← Quay lại trang sách

Chương thứ ba (3) BÁC HỒ CÙNG RA TRẬN-BÁC CŨNG CÙNG CHÚNG CHÁU HÀNH QUÂN

Sau trận mở đẩu, chiến dịch bước vào giai đoạn khẩn trương quyết liệt. Thắng lợi giòn giã Đông Khê khiến tinh thần chiến đấu của bộ đội lên cao, dân công cũng hồ hởi. Cả vùng chiến trường Cao Bắc Lạng rầm rộ tiến vào giai đoạn 2 của chiến dịch, ở đâu có bộ đội là ở đấy có ngay đội dân công tải thương, tiếp vận. Có thể nói cả ba tỉnh Cao - Bắc - Lạng cùng ra tiền tuyến. Bộ đội đuổi giặc, dân công đuổi theo bộ đội để tiếp tế cơm nước, đạn được.

Và ở quân đội thì cả Bộ Tổng đều ra trận bám sát tình hình. Anh Cao Pha người đã từng là một cán bộ quân báo theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ lúc khảo sát trận địa tới lúc kết thúc chiến dịch, kể với tôi: lúc chiến dịch đang chuyển sang bước 2 rồi bước 3, dọc đường đoàn thường gặp bà con dân tộc đi dân công tiếp tế. Có nhiều cô gái người Dao đỏ đã biết anh Văn từ hồi ở chiến khu thời còn bí mật. Họ vừa quẩy gạo vừa gọi: “Đồng chí Văn! Đồng chí Văn!” Anh Văn xuống xe “Đốt xít” (Dodge 6). Xe ô-tô nhưng đi rất chậm vì đường hẹp, dân công quá đông. Anh vui vẻ hỏi chuyện. Các cô cười rất vui và bảo: “Chúc đồng chí Văn khoẻ. Đánh trận nhiều vào cho hết Tây đi thôi lố!”

Nhưng có lẽ cái đẹp, cái hùng vĩ nhất mà chỉ có chiến dịch Biên giới mới có. Ấy là Bác Hồ cũng ra mặt trận. Bác đi sát và trực tiếp chỉ đạo từng nước đi, cách bước của các đợt chiến dịch. Bác lên núi đứng trên đài quan sát dõi theo dõi diễn biến trận Đông Khê. Anh Cao Pha kể:

- Sau hôm đi khảo sát trận địa về, anh Văn bảo tôi: “Hai chúng ta đến thăm Bác và báo cáo tình hình cụ thể để xin ý kiến Bác”. Bác ở trong một cái hang dưới chân núi. Đến nơi tôi ngồi ở dưới cái lều và anh Văn lên gặp Bác. Độ một giờ sau, anh Văn quay xuống. Anh rất vui vẻ bảo: “Mình báo cáo xong. Bác rất đồng ý phương án đánh Đông Khê”. Bỗng nhiên anh bảo: “Này! Bác bảo cậu lên gặp Bác đấy!” Tôi sướng quá cứ quýnh cả lên. Anh Văn bảo: “Không được hỏi chuyện Bác nhiều đấy! Bác còn bận nhiều việc lắm đấy. Đi nhanh lên, mình ở dưới này chờ!”.

Tôi lên đến hang thấy Bác ngồi trên một cái sạp tre kê cao sát vách nom ung dung như một ông tiên trong động núi. Tôi cuống lên vì cảm động và sung sướng nói chẳng ra đâu vào đâu: “Báo cáo Bác, cháu chào Bác ạ!”. Bác cười bảo tôi lại gần:

- Chú là Trưởng ban trinh sát ở Tham mưu à?

- Dạ vâng ạ! Tên cháu là Cao Pha.

Bác gật đẩu vẫy tôi đến sát nói nhỏ:

- Này! Chú xem có chỗ nào Bác đến gần mặt trận được không?

- Dạ... Tôi lưỡng lự vì lo đến sức khoẻ và sự an toàn của Bác nên vừa lắc đầu vừa thưa:

- Báo cáo với Bác gay lắm ạ!

