← Quay lại trang sách

Chương thứ ba (4) QUÂN VÀ DÂN ĐƯỜNG SỐ 4 THỪA THẮNG XỐC TỚI

Tiêu diệt xong cụm cứ điểm Đông Khê, đợt hai của chiến dịch chính thức tiến hành từ ngày 21 tháng 9. Ta và địch bắt đầu cuộc đấu trí, đấu lực cực kỳ căng thẳng quyết liệt. Mất Đông Khê, địch bị một đòn quá bất ngờ, choáng váng như con rắn bị nện một cú trời giáng giữa đoạn xương sống. Chúng vội vã tăng cường lực lượng phòng thủ cho Thất Khê và Cao Bằng ; ném 2 trung đội dù người Tày, Nùng cho Thất Khê và gấp rút tổ chức binh đoàn Bay-a do Lơ-pa-giơ chỉ huy gồm 4 tiểu đoàn tinh nhuệ cơ động tiểu đoàn dù Lê dương, tiểu đoàn Ta-bo, tiểu đoàn 11 Ta-bo và tiểu đoàn Ma-rốc của trung đoàn 8 chuyển sang, từ Na Sầm tiến lên Thất Khê với âm mưu giành lại Đông Khê và tiếp cứu Cao Bằng. Còn ở Cao Bằng chúng dùng đường hàng không chở tiểu đoàn 3 Ta-bo lên tăng cường cho cái cụm cứ điểm mà địch vẫn tự hào là một chiến luỹ Ma-gi-nô thu nhỏ lại.

Phía ta, Bộ chỉ huy chiến dịch kiên trì chủ trương đánh viện. Một khi tiêu diệt được sinh lực địch, đánh tan bọn viện binh, sẽ tạo thời cơ phát triển chiến dịch thắng lợi. Chọn khu vực quyết chiến điểm ở đoạn Đông Khê - Lũng Phầy trên trục đường số 3. Bộ dùng lực lượng chủ yếu là Đại đoàn 308 và Trung đoàn 209. Còn Trung đoàn 174 chúng tôi được lệnh cùng Tiểu đoàn 426 có thêm 4 khẩu pháo phối thuộc, cơ động gấp xuống Nam Thất Khê. Ở đây, dưới sự chỉ huy của đồng chí Thanh Phong, Phó tư lệnh quân khu Việt Bắc, quét một số đồn bốt nhỏ trên quãng Thất Khê - Na Sầm ; ngăn chặn quân tiếp viện trên trục đường này, bao vây uy hiếp Na Sầm. Nếu có điều kiện chắc thắng, tiêu diệt luôn.

Nhận lệnh, cả trung đoàn chúng tôi nhanh chóng rời khỏi Đông Khê đang tưng bừng không khí chiến thắng, bôn tập xuống phía Thất Khê. Trên suốt đường hành quân, tôi càng đi càng cảm phục tinh thần hết lòng chi viện cho mặt trận của đồng bào hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn. Suốt dọc bìa rừng, khe suối, trên khắp lối mòn, bộ đội chúng tôi đều gặp dân công kĩu kịt trên vai những chiếc sọt tre ăm áp nào gạo, nào đạn. Các chị dân công Tày, Nùng vác trên vai những quả đạn to nặng, hoặc khiêng vác thương binh trên cáng. Ào ạt hối hả, tấp nập. Mệt nhọc đấy, mà trên nét mặt, khoé mắt ai cũng rạng rỡ, hồ hởi mỗi khi bắt gặp đoàn bộ đội hành quân ngược chiều. Các chị hát và chúc mừng bộ đội ;

- Bộ đội à! Đánh Tây khoẻ lố! Đánh Tây khoẻ lố!

- Thương bộ đội nhiều lắm vớ!

