← Quay lại trang sách

Chương thứ hai (2) ĐÁNH QUÂN TÀU TƯỞNG TRÀN QUA BIÊN GIỚI

Từ khi thành lập Trung đoàn 174, chúng tôi chưa có dịp nào làm lễ chính thức thành lập để ra mắt nhân dân Cao - Bắc - Lạng. Sau trận Bông Lau - Lũng Phầy lần thứ 3 thắng lợi giòn giã, trung đoàn tiếp tục uy hiếp Đường số 4. Chúng tôi đánh tiếp trận Bố Củng - Lũng Vài lần thứ 4 và trận Bản Nằm lần thứ 3. Với ba trận thắng liên tiếp, chúng tôi đã chặt đứt hẳn Đường số 4, đoạn từ Na Sầm ngược lên Cao Bằng, địch không dám đi nữa mà phải vận chuyển bằng đường hàng không. Trung đoàn hổ hởi, về tập trung ở Nước Hai với ý định tổ chức làm lễ thành lập và mở một đợt rèn cán chỉnh quân, luyện tập kỹ thuật, chiến thuật, nhất là chiến thuật đánh công kiên để nhận nhiệm vụ mới.

Vừa chân ướt chân ráo tập kết các đơn vị, bỗng nhận được tin: Bọn tàn quân Tưởng thuộc đạo quân Bạch Sùng Hy ở bên kia bị đánh đuổi mạnh, sẽ tràn sang bên ta, bàng nhiều ngả đường biên giới rất đông.

Tôi thầm nghĩ: Chà! Bộ Tổng chỉ huy dự đoán thật chính xác, phải chặn ngay cái dịch tàn quân này mới được.

Đảng ủy và Ban chỉ huy trung đoàn họp bàn ngay phương án tác chiến. Toàn trung đoàn tổ chức thành hai lực lượng đánh địch, ở hai hướng chủ yếu, do anh Mân và trung đoàn phó Đoàn Trần Phong chỉ huy, gồm Tiểu đoàn 249 và 250 cùng đại đội trợ chiến, đại đội pháo binh, thêm một đại đội địa phương Cao Bằng bố trí chặn định ở vùng cửa khẩu Hà Quảng.

Tôi hành quân gấp xuống vùng Đông Khê với Tiểu đoàn 251, lấy thêm một đại đội địa phương của Phục Hoà và đại đội của Đông Khê. Trên Quân khu chi viện thêm cho một tiểu đoàn, ở hướng này, tôi có hai nhiệm vụ: Bố trí đón lõng tại Bông Lau - Lũng Phầy. Nếu địch tràn vào Hà Quảng, vượt được vào Cao Bằng rồi theo Đường số 4 chạy xuống Đông Khê, tôi sẽ chặn đánh bật lại, không để chúng nối được liên lạc với Pháp, thông đường xuống Lạng Sơn. Nếu một bộ phận nào của chúng vượt sang ta từ cửa khẩu Phục Hoà, để theo Đường số 4, nhập với quân Pháp ở Đông Khê, cũng không thể không qua Bông Lau - Lũng Phầy. Do đó, điểm phục kích ở đây sẽ đón nhận địch ở cả hai ngả đường.

Công việc rất khẩn trương, gấp gáp. Bộ đội hành quân lên đường ngay. Ngày 8 tháng 1 năm 1950, địch tràn vào cửa khẩu Sóc Giang - Nà Giàng thuộc Hà Quảng. Chúng có độ 2 vạn tên của Sư đoàn 18 và 19 thuộc Quân đoàn 17 do tên tướng Mã Hắc Mâu chỉ huy, định nối tiếp bước của đạo quân Bạch Sùng Hy đã bỏ chạy ra biển, vượt sang Đài Loan trước. Bọn còn lại này, toan sang ta dựa vào quân Pháp, xuống vùng Quảng Ninh để ra biển qua quần đảo Đài Loan. Đi theo chúng còn có cả những tên Việt Nam Quốc dân đảng, quân của Nguyễn Hải Thần, lưu vong bấy lâu vẫn nương náu ở vùng Quảng Đông - Quảng Tây, hy vọng có ngày trở về nước phục thù.

