùa khô năm ấy, cũng đã nhằm đến hướng của chiến trường chính sẽ là Cao - Bắc - Lạng. Việc đánh Đông Khê của trung đoàn tôi tuy thắng lợi giòn giã nhưng cũng tạo cho địch sự đề phòng, củng cố hệ thống đồn bốt chúng rắn chắc hơn. Hoặc có thể khiến địch phán đoán được ý đồ của ta chăng? Một trận công kiên tập dượt chăng?

Hôm ấy tôi được anh Hoàng Văn Thái tiếp. Anh rất vui bảo tôi:

- Từ ngày cậu rời phòng tác chiến xuống Đường số 4 làm ăn khá. Nhân hôm nay về, sang nhà ăn cơm với mình.

Nhà anh là một căn nhà tre, mái cọ ở khoảng đồi gần ngay chỗ làm việc của Bộ Tổng tham mưu. Chị Loan thịt một con gà, anh chịu nuôi tăng gia. Rau có sẵn ở vườn. Bữa cơm thân mật này tôi nhớ mãi. Anh hỏi tôi về tình hình đơn vị và nói cho tôi rõ tình hình chung của bộ đội ta ở các chiến trường từ Bắc vào Nam. Tôi nhớ mãi câu anh nói:

- Cuộc kháng chiến ngày càng có nhiều triển vọng. Ta lớn dần và địch yếu rõ rệt, Pháp thua thôi, phải thua thôi!

Đức tin và niềm vui của hai anh đã truyền sang tôi một sức mạnh kỳ lạ. Tôi trở về đơn vị với một tinh thần phấn chấn, lòng lự nhủ lòng: “Cố gắng đánh mấy trận thật đậm, Trung đoàn 174 phải góp hết sức mình vào cuộc chiến tranh đang trên đà thắng lợi!”.

Hôm đi trinh sát Cao Bằng, tôi tổ chức một bộ phận gọn nhẹ tới một mỏm đồi hướng Bắc. Ở đây có thể quan sát toàn cảnh địa thế của thị xã mà đầu năm 1948, tên Cao ủy Bô-la đến thị sát đã từng thốt lên:

- Ôi! không khi nào và không bao giờ người Pháp chúng ta rời bỏ cái thành phố xinh đẹp này.

Thị xã Cao Bằng có 3000 dân, nó là nơi đặt sở chỉ huy của trung đoàn Lê dương thứ 3 và sở chỉ huy của tiểu đoàn bộ binh An-giê-ri và tiểu đoàn ngụy.

Sông Hiến và sông Bằng quây bọc lấy thị xã khiến nó như một bán đảo nhỏ. Muốn vào thị xã phải qua hai chiếc cầu, địch đặt bốt gác kiểm soát gắt gao. Pháo đài Cao Bằng nhô cao trên đồi biến thành một điểm quan trọng, quan sát cả thị xã. Một pháo đài được xây dựng kiên cố ngay từ thời Pháp thuộc, giờ địch củng cố thêm, xây dựng hầm sâu dưới mặt đất 7 m. Dưới đó chúng có kho đạn, kho lương thực, trạm xá, phòng ăn, phòng ngủ, theo kiểu chiến luỹ Ma-gi-nô thu nhỏ có thể độc lập chống bao vây hàng tháng không cẩn tiếp tế. Vòng quanh chắn thành là một đường đá rộng xe tăng và xe thiết giáp có thể chạy lùng sục không cho đối phương tiếp cận hoặc bắc thang leo lên pháo đài.

Quanh Cao Bằng là đổi trọc cỏ gianh lúp súp, tạo thuận lợi cho pháo binh, không quân yểm trợ ; ta tiếp cận được phải rất khó khăn. Cao Bằng có một sân bay ở hướng Nam. Chúng bố trí một vòng đai bảo vệ gồm 15 vị trí. Từ trên cao nhìn xuống thấy rõ đây là một cụm cứ điểm khá vững chắc và lợi hại. Sác -tông cho Cao Bằng là một pháo đài kiên cố bậc nhất toàn Đông Dương hồi bấy giờ. Khi đoàn nghiên cứu chiến trường của 174 chúng tôi về sở chỉ huy tiền phương của Bộ báo cáo, thì các đoàn khác cũng lục tục kéo về. Sau này gặp lại anh Cao Pha vốn lả Trưởng phòng của Bộ ngày ấy, tôi mới biết đích thân anh Văn đã cùng anh Cao Pha, Lâm Kính, Hiếu Kính(1) cũng tổ chức một mũi đi khảo sát thực địa Cao Bằng. Nói chung ai cũng thấy đây là một điểm cứng. Cứng vì sự bố phòng của địch và sự trắc trở của hai con sông.

Trước một quyết định quan trọng, liên quan đến sinh mệnh hàng vạn con người và đến vận mệnh quốc gia, đồng chí Tổng tư lệnh, kiêm Tổng chỉ huy chiến dịch, trực tiếp thị sát chiến trường. Anh ngồi rất lâu trên một mỏm đồi gianh phía Đông Bắc thị xã, rồi ống nhòm quan sát địa hình và các công trình bố phòng của địch. Anh quay lại nói với các cán bộ tuỳ tùng:

- Cao Bằng khó đánh, phải xem lại chủ trương, phải xin quyết định mới của Bác.