Gần đây, gặp lại anh Dương Công Hoạt, lúc đó là Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng, nay đã cao tuổi và nghỉ hưu. Ôn lại chuyện cũ, anh còn nhớ rành rọt như mới ngày hôm trước:

- Việt ơi, cậu có nhớ không? Cái lần Bộ gọi cậu và mình về báo cáo tình hình chuẩn bị cho chiến dịch Biên giới, chúng mình cưỡi ngựa sắt, trên đường về Bắc Cạn, qua đèo Ben-le (Bellair). Lên dốc đã mệt, xuống đèo làm sao bây giờ? Nếu cứ dắt xe đi bộ, tối giữa đường, sẽ bị cọp rừng ăn thịt mất. Cậu đã có sáng kiến, chặt hai cành đào to tướng buộc kéo sau xe.Nhờ cái phanh thiên nhiên ấy mà chúng mình lao xuống dốc từ từ êm ro.

Hồi đó, mình là Bí thư, kiêm Trưởng ban huy động dân công của chiến dịch. Mình cần nói với cậu một điều là quần chúng hậu phương góp phần rất tích cực vào thắng lợi của bộ đội ở tiền tuyến. Hồi chiến dịch Biên giới, đi dân công không chỉ có những đồng bào ở vùng thấp như Tày, Nùng, mà có cả những dân tộc ở vùng cao hẻo lánh như Dao Tiền, Dao Đỏ, H’mông, những đồng bào này hồi Pháp thuộc không bao giờ chịu nộp thuế, đi phu cho Pháp. Còn một chuyện thú vị nữa. Mình được nhiệm vụ chuyển hai sợi giây cáp từ mỏ Tĩnh Túc về Phục Hoà, xa 80 km. Mỗi sợi dài 1200 m, nặng 5-7 tấn, các chuyên gia giao thông đang ở thế bí. Không thể chuyển bằng xe hơi vì không có đường, còn xe trâu, xe bò thì chuyển sao nổi. Nhân có cuộc họp dân công, tôi đem vấn đề hỏi các cụ bô lão. Một ké người vùng cao Nguyên Bình, cụ Kim Đao, hiến kế:

- Không khó đâu vớ, người cán bộ cứ làm như dân bản chuyển cây trúc, cây mai, cây lim từ rừng sâu về làng bản.

Rồi cụ bảo dải hai sợi cáp nằm dài xuống đất. Huy động 500 dân công bố trí dọc theo đường dây, mỗi người cách nhau 5 - 6m. Theo lệnh thống nhất, mọi người cho cáp lên vai, cùng chuyển động. Con rồng sắt dài hơn hai cây số, uốn lượn theo các nẻo đường, qua rừng, qua suối, từ Nguyên Bình xuống Nước Hai, vượt Mã Phục, Quảng Uyên, đèo Khâu Chi đến Phục Hoà. Đồng bào Dao Nguyên Bình làm nên chiến công lớn. Hai sợi cáp dài, nặng thế, trót lọt về đến Phục Hoà, đảm bảo cho công binh ta bắc cầu phao vượt sông Bằng Giang để vận chuyển tiếp tế cho mặt trận. Đúng như lời truyền tụng trong nhân dân:

“Dễ trăm lần không dân cũng chịu

Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.