Mười ngày ròng rã, anh Mân và anh Phong đã chỉ huy lực lượng ở hướng này đánh chặn địch rất quyết liệt. Cả hai Tiểu đoàn 247 và 250 đánh mạnh ở Nà Giàng - Cốc Sâm, địch không thể vượt nổi để thọc xuống Mỏ Sắt - Nước Hai - Cao Bằng. Từ trên triền núi đá, bộ đội ta nã đạn vào đội hình địch. Dù đông đặc, chúng cũng phải oằn lại vì chết quá nhiều, bỏ cả hàng trăm lừa ngựa và thây chết, tại ngang hướng trái phía Nậm Nhũng - Lục Khu để tràn vào Trà Lĩnh. Thế là Tiểu đoàn 5 phải cấp tốc hành quân tới đèo Mã Phục, để chặn chúng trên đoạn Trà Lĩnh về Cao Bằng, còn Tiểu đoàn 9 gấp rút bôn tập đến Quảng Uyên, chận đánh ở đèo Canh Phác. Cứ như thế, lực lượng của ta đã ít lại phải chia nhiều mũi nhỏ, tổ chức tuyến ngăn chặn trước đường chạy của một đội quân đông đảo, ùn ùn như kiến, đang nháo nhào trốn chạy. Một đội quân kỳ lạ, mất hết nhuệ khí, mang vác, gánh gồng lủng củng, lúc nhúc, dài dặc, cả người lẫn ngựa, lại cả những tên lính hầu mang đủ lệ bộ bàn đèn thuốc phiện cho các ngài sĩ quan hút ro ro mỗi khi chúng dừng chân nấu nướng. Hễ bị đánh chặn lại, chúng vừa chống cự vừa quay quả lộn ngang, tạt ngửa sang hướng khác, rùng rùng kéo chạy.

Đã vậy mà tới đâu, chúng cũng đàn những tờ bố cáo to tướng dưới có dấu hiệu hẳn hoi: “Đại quân Trung Hoa chỉ mượn đường của An-nam dân quốc vượt biển”, “Đại quân không làm hại gì người An-nam. Nếu chống cự cản trở đường tiến của đại quân, sẽ bị trừng trị”. Đúng là bọn tàn quân hổ lốn mà vẫn sĩ diện, mang khẩu khí nặng mùi Đại Hán kẻ cả. Thực tế chúng đã “bố cáo” một đường, làm một nẻo.

Phía dưới Bông Lau - Lũng Phầy, chúng tôi đợi mãi không có địch mà tin chiến sự trên vùng Hà Quảng bay về dồn dập. Tôi nóng lòng quá, rồi lại nghe tin địch chạy lộn về vùng Quảng Uyên. Anh Mân phải lệnh cho hai tiểu đoàn, có trong tay, chia làm hai ngả chặn địch. Địch đông, ta ít, tuy loại giặc này không liều lĩnh, thiện chiến như bọn Lê dương, nhưng chúng đông đặc, nên bộ đội ta đón chặn rất vất vả. Tôi hội ý với cán bộ tham mưu và tiểu đoàn nhận định tình hình: Bọn chúng không tràn nổi xuống phía dưới này, ta phải mau chóng lên phối hợp với lực lượng anh Mân, diệt chúng ở vùng Quảng Uyên thôi.