Bác cười:

- Chú là trinh sát mà. Cứ tích cực tìm đi. Bác phải ra mặt trận đấy.

Tôi sợ quá đành thưa:

- Dạ! Cháu xin tích cực ạ!

Lúc xuống dưới chân núi gặp anh Văn ở lều, anh hỏi ngay:

- Bác có hỏi gì cậu không?

Tôi nhăn nhó:

- Gay lắm anh ạ! Bác đòi ra mặt trận. Bác muốn tìm một địa điểm quan sát mặt trận. Nguy hiểm cho Bác lắm anh ơi!

Sau đó, chúng tôi bàn bạc với cả anh Hoàng Văn Thái và bố trí đưa Bác lên đài quan sát của một tổ trinh sát tiền tiêu, bảo đảm xa tầm pháo giặc nếu chúng bắn ra vùng ngoại vi Đông Khê.

Mấy hôm sau đó tôi đến đón Bác để đưa đi. Trong đoàn có cả nhà nhiếp ảnh Nguyễn Năng An. Lên đến gần đỉnh núi, phần vì biết Bác tới đâu cũng tìm hiểu nơi ăn chốn ở của bộ đội, phần vì sợ Bác leo núi mệt, lại lo Bác mất nhiều thì giờ, nên tôi đứng chắn chỗ leo vào phía sau lều của anh em và thưa: “Xin Bác đi thẳng lên đài, chỗ sau này không leo được ạ!”.

Bác lên thẳng trên đài ở đỉnh núi. Tôi đứng lại và lên sau. Ai dè cái giây phút lịch sử ấy khi Bác ngồi trên đỉnh núi quan sát trận địa, nhà nhiếp ảnh Nguyễn Năng An đã chụp được bức ảnh kỳ diệu mãi mãi bất tử trong kho tàng truyền thống của lịch sử kháng chiến chống Pháp. Một bức ảnh mà bất kỳ chiến dịch nào kể cả Điện Biên Phủ và chiến thắng lịch sử 1975, cũng không thể có được. Bởi một lẽ duy nhất: chiến dịch Biên giới này, Bác Hồ cũng cùng hành quân ra mặt trận, Bác cũng ra mặt trận với chúng ta. Niềm cổ vũ lớn lao nhất, vinh dự nhất với những ai đã tham dự chiến dịch lịch sử này.

Vừa mới gặp lại anh Trần Minh Tước người Chủ tịch năm xưa của tỉnh Lạng Sơn, nay đã 73 tuổi, nhưng anh vẫn giữ nguyên cái phong cách mà tôi còn nhớ mãi hồi cùng nhau duyệt binh mừng chiến thắng, làm lễ phóng thích tù binh ở bản Đao, vùng Kéo Coong - Bình Gia. Anh vẫn có cách nói hùng biện rắn rỏi, điểm nét hóm hỉnh yêu đời của người lão thành cách mạng. “Hồi chiến dịch Biên giới 1950, mình không còn là Chủ tịch Lạng Sơn, mà là ủy viên khu, sung vào Ban chỉ huy cung cấp bên cạnh Bộ chỉ huy chiến dịch. Sau đợt một, hàng vạn dân công, bộ đội cứ bí mật nằm rừng trong các hang đá. Vấn đề gạo, muối trở nên vô cùng căng thẳng. Ban chỉ huy cung cấp chúng mình do anh Trần Đăng Ninh, anh Bùi Quang Tạo làm Chủ tịch và Phó Chủ tịch, lo tím ruột, tím gan. Thế mà tướng Giáp vẫn bình tĩnh, kiên trì đến ghê sợ. Anh Lê Hoàng cũng là ủy viên như chúng mình (vốn tính nóng như lửa nên anh em thường gọi anh là Hoàng lửa) phát cáu, lớn tiếng kêu lên: “Chiến thuật, chiến lược gì mà cứ án binh bất động nửa tháng rồi, lấy gì mà nuôi quân bây giờ, đến chết đói mà rút lui như Nã Phá Luân đệ nhất thôi”.