Màu xanh chàm, sắc áo của các anh chị Tày, Nùng quyện với màu lá rừng đang độ cuối thu, tạo nên một bức tranh đậm đà phong vị riêng biệt của quê hương xứ Lạng, hoà chen cùng nước non Cao Bằng. Thêm vẻ sặc sỡ của các chị Dao Tiền, vòng bạc óng ánh, chấm phá sinh động giữa nền xanh lam đầm ấm. Lại những người H’mông từ trên núi cao thăm thẳm cũng xuống, hoà vào dòng thác dân công. Tất cả ổn ào nườm nượp đông vui, như nói lên, hát lên, bộc bạch tấm lòng với Bác Hồ, với Đảng, với bộ đội: Nhân dân đồng bào Cao - Bắc - Lạng sẵn sàng, quyết tâm cùng bộ đội đánh thắng, quét sạch giặc Tây khỏi miền biên giới! Đánh thắng trận thu đông này để Già Hồ vui lòng! Thời gian đã qua, thấm thoát đã trên ba chục năm, vậy mà cứ mỗi lần đến Viện Bảo tàng quân đội ngắm nhìn bức ảnh chị Triệu Thị Soi ; chiếc thắt lưng từng buộc chéo người để cõng thương binh của chị Đinh Thị Dậu, là cảnh sắc, tình người ở đất Cao - Lạng lại hiển hiện thật rõ nét, thật đậm đà trong tâm trí tôi. Một rừng dân công ồn ào, náo nhiệt, người quẩy gạo, người vác đạn, lại có chỗ tấp nập chật tre, đan sọt, làm cáng. Tôi nhớ có một lần, bên cạnh dãy lán rừng ven bờ suối, tôi gặp các chị đang cùng mấy ông Ké làm những cái cáng tre để chất đống dưới gốc lim. Tôi hỏi đùa một chị người Tày:

- Làm cáng nhiều thế. Bộ đội chúng tôi đánh lần này không bị thương nữa đâu.

- A lúi! Dân công mình không muốn làm nhiều cáng đâu mà. Không muốn bộ đội có nhiều thương binh đâu vớ. Buồn lắm vớ! Chỉ muốn làm nhiều cái sọt đựng gạo, đựng muối cho bộ đội ăn no cái bụng, khoẻ cái chân đi đánh giặc thôi.

- Thế sao không đan sọt?

- Ừ! Trên phân công mà! đội khác mới được làm sọt.

Loáng cái, các chị dân công đã xúm quanh chúng tôi, chị này chưa nói xong, chị khác đã nói:

- Húi dà! Cán bộ nó bảo làm cáng nhiều để vừa cáng thương binh bộ đội, vừa để bọn Tây đen, Tây trắng bị thương cáng nhau à! Mình thắc mắc lắm! Cáng bọn giặc Tây thì không nên đâu. Nó ác! Nó đóng đồn, đốt phá dân bản, cướp nước mình mà. Mặc cho nó chết thôi vớ!

Tôi hỏi:

- Thế cán bộ bảo với các chị thế nào?

- Ôi! Nó giải thích là cái chính sách Cụ Hồ dạy rồi. Mình đánh giặc Tây thôi. Lúc nó thua nó hàng, nó bị thương thì cứu cho nó sống. Trả nó về nước. Nó ơn Việt Nam mình, nó bảo nhau không làm tay sai vác súng đi đánh Việt Nam nữa, không theo bọn đế quốc thực dân nữa. Mình cũng hiểu tí chút thôi. Mong sao những cáng này không phải cáng anh bộ đội nào nữa à! Để thằng Tây nó cáng nhau về nước à! Vui lắm vớ!

Các chị cười và tôi cũng cười, cũng vui lây niềm vui hồ hởi hăng say phục vụ mặt trận của các chị. Cái dáng chị Triệu Thị Soi ở bức ảnh nom thật tiêu biểu của cả một thế hệ người con gái Tày, Nùng thời kháng chiến chống Pháp, chắc, khoẻ, vui tươi. Người con gái hiền dịu trong thôn bản, ở nhà nom thấy người ta cắt tiết gà cũng sợ, thấy máu là quay mặt đi, ấy vậy mà khi đi dân công, chị Soi, chị Dậu đã cõng vác thương binh, băng bó vết thương cho các anh bộ đội, ngồi đút từng miếng cơm, thìa cháo cho các đồng chí bị thương nặng. Ngày đó, sau trận thắng Đông Khê, chúng tôi yên tâm về việc thương binh. Tất cả giao lại cho đội điều trị phía sau và các chị, các mế chăm lo, săn sóc, người khỏe tiếp tục lên đường truy kích giặc. Gần đây, gặp lại chị Đinh Thị Dậu ở cơ quan huyện ủy Đông Khê, chị đã trở thành bà mế có đủ cháu nội, cháu ngoại.