Mọi người đổng ý ngay. Cũng vừa lúc ấy tôi nhận được tin, anh Đoàn Trần Phong, Trung đoàn phó, đã hy sinh. Tôi lặng người thương tiếc. Hình ảnh anh, một cán bộ trung đoàn trẻ trung, xốc vác, vào trận là bám sát đơn vị, cứ như đang cười, đang nói trong trí óc tôi. Mới hôm nào, khi chia tay thành hai lực lượng, Đoàn Trần Phong còn nói rất vui:

- Đánh xong bọn Tàu Tưởng, trung đoàn ta làm lễ thành lập càng đẹp. Mở đầu chiến công, có cả đánh Pháp, cả đánh Tàu, thắng tất, mới thú.

Còn tôi hôm đó, tôi tự nghĩ thẩm, lực lượng phía trên có anh Mân, chín chắn điềm đạm, với anh Phong, năng nổ xốc vác, cặp đôi nhau rất hay. Nghĩ rồi tôi còn nói đùa với Phong:

- Ông đi có chính ủy, chứ mình đơn phương độc mã, muốn phát ghen với ông đấy.

Ấy thế mà chưa đầy một tháng trời ai hay, buổi chia tay đó lại là lần vĩnh biệt. Suốt mấy năm, chúng tôi vùng vẫy trên Đường số 4, bọn Lê dương sừng sỏ, không làm sứt mẻ nổi một cán bộ tiểu đoàn của chúng tôi, vậy mà cái bọn tàn quân, chạy trốn, ô hợp, hỗn mang kia, lại hạ sát mất của chúng tôi một cán bộ trung đoàn đẩy triển vọng. Âm hưởng của những câu thơ khóc bạn của Hoàng Lộc, bên Đường số 4 cứ ngân thầm trong trí tôi những lời da diết:

Hôm qua còn theo Anh,

Đi ra dường quốc lộ

Hôm nay đã chặt cành

Đắp cho người dưới mộ

Đứa nào đã giết Anh...

Toàn đơn vị được lệnh, mở cuộc hành quân bôn tập, quay lên vùng Quảng Uyên gấp. Sau này tôi được biết tỉ mỉ sự hy sinh của anh Đoàn Trần Phong, lại càng thương tiếc. Trong trận chặn đánh giặc đầu tiên, khi chúng tràn qua cửa khẩu Nà Giàng, anh Phong đã đứng ngay cùng với khẩu đội của trợ chiến bố trí ở sườn núi, đoạn Nà Giang - Cốc Sâm, địch quá đông, khẩu đội bắn liên tục, hết quả này tới quả khác, rủi thay, trong số đạn, đã bị lẫn một viên đạn “tự sát”. Đây là loại đạn của Nhật. Chúng thường dùng để phòng khi đối phương xung phong mạnh, không chống cự nổi, khẩu đội đó sẽ không rút chạy mà chờ khi quân đối phương ào lên, chúng sẽ nạp quả đạn “tự sát” đó, lập tức đạn nổ ngay tại nòng, vừa phá hủy súng, vừa giết luôn cả địch lẫn những pháo thủ của khẩu đội. Bộ đội ta hồi đó thường dùng súng và đạn của cả Pháp lẫn Nhật. Anh em không để ý tới ký hiệu ghi tính năng, tác dụng loại đạn như vậy. Do đó, quả đạn hôm ấy đã nổ ngay trong nòng, anh Phong và một số đồng chí pháo thủ hy sinh. Thật đau lòng, các anh chết trong lúc ta đang ở thế áp đảo, nã vào đội hình chạy dài của địch.

Anh em đã đưa anh Phong về phía sau, y tá Mền và chiến sĩ Huầy xúc động kể lại:

- Chi huy Phong chết thật rồi không hy vọng cứu chữa nữa. Chúng em cáng về phía sau, đưa vào bản Pụi. Phong tục ở đây không cho người chết vào nhà đâu, sợ con ma làm khổ, không làm ăn gì được, ốm đau cả nhà thôi.