Vài hôm sau, một cuộc họp lịch sử đã diễn ra ở sở Chỉ huy tiền phương. Cuộc họp có Bác Hồ, anh Văn và đồng chí T.C. là cố vấn do Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc cử sang giúp ta sau khi lục địa Trung Hoa được hoàn toàn giải phóng.

Bác Hồ chủ trì cuộc họp dịch cho đồng chí T.C. nghe những lời trình bày của anh Văn. Bác và đồng chí T.C. tán thành phương án mới do anh Văn đề ra. Mấy hôm sau, chúng tôi nhận được quyết định cuối cùng của Bộ Tổng tư lệnh. Anh Thái phổ biến kế hoạch cụ thể cho tôi.

- Điểm của chiến dịch là Đông Khê, đánh Đông Khê có nhiều lợi thế hơn đánh Cao Bằng vì Cao Bằng điểm cứng, khó giải quyết được nhanh, đột phá dây dưa, bộ đội ta dễ bị hứng đạn của phi pháo dịch, dù có giải quyết được, thương vong cũng sẽ lớn.

Đông Khê cũng là một cụm cứ điểm nhưng không to rộng và cứng như Cao Bằng. Địa hình bao quanh là rừng rậm, núi cao, giúp ta dẫn quân tiến nhập trận địa dễ hơn. Đông Khê là cái yết hầu bảo đảm cho Cao Bằng.

Đánh vào Đông Khê buộc địch phải cứu viện, sẽ tạo cho ta thời cơ tiêu diệt bọn viện binh. Đánh địch trong lúc đang vận động ngoài công sự, dễ dàng, thuận lợi hơn. Một khi viện binh bị tiêu diệt, sẽ gây ra nỗi kinh hoàng cho bọn cố thủ trong cứ điểm. Chắc chắn ta dễ thắng to.

Anh Thái bảo trên sẽ điều cho Trung đoàn 174 chúng tôi thêm Tiểu đoàn 246 (Liên khu Việt Bắc), Tiểu đoàn 11 của Đại đoàn 308, sáu khẩu sơn pháo 75, bốn khẩu ĐKZ57. Chúng tôi có nhiệm vụ làm chủ công tiến công vào Đông Khê ở hướng Bắc và Đông Bắc. Ở hướng Tây Nam và Tây, Trung đoàn 209 của anh Lê Trọng Tấn có tiểu đoàn pháo 178 phối thuộc, đánh thốc lên. Trung đoàn pháo binh bố trí 14 khẩu ở trận địa phía Đông do tiểu đoàn trưởng Doãn Tuế trực tiếp chỉ huy.

Đại đoàn 308 vừa là tổng dự bị cho Đông Khê vừa có nhiệm vụ diệt viện theo kế hoạch đánh điểm diệt viện. Anh Thái sẽ là chỉ huy trưởng mặt trận Đông Khê. Anh Lê Trọng Tấn là chỉ huy phó. Tôi vội vã tổ chức trinh sát Đông Khê rồi quay về trung đoàn cùng anh Mân bàn bạc kế hoạch tác chiến. Anh Mân nói vui:

- Té ra chúng mình cầu được ước thấy thật.

Tôi kể lại cụ thể tình hình Đông Khê. Chúng đã có một số thay đổi ở chỗ pháo đài trung tâm chỉ huy, trên quả đồi hình quả táo ở hướng Bắc, chúng cho chặt trụi cây cối không để ta có chỗ ẩn nấp mà tiến sát bám đầu cầu, chúng còn đánh bậc tam cấp để hạn chế tốc độ vượt quãng trống của bộ đội ta. Rõ ràng lẩn trước bị tiến công từ hướng này nên chúng đề phòng kỹ lưỡng lắm.

Tôi tâm sự:

- Ta làm chủ công đánh Đông Khê là ngon ăn hơn Cao Bằng rồi, giá trên cho ta đánh từ hướng Nam lên chắc dễ ăn hơn. Vì mở đường chính ở đây, địch dễ bị bất ngờ. Chúng dồn sức vào hướng Bắc cả, ta chuyển từ phía Nam lên diệt Pò Đình, Pò Hầu xong sẽ đột phá thẳng vào pháo đài rồi từ phía sau lưng này ta đánh thẳng tới, chắc chắn phát triển được xuống thị trấn.

Anh Mân gật gù, điềm đạm bảo tôi:

- Dù sao trung đoàn ta đã một lần đánh Đông Khê hướng Bắc khó nhưng ta vẫn quen hơn đơn vị bạn. Hơn nữa ở hướng Bắc, ta cũng có cái lợi về địa thế, một khi chiếm được Cạm Phầy là ta đánh từ trên cao xuống, lại dễ bố trí pháo yểm trợ. Phía Nam tạo được thế bất ngờ nhưng phải qua khu phố đảo ngược lên, cũng có cái khó trong quá trình vận động chiến đấu dưới tầm pháo địch. Tính toán sao thì cũng chỉ có hai hướng. Ta khó đã có 209 phát triển thọc lưng ắt địch không đương nổi từ hai phía đâu. Các anh ở trên chắc cũng đã tính toán kỹ theo từng sở trường của từng đơn vị rổi.

Chú thích:

(1) Anh Hiếu Kính tức Nguyễn Văn Hiếu