Nhân chuyện nhắc lại sự tích chiến thắng Biên giới, anh nhà báo đi với tôi hỏi vui chị:

- Sao ngày đó bác hăng thế! Tháo cả thắt lưng để buộc thương binh vào người mà chịu. Tôi tưởng phụ nữ miền núi cả thẹn lắm chứ!

Chị Dậu cười rất hiền:

- Úi dà! Ngượng lắm đấy! Thẹn lắm đấy! Cứ nghĩ đi nghĩ lại mãi, làm thế có nên không! Nhưng mà thương bộ đội lắm. Bị thương khổ lắm! Đau lắm! Chỉ muốn đưa nhanh thương binh về phía sau cứu chữa mà! Nên hết cả ngượng! Phải buộc thương binh vào người mình cho nó khỏi ngã chứ. Bị thương mà lại ngã xuống suối thì nguy lắm à! Phải thế chứ.

Năm nay, lên Lạng Sơn dự lễ kỷ niệm 35 năm giải phóng biên giới Cao - Lạng, tôi gặp lại chị Đường Thị Kim. Chị đã về hưu, cao tuổi nhưng còn rất nhanh nhẹn, nhớ rất nhiều kỷ niệm về một thời sôi nổi của chị thuở khắng chiến chống Pháp ở quê hương xứ Lạng của chị. Một cán bộ phụ nữ hoạt bát, năng nổ, làm tất cả mọi việc để góp phần chi viện cho tiền tuyến đánh thắng. Nhiều lần, trung đoàn chúng tôi phục kích ở Đường số 4 đều có chị tham gia vào việc tổ chức động viên đội ngũ dân công tiếp tế đạn được, cơm nắm muối vừng trong lúc chờ giặc. Tôi còn nhớ trận Bố Củng - Lũng Vài lần thứ 4 năm 1949, chờ đã hai ngày, giặc không đi, lương thực cạn, huyện đội trưởng Kim Sơn ở Thoát Lãng và chị Đường Thị Kim đã vất vả lo việc vận chuyển lương thực, vũ khí cho trung đoàn. Chưa kể khi trung đoàn vượt sông chiếm lĩnh trận địa cũng chính chị và Kim Sơn thức trắng đêm tổ chức dẫn công kết bè, mảng cho trung đoàn vượt sông ra Đường số 4 thắng lợi. Chị Kim kể lại:

- Ngày ấy làm việc chẳng biết mệt. Mình đói mà chỉ lo bộ đội thiếu cơm nhạt muối. Úi! có lần chị em chúng tôi gánh thóc, gánh muối tập trung vào kho. Đi nhiều đói lắm, mệt lắm, trong túi chỉ còn mấy đồng bạc Cụ Hồ không đủ mua chiếc bánh chưng con con mà ăn đâu vớ! Chỉ uống bát nước thôi. Vậy mà vẫn vui chẳng có đòi hỏi gì, tiêu chuẩn gì vớ! làm việc cách mạng mà, giúp bộ đội đánh thắng Tây giải phóng quê mình, ai cũng nghĩ: nước được độc lập là vui rồi.

Theo lệnh của Bộ chỉ huy chiến dịch, Trung đoàn 174 chúng tôi hành quân gấp xuống phía Nam Thất Khê. Anh Mân và tôi bàn bạc kế hoạch chiến đấu ngay. Toàn đội hình trung đoàn bố trí ở vùng Đèo Khách khống chế các đồi cao nhằm vào các đồn Đèo Khách - Khuổi Lếch - Bản Bẻ. Ở đây, chúng tôi vừa có thể chặn bọn viện binh từ dưới Na Sầm lên vừa sẵn sàng diệt những đồn bốt quanh Thất Khê. Các tiểu đoàn bố trí trận địa xong thì có tin của trinh sát ở đài quan sát phía Nam báo gấp về:

- Trong đồn Khuổi Lếch, địch đốt gì mà khói trắng bay lên nhiều quá! Chúng tôi đang theo dõi kỹ.