Chúng em phải nói dối: Bộ đội này là chỉ huy, chỉ bị thương thôi mà. Chờ vài ngày có ông bác sĩ đến chữa, khỏi ngay thôi. Thế là chúng em đặt chỉ huy nằm ở giường buông màn. Chúng em nấu cháo, nấu nước, phải giả vờ bưng cháo đưa vào trong màn, phải nói như nói với người ốm đấy. Chỉ huy cố ăn cháo cho ấm bụng, ăn được thì vết thương mau lành vớ. Lúc bưng cháo ra, ông Ké chủ nhà hỏi: ăn được nhiều không? Em lắc đầu: chỉ huy ăn có chút xíu thôi mà. Ông Ké người Nùng lắc đầu: không nên đâu. Bảo ông chỉ huy cố ăn nhiều mới mau khỏi vớ!

Mãi đến hôm sau, anh Mân chính ủy mới về. Rồi trung đoàn mới làm lễ truy điệu đồng chí Phong. Thương quá. Căm ghét bọn Tàu Tưởng quá. Nó chạy sang gieo cái khổ, cái chết cho ta như thế đấy.

Tôi bùi ngùi xúc động, thầm lấy làm tiếc không được viếng anh Phong vĩnh biệt anh lần cuối.

Bỏ điểm phục kích dưới Đông Khê, chúng tôi cấp tốc ngược lên Quảng Uyên rất đúng lúc. Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 9 đang chặn bọn chúng ồ ạt tràn vào Canh Phác. Thế là cả trung đoàn nhập lại thành một lực lượng đánh địch trên một tuyến dài. Tiếng súng nổ rền. Chúng tôi chiếm lĩnh điểm cao theo triền núi đá, cứ như thế quét chúng dưới dọc rừng, đường đất liên tục suốt ngày.

Địch chết đến hàng ngàn tên. Chúng lại quày quả thụt lại, chuyển hướng ngược lên mạn Hạ Lang, sau đó men dọc biên giới tới Cách Linh tìm cách tràn sang. Lại bị chặn đứng, chúng lại quay lộn xuống Thủy Khẩu đối diện với Tà Lùng, Phục Hoà của ta. Tôi điều luôn Tiểu đoàn 251 bố trí chặn chúng không cho ùn sang ngả Đông Khê.

Cứ như thế, trung đoàn bám chặt địch. Còn địch như một đàn kiến, hễ bị đánh chỗ này quay quả tìm ngả khác để đi. Chúng đông tới mức đầu đoàn quân bị đánh tơi tả mà phía sau vẫn không hay biết, cứ gánh gồng, thúc lừa ngựa tiến lên. Tới khi bị chết nhiều quá lại rùng rùng lộn sang hướng khác. Con đường mòn trong rừng chỉ sau khi chúng đi qua đã rộng ngang ra vì cỏ dại, lau rừng bị xéo bẹp như vò nát. Những chỗ giặc tràn qua để lại mùi hôi thối nổng nặc, thứ mùi của phân ngựa lẫn mùi của một đạo quân bỏ chạy lâu ngày không tắm rửa, không quần áo thay, chỉ độc một bộ quần áo vải bông dày cộm, cáu bẩn mồ hôi, đất cát tạo ra thứ mùi rất kỳ lạ đọng lại trên lá cây ngọn cỏ tưởng chừng buồn nôn được, đúng là một bầy thú dại đi qua. Tới đâu chúng đào, chúng xới, lấy sắn non, khoai non, xục sâu vào hai bên rừng tìm lán thóc gạo của đồng bào cất giấu. Nghĩa là những thứ gì ăn sống nuốt tươi được là chúng ngốn tất.

Từ trên triền cao, đêm tối chúng tôi thấy chúng tủa ra cánh đồng hoặc đồi trọc bắc bếp, nấu cơm. Quang cảnh thật kỳ dị: từng đám lửa, đám lửa đỏ loè, trải rộng, chập chờn khắp cả một vùng.