Thế rồi, một hôm, từ phòng 2, anh Cao Pha điện báo cáo “Cánh quân Lơ-pa-giơ đang tiến từ Thất Khê lên Đông Khê. Sác-tông cùng toàn bộ lực lượng chiếm đóng Cao Bằng rút lui theo Đường số 4, hẹn hội tụ ở cây số 22”. Thời cơ như ngàn năm có một đã đến. Anh Văn đứng dậy, mỉm cười chỉ tấm bản đồ nói:

“Lệnh cho các đơn vị bắt sống bằng được hai tên Lơ-pa-giơ và Sác-tông, không được bắn chết”.

Trong nháy mắt, quyết tâm của đồng chí chỉ huy tối cao, theo làn sóng điện truyền xuống tận các đơn vị, đến các chiến sĩ, khẩu lệnh động viên đã biến thành một sức mạnh thần kỳ của hàng ngàn vạn cán bộ chiến sĩ: “Bắt sống cho kỳ được Lơ-pa-giơ và Sác-tông”.

Anh Minh Tước nói tiếp:

- Minh có cái vui và vinh dự được chứng kiến cuộc gặp gỡ của Bác Hồ với hai tên này. Ta cho giữ chúng ở hai cái hang đá cách nhau một khoảng ruộng ở vùng Quảng Uyên đất Cao Bằng. Cái thói quen của nhà văn nhà báo cũ đã đưa mình đến hang Lơ-pa-giơ bị giam ở lưng chừng một ngọn núi đá cùng với một tên quan tư thày thuốc, định phỏng vấn một cú. Bỗng có người báo có khách sắp đến. Nhìn ra cửa hang, mình thấy Bác Hồ đang chống gậy tiến vào, đi theo có anh Phan Phác, phái viên mặt trận, Bác đội mũ cứng, đi dép cao su, mặc bộ quần áo ka-ki màu xám. Chiếc khăn mặt trên quai mũ che kín bộ râu. Tay Bác băng bó như người bị thương có lốm đốm vết màu thuốc đỏ méc-quya-crôm, mình vội chào Bác, kéo chiếc ghế mời Bác ngồi. Hai tên thấy thái độ của mình như vậy, tự nhiên chúng cũng đứng dậy rất lễ phép. Bác bắt tay chúng với thái độ lịch sự. Bác nói tiếng Pháp rất chuẩn:

- Ta làm quen với nhau đi. Tôi là cố vấn chính trị của mặt trận.

Bác lấy thuốc lá mời chúng hút, Bác nói tiếp:

- Các anh tuyên truyền cho cuộc chiến tranh Đông Dương coi là một cuộc chiến tranh về lý tưởng (guerre idéologique). Nhưng thực tế là một cuộc chiến tranh xâm lược, chiến tranh ăn cướp...

- Thưa ông chúng tôi chỉ là người lính.

- Không phải, các anh là chỉ huy cấp cao qua bao trường lớp, các anh không phải là người lính bình thường, các anh rất hiểu là các anh đang làm gì ở đất nước Việt Nam này.

Hai tên quan năm lúng túng, im lặng.

Bác hỏi đến gia đình, vợ con và Bác hỏi tiếp:

- Các anh có nguyện vọng gỉ?

- Thưa ông, chúng tôi muốn về với vợ con, về với nước Pháp.

- Hoà bình lập lại, tôi có thể nói chắc chắn nếu không có gì là trở ngại do chính các anh gây nên, hoặc do người của phía các anh gây nên, các anh sẽ đạt được nguyện vọng. Vậy trước mắt các anh cần gì?

- Thưa ông, chúng tôi muốn được đi tắm.

Bác cười, quay lại bảo anh Phan Phác, “lệnh cho bộ phận bảo vệ: cho chúng đi dạo một vòng, và cho ra suối”.

Bác bắt tay, tặng cho hai bao thuốc lá. Hai tên cám ơn rất trân trọng. Không biết chúng có phỏng đoán ông già người dân tộc nói tiếng Pháp thạo như người Pháp, ở trước mặt chúng là ai không.

Trời xế chiều, nhưng Bác lại bảo:

- Chúng ta qua gặp Sác-tông đi.