Tôi và anh Mân lên đài chỉ huy trung đoàn, dõi ống nhòm về phía đồn, lá cờ tam tài vẫn vặn vẹo theo luồng gió. Trong làn khói có cả tàn tro bay lên. Anh Mân bảo:

- Không khéo chúng nó đốt tài liệu giấy tờ để rút chạy đó.

- Chắc thế thật! - Tôi gật đầu và vội vã bảo tham mưu cho ngay tiểu đoàn 251 áp sát vây chặt, nếu cần tiến công luôn.

Tiểu đoàn trưởng An điều ngay một đại đội vòng phía sau đồn quả nhiên gặp địch ngay. Thì ra bọn chúng đốt tài liệu, để nguyên cờ và súng nặng, lặng lẽ chuồn ra phía sau đồn, định theo lối mòn chạy về Na Sầm. Ta nổ súng, chúng bỏ chạy tán loạn, số đông vứt súng xin hàng. Đèo Khách, Bản Bẻ cũng chịu chung số phận như Khuổi Lếch khi trung đoàn tổ chức tiến công.

Ngày 4 tháng 10, tôi được điện ở trên báo cho biết địch rút Cao Bằng từ hôm trước theo Đường số 4, Binh đoàn Bay-a của Lơ-pa-giơ gồm 4 tiểu đoàn lên đón đã từ Thất Khê lên tới Đông Khê. Đại đoàn 308 và Trung đoàn 209 đang chặn đánh quyết liệt. Chúng tôi được lệnh:

- 174 chuyển gấp lên phía Bắc Thất Khê, bố trí ở dọc sông Bắc Khê chặn đường rút của bọn tàn quân thuộc hai cánh quân trên, không cho chúng lọt về Thất Khê.

Cả trung đoàn chuyển quân gấp ngược lên phía Bắc. Tiếp luôn lệnh thứ hai:

- 174 điều gấp phát triển tiểu đoàn lên vùng Cốc Xá tăng cường cho lực lượng đang vây Lơ-pa-giơ không cho cánh quân này hợp điểm với Sác-tông.

Tôi cử luôn Tiểu đoàn 249 vượt lên trước đi ngay. Tiểu đoàn phó Lê Hoàn hỏi tôi:

- Chúng tôi đi phối thuộc với 308 hay là bộ phận đi trước của đội hình trung đoàn?

Tôi phất tay giục:

- Lên đó bắt liên lạc với các anh ấy. Gặp địch đánh luôn, kiểu này chắc chúng vỡ đội hình chạy tủa nhiều ngả. Trung đoàn phải chốt chặt dưới này. Cũng có thể lên tiếp, bôn cho kịp.

Quả tình lúc đó tôi nhận lệnh qua điện rất vắn gọn cảm thấy tình hình rất khẩn trương. Còn lại hai tiểu đoàn, chúng tôi bố trí giăng lưới dọc bờ sông Bắc Khê.