Trung đoàn chúng tôi đuổi đánh, ngăn chặn bọn này khá vất vả. Chúng hay có lối đánh vu hồi, mỗi khi hai bên tao ngộ, lập tức chúng toả một cánh tìm cách khuýp vòng sau lưng ta. Nếu sơ hở sẽ bị chúng bọc sườn ém lưng tiêu diệt. Nhưng với một đoàn quân rệu rã đến cực độ, trốn chạy lâu ngày, mọi chiến thuật hay đến mấy cũng trở thành mất hiệu nghiệm. Cuối cùng, chúng phải chạy trước sức mạnh và thế đuổi giặc của chúng tôi, dẫu rằng quân số chúng tôi ít hơn địch rất nhiều lần.

Chúng đông tới mức súng máy của chúng tôi bắn đến đỏ nòng, phải chờ nguội mới bắn tiếp được, chỉ có việc dành quân đuổi theo, rồi vượt tắt đón đường trước chặn ngang mà cũng khổ sở. Bộ đội ta mòn rách hết giầy dép. Nhiều người phải xé quần áo buộc vào chân làm giầy để vượt núi đá tai mèo mới kịp chặn đường địch. Rất may mắn cho chúng tôi là được sự giúp đỡ tận tình của nhân dân. Bà con dân bản một mặt chạy người, chạy của vào rừng sâu tránh giặc nhưng mặt khác vẫn tổ chức dân công bám theo bộ đội. Các mẹ, các chị nấu cơm nắm, muối vừng tiếp tế cho chúng tôi. Cứ ngang qua quãng rừng gặp đoàn tiếp tế dân công là mỗi người nhận một nắm cơm, gói thức ăn rồi tiếp tục hành quân đuổi giặc. Lại có nơi nhận được cả quần áo cũ để thay cái đã rách, nhận giầy vải, hài sảo(1) để đi. Quân và dân phối hợp thật là tuyệt diệu, cứ thế bộ đội và nhân dân Cao - Lạng lao vào cuộc săn đuổi bọn tàn quân nhung nhúc dài lê thê này.

Cuối cùng, số phận của chúng cũng được định đoạt. Quân giải phóng Trung Quốc tiến xuống Long Châu đã bắt liên lạc với ta. Bên này, chúng tôi đánh hất chúng lộn về Bình Nghi. Bên đó, quân giải phóng Trung Quốc chặn lại bủa vây tiêu diệt. Chúng buộc phải đầu hàng. Gần 2 vạn tên Tàu Tưởng trên ngực áo in đậm chữ “Cường Quân” đã bị giải giáp. Chín tên gồm Quân đoàn trưởng, Sư đoàn trưởng bị bắt sống. Súng đạn chất đầy ắp như những đống củi rừng. Giống như mọi lần sang giúp bạn, ta trao toàn bộ chiến lợi phẩm để họ trang bị cho quân địa phương.

Miền biên giới Cao - Lạng sạch bóng lũ giặc Tàu vàng, Tàu trắng.

Năm tháng qua đi, ghi lại những dòng hồi tưởng về một thời kỳ rất đa dạng trên chiến trường biên giới phía Bắc, tôi muốn nói lên cái trong sáng vô tư, tinh thần quốc tế vô sản của bộ đội ta, một đội quân chẳng những chỉ chiến đấu mãnh liệt, dũng cảm vì độc lập tự do của Tổ quốc mình, nhân dân mình, mà còn vì cả sự nghiệp cách mạng của bạn bè khi họ còn chung số phận thù trong giặc ngoài, chưa giải phóng được đất nước như ta vậy.

Có lẽ cũng là một vùng chiến trường đặc biệt, một chiến trường duy nhất ở nước ta trong những năm kháng chiến chống Pháp, vừa đánh giặc trong nước, vừa sẵn lòng giúp bạn không kể gian khổ và hy sinh xương máu, xứng đáng với danh hiệu “Bộ đội Cụ Hồ”.

Chú thích:

(1) Dép bện bằng rơm, cỏ.