Thế rối Bác chống gậy rảo bước. Anh Phan Phác vội tiến lên trước đầu đường. Đến hang thấy Sác-tông đang nằm co trên chiếc chõng tre. Thấy đoàn đến, hắn vội đứng dậy. Nó mặc áo hở bụng đang bị băng bó vì vết thương, râu ria xồm xoàm, bốn năm ngày không được cạo.

Bác ngồi ở chiếc ghế cạnh hang. Thái độ của Bác cũng giống như lúc gặp Lơ-pa-giơ. Nhưng tên này cộc cằn, lỗ mãng, lộ nguyên hình một tên Lê dương thuộc địa. Nó nói ngay:

- Tôi đã ngã rồi, định đưa tay hàng, thế mà lính của ông vẫn đâm tôi lủng bụng.

Bác bình tĩnh cười hỏi:

- Ông bị thương ở bụng phải không? Vậy cái băng kia nói lên cái gì? Nếu không có bộ đội Việt Nam băng bó cho ông, liệu ông có còn sống hay không? Tôi chỉ cần nói chừng ấy. Trong chiến trận, nhiều hoàn cảnh phức tạp, không thể nào lường hết được các diễn biến.

Tên Sác-tông lại ta thán:

- Các ông giam tôi vào cái hang đá ẩm thấp, cực khổ thế này, các ông không có trại tù binh à?

Bác nói luôn:

- Chỉ là tạm thời. Đang đánh nhau mà, chiến sự đang diễn biến kia mà!

Bác hỏi thăm hoàn cảnh gia đình Sác-tông. Bác nói:

- Chúng tôi có quyết tâm lấy lại nước. Trong chiến trận có quyết tâm bắt sống tên chỉ huy cao nhất. Rõ ràng chiến sĩ của chúng tôi lần này đã bắt sống được quan năm và sau này còn bắt sống nhiều tên nữa. Các anh nghĩ gì về người chiến sĩ của chúng tôi?

Lời nói của Bác đã trở thành định mệnh cho bao tướng tá của quân đội viễn chinh Pháp sau này trên cánh đồng Mường Thanh (Điện Biên Phủ).

Tên quan năm Sác-tông hạ giọng - hình như nó cảm thấy đang đứng trước một đối tượng không bỉnh thường - thốt lên:

- Thưa ngài, quả thực những người lính của các ngài là những con người kỳ cục (phénomène). Họ không bị dập khuôn theo một cuốn sách nào cả.

- Chẳng có gì là lạ. Họ chỉ là những người yêu nước muốn giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc mình.

Trước khi về, Bác mời nó hút thuốc, và tặng cho một bao Phi-líp.

Ra khỏi hang, Bác quay lại hỏi mình và Phan Phác:

- Các chú thấy thằng nào đáng ghét hơn trong hai thằng này?

Anh Phan Phác nhanh miệng nói:

- Thưa Bác, thằng Sác-tông nó chửi ta luôn mồm, thật đáng ghét.

Bác bảo ngay:

- Chính Lơ-pa-giơ mới là thằng nguy hiểm hơn. Sác-tông phổi bò là tên dễ chinh phục.

Trong chiến dịch, Bác thường chống gậy đi bộ lẫn cùng đoàn dân công, bộ đội. Dạo đó Bác hay cải trang thành một ông Ké người Nùng. Bác đội nón, chiếc khăn tay buộc vào quai nón che kín bộ râu nom như một ông già người dân tộc đi theo dân công, bộ đội. Tới lúc Bác đi khỏi rồi bà con mới biết. Thế là cả mặt trận xôn xao, vui sướng: “Bác Hồ cũng ra mặt trận với chúng ta nè! Chúc sức khoẻ Bác Hồ!”.

Bộ đội, dân công bảo nhau: “Cố gắng lên. Thế nào chiến thắng rồi cũng được gặp Bác, Bác khen thưởng à!

Đúng là một chiến dịch lịch sử. Một đặc thù riêng của chiến dịch, Bác Hồ cũng ra trận! Rất bình dị là Bác và cũng rất cao cả lớn lao biết bao nhiêu, Bác Hồ của chúng ta!”.