Sau này tôi mới rõ đây là những ngày rất sôi động, quyết liệt giữa ta và địch. Một bên vây ráp, đánh chặn. Một bên rút chạy và cố sức bảo toàn lực lượng để rút cuộc dẫn tới sự đổ vỡ, bi đát, thê thảm của hai binh đoàn Lơ-pa-giơ và Sác-tông, trên dọc Đường số 4 vùng Nà Chi - Cốc Xá. Âm mưu rút chạy an toàn của địch bị thất bại thảm hại. Thì ra chính Các-păng-chi-ê ký “lệnh đặc biệt” ngày 16 tháng 9 buộc Sác-tăng rút Cao Bằng và rút cả Đông Khê để tăng cường sức phòng thủ Bắc Hà Nội. Cùng với lệnh rút, lại tăng thêm cho Cao Bằng 2 tiểu đoàn bằng hàng không để bảo đảm đủ sức mạnh rút lui an toàn. Ai ngờ chính ngày đó cũng là ngày ta nổ súng đánh Đông Khê, mở đầu chiến dịch Biên Giới. Mất Đông Khê, kế hoạch chủ động rút bỏ Cao Bằng biến thành kế hoạch phải rút chạy khỏi Cao Bằng. Trước kia, các nhà chiến lược Pháp cãi nhau về chuyện nên rút Cao Bằng hay cứ trấn ải lại thì nay quay sang bàn cãi xem nên chạy khỏi Cao Bằng sao cho an toàn. Điều an toàn nhất là chạy bằng đường trời, có nghĩa là dùng cầu hàng không. Khốn thay, biện pháp này khá tốn kém không kham nổi. Cách thứ hai là rút theo Đường số 3. Khó ăn lắm vì đường dài vòng vèo lại phải có lực lượng tiến lên Thái Nguyên đón. Chỉ còn cách thứ ba, rút chạy theo Đường số 4 vừa gần, vừa có hệ thống đồn bốt. Cách này khiến Sác-tông giãy nảy lên: rút theo “con đường chết chóc” này, không khác gì đưa mồi vào miệng sói. Con đường nổi tiếng bị giăng bẫy, tướng Giáp đang cho phục sẵn 20 tiểu đoàn để nghiến nát các cánh quân của quân đội Pháp. Nhưng cuối cùng, tướng Tổng chỉ huy Các-păng-chi-ê vẫn quyết định với mệnh lệnh: “Rút theo Đường số 4”. Để yên lòng những kẻ thuộc quyền phải thực hiện, Các-păng-chi-ê vạch ra một kế hoạch phối hợp rất sít sao đầy đủ sự an toàn với cái tên “Kế hoạch Tê-re-dơ” (Thérèse, tên một vị thánh).

Ba bước phối hợp của kế hoạch rất cụ thể:

Binh đoàn mang tên hiệp sĩ Bay-a của Lơ-pa-giơ với cuộc hành binh Ti-đơ-nít từ Thất Khê lên chiếm lại Đông Khê. Chiếm xong, đưa quân lên đón Sác-tông từ Cao Bằng rút về gặp nhau tại kilômét 22.

Sác-tông sau khi phá hủy vũ khí nặng, kho tàng ở Cao Bằng sẽ mở cuộc hành binh O-ra-giơ rút về đến kilômét 22 sẽ hội quân và dưới quyền của Lơ-pa-giơ rổi yểm trợ nhau rút về Thất Khê.

Cùng lúc đó một cuộc hành binh mang tên Phô-cơ từ Hà nội theo Đường số 3 đánh lên Thái Nguyên gồm những lực lượng thuộc dự bị chiến lược cuối cùng ở Bắc Bộ. Dùng đến 6 tiểu đoàn của binh đoàn GM.N.A với dụng ý thu hút lực lượng đối phương tạo sự dễ dàng cho 2 binh đoàn Lơ-pa-giơ Sác-tông trên Đường số 4.

Kế hoạch Phô-cơ chính thức hiện vào ngày 30 tháng 9 khi binh đoàn Lơ-pa-giơ xuất quân. Trước hôm đó, cuộc tiến công đỡ đòn nghi binh tiến chiếm Thái Nguyên đã được thực hiện. Nhưng kẻ địch không buộc nổi ta sa vào ý định của chúng với cái kế hoạch lúng túng bị động đó. Bộ chỉ huy chiến dịch vẫn nắm quyền chủ động, dồn sức kiên trì đánh chúng tại Đường số 4 theo kế hoạch đã định từ lúc mở đầu chiến dịch Biên giới, ở vùng Thái Nguyên, lực lượng tại chỗ gồm một trung đoàn địa phương và dân quân du kích cũng loại khỏi vòng chiến đấu 500 tên địch. Địch tiến công lên rồi ngày 10 tháng 10, lại hấp tấp kéo về, lo chuyện tăng sức phòng ngự, chặn ta thừa thế tiến công về đồng bằng Bắc Bộ. Một cuộc tiến công rơi vào chỗ trống vô tích sự như Mác-san đã buồn bã thú nhận sau này.

Còn cuộc hành binh “hiệp sĩ” của binh đoàn Lơ-pa-giơ vài ngày đầu đã gây sự mừng hụt cho cả tướng Các-păng-chi-ê lẫn cao ủy Pi-nhông khi Lơ-pa-giơ báo cho tướng chỉ huy trưởng quân khu biên thuỳ Công-xtăng là đã lọt qua cả Bông Lau rồi Lũng Phầy mà vẫn chưa hề gặp địch. Công-xtăng vui sướng báo về Hà Nội “điềm tốt lành đó”. Ôi! qua hai cửa tử ghê gớm nhất trên Đường số 4 mà vẫn yên lành! Niềm vui đã khiến Các-păng-chi-ê và Pi-nhông chạm cốc trong sự chúc mừng rộn rã của tướng, tá tuỳ tùng tại Tổng hành dinh.

Đúng là Lơ-pa-giơ có qua được Bông Lau - Lũng Phầy và có tới được Đông Khê đến nỗi chính hắn cũng từ nghi ngại tới ngạc nhiên khó hiểu. Sự thật lại rất đơn giản. Đấy chính là vùng Đại đoàn 308 ém quân sẵn sàng chờ đón viện binh địch. Nhưng mai phục suốt từ hôm 16 tháng 9 với cả đội hình 3 trung đoàn bố trí suốt một dọc từ núi Khâu Luông đến núi Chóc Ngà kéo dài đến vùng đèo Lũng Phầy, địch vẫn im hơi lặng tiếng. Chờ đến sốt ruột và hết cả gạo ăn. Trong một chiến dịch lớn, gạo quả là một yếu tố quan trọng. Tới đúng ngày địch thò ra cũng là lúc phần đông bộ đội ta phải đi lấy gạo ở tận kho Thủy Khấu sát vùng biên giới Việt Trung. Đa số cán bộ lại đang đi trinh sát chuẩn bị đánh vào Thất Khê với ý định buộc địch phải viện binh. Số còn lại rút vào phía sâu trong rừng. Nói chung bộ đội thiếu quân số, lại không ở tư thế sẵn sàng xuất kích chiến đấu. Khi có tin viện binh địch, lập tức đại đoàn vừa dùng điện vừa dùng liên lạc phi ngựa tới các kho trạm đồn quân nhanh chóng trở về khu vực chiến đấu. Đây cũng là lúc bắt đầu những lời lẽ không vui của Lơ-pa-giơ báo cáo về với nhịp điệu hốt hoảng và thưa thớt dần cho tới khi im bặt. Binh đoàn “hiệp sĩ” bị đánh ở khắp các điểm cao như Nà Mọc - Chóc Ngà và dữ dội nhất là trận Khâu Luông. Phía trên Cao Bằng - Sác-tông bắt đầu rút vào mờ sáng ngày 3 tháng 10. Đến Nậm Nàng, chúng phải phá hủy xe cộ, súng nặng, rẽ theo đường mòn. Trung đoàn 209 của anh Lê Trọng Tấn đánh chặn ngay. Lúc Trung đoàn 174 chúng tôi được lệnh đưa nhanh một tiểu đoàn lên tham dự trận tiêu diệt 2 binh đoàn Lơ-pa-giơ - Sác-tông là lúc địch đang bị dồn vào vùng Cốc Xá, đồi 477. Còn lại toàn trung đoàn bố trí ở bìa rừng dọc sông Bắc Khê. Mùa nước cạn, con sông teo lại như một dòng suối. Bên này là bìa rừng, bên kia là mảng đồng, băc bậc thang men đồi. Ở đây chúng tôi không phải chặn đánh quyết liệt một đoàn quân rút lui trong tư thế tiền hô hậu ủng, mà là một loại tàn quân lẩn rừng trốn chạy. Cứ từ dưới dọc khe, hoặc trong rừng rậm ló ra từng tốp năm bảy tên. Có khi cả chục đứa. Chỉ vừa thấy bộ đội với tiếng hô bằng giọng Tây mới học thuộc vẻn vẹn mấy chữ “Hô-lê-manh”(1) là chúng đã quẳng súng xin hàng ngay, rất ngoan ngoãn. Tên nào tên ấy râu ria xổm xoàm, mặt mày hốc hác, dáng điệu phờ phạc. Chẳng kể là Lê dương hay Ta-bo, tất cả rất giống nhau ở cử chỉ chìa tay xin cơm. Chúng đói! Đói thảm hại! Nhưng chúng tôi cũng không phải là giàu có gì. Chiến đấu dài ngày, gạo vác vai, quấn quanh lưng, trút nấu dần cũng vơi cạn nhiều. Hàng binh cứ từ hàng chục lên hàng trăm, rồi năm bảy trăm, khó lòng nuôi xuể. Lúc đầu bộ đội ta cứ vác cơm nắm đi gọi hàng. Khi chúng chạy ra, ta cho mỗi đứa một nắm. Sau phải bẻ đôi mỗi tên một nửa, rồi bẻ ba gọi là ấm bụng rồi theo tay chỉ dẫn của bộ đội, chúng tự động thất thểu theo đường mòn về hướng trại tù binh. Dọc đường gặp các chị dân công chúng chắp hai tay vào ngực rồi chìa tay xin ăn rất tử tế. Hàng binh từ các ngả rừng ra hàng tới mức các chị em dân công Tày, Nùng cũng rủ nhau mang cơm đi nhử. Trung đoàn chúng tôi như một cái lưới vét cuối dòng, tóm bắt tất cả những tên giặc chạy thoát khỏi vùng Cốc Xá, điểm cao 477. Lúc này Lơ-pa-giơ đã bị đại đoàn 308 bắt sống, tôi lại nhận được thông báo của Bộ chỉ huy chiến dịch qua điện đài: Có một cách quân khoảng 4 đại đội do Đơ-la-bô-mơ chỉ huy từ Thất Khê lên Lũng Phầy với ý định tiếp sức đón bọn Lơ-pa-giơ - Sác-tông. Trên ra lệnh cho 174 điều ngay một tiểu đoàn đánh bọn này ở dãy núi Khâu Pia.

Tôi thầm nghĩ “Đây là sự cứu vãn theo kiểu còn nước còn tát của địch đây”. Giữ lại Tiểu đoàn 250 và đơn vị trực thuộc, tôi điều Tiểu đoàn 251 của Nguyễn Hữu An lên hướng Khâu Pia ngay sau lúc nhận lệnh mồng 7 tháng 10. Ngay hôm sau, trên lại lệnh cho trung đoàn chúng tôi về đánh chiếm Thất Khê gấp. Mặc dù quân số còn ít, Tiểu đoàn 245 đang trên Cốc Xá, Tiểu đoàn 251 đi đánh bọn Đơ-la-bô-mơ ở Khâu Pia, còn Thất Khê, công sự rắn chắc vì là một tiểu khu trung chuyển giữa Lạng Sơn và Cao Bằng, nhưng chắc chắn địch đang ở cảnh hoang mang muốn rút chạy, không còn ý chí chiến đấu ; do đó, khi biết được ý định của trên: thừa thắng dấn tới, anh Mân và tôi quyết định điều toàn bộ lực lượng còn lại hành quân thẳng xuống Thất Khê, vừa bôn nhanh vừa cùng tham mưu trưởng và các cán bộ bàn kế hoạch tiến công, đổng thời cho liên lạc báo với Nguyễn Hữu An: “Đánh xong Đơ-la-bô-mơ ở Khâu Pia, đuổi theo trung đoàn xuống Thất Khê ngay”.

Chú thích:

(1) Haut les mains: giơ tay lên.