← Quay lại trang sách

CHƯƠNG MỘT CHUYỆN XƯA

Kể từ hôm Pao giật sợi vải đỏ buộc chắc quanh ba bím tóc của tôi và đuổi tôi chạy trốn về phía mẹ tôi, chúng tôi không còn thể nào rời nhau được nữa.

Chúng tôi thường cãi nhau và chẳng ai chịu ai bao giờ, nên hễ có dịp là chúng tôi lại gây sự tái chiến nữa.

Hồi nhỏ, chúng tôi chơi đùa trên bờ sông, dưới hàng liễu xanh rì và đầy bụi của Bắc Kinh. Dĩ nhiên chúng tôi luôn chơi trò chiến tranh do Pao thủ xướng.

Lớn lên theo đúng phong tục Trung Hoa, chúng tôi bị tách rời nhau. Tôi không còn được phép chạy nhông và la ó ầm ĩ ngoài đường nữa. Tôi phải cấm cung trong nhà, đi đứng cho mực thước và giữ vẻ khuê các của một tiểu thư. Còn Pao, mới mười hai, đã phải cặm cụi học hành để sau này xứng đáng với gia thế nhà chàng. Chúng tôi không được phép gặp nhau nữa: con trai con gái không thể chơi chung với nhau như trẻ con được. Chúng tôi đã đổ bao nhiêu nước mắt, phẫn nộ, rồi viết những vần thơ bi thiết của những kẻ sắp tự tử vì tình, mang bỏ dưới gối, và tay nắm chặt, chúng tôi thiếp ngủ trong nỗi thảm sầu... và tôi gần như quên nó đi, tấn thảm kịch đó.

Nhà Pao và nhà tôi cũng ở trên một con đường nhỏ chạy dọc theo bờ sông trong Tử-Cấm Thành của Bắc Kinh. Một bên bờ đường là những dẫy tường trơ trọi bí hiểm, những cái cổng có mái ngói che mưa nắng, những con sư tử đá với những cái bờm xoắn tít đang há miệng nhăn răng cười. Bên kia là hàng liễu rủ và giòng sông. Ngôi nhà của Pao khá lớn: nhìn từ xa, nhà chàng có về giầu sang nhất phố. Chiếc cổng vĩ đại mở ra trước một dẫy sân rộng mênh mông và uy nghi. Những dẫy nhà nối tiếp nhau, hàng cột sừng sững đỡ những mái ngói cong vút in đậm nét trên nền trời. Những câu đối sơn son thép vàng, những hình trạm nổi làm cho các cánh cửa và hàng cột sáng rực rỡ, huy hoàng. Nhà tôi ở cuối đường và rất khiêm tốn so với nhà Pao, chỉ có một cái sân giữa những dẫy nhà tầm thường.

Nhà Pao lúc nào cũng ồn ào rộn rịp khiến bọn trẻ con cùng phố đứa nào cũng lóa mắt thán phục. Chúng tôi thường tụ tập trước cổng nhà Pao để rình mò, nghe ngóng. Đây là trò chơi thú vị mà chẳng tốn kém của chúng tôi. Từ sáng sớm, chúng tôi đã chạy đi xem cảnh thân phụ Pao ra xe để đi đến Nha môn, nơi đặt các công sở của chính phủ. Đám kỵ binh hộ vệ sắp hàng thẳng tắp ngoài cổng đợi sẵn. Ngài bước ra, lên xe đi giữa những tiếng chân ngựa lộp cộp nện trên mặt đường.

Trưa đến, các tay lái buôn mới lũ lượt kéo tới. Đôi khi đó là một khách rao hàng, trẻ, gầy, có dáng trang nhã với một mớ những gói đồ quý giá; đôi khi chính ông chủ tiệm béo phệ, tay phe phẩy chiếc quạt, dẫn đám người làm tay xách nách mang, nào thúng nào mủng. Bởi vì các phu nhân, không muốn bẩn chân đi ra phố. Các bà thường sống riêng rẽ trong từng căn nhà riêng với một chiếc sân riêng và mỗi khi muốn mua sắm thứ gì - từ cái bút, bình hoa, vải vóc cho đến đồ trang sức bằng vàng ngọc - người ta mang đến hàng tá tùy các bà lựa chọn. Ít khi người ta thấy các bà ở ngoài phố chỗ đông đúc và la liệt hàng hóa - từ cuốn tiểu thuyết Mỹ mới nhất, những bình hoa, quần áo, trái cây hộp đến một con khỉ hay một bộ kiến hiển vi.

Mùa đông, mỗi buổi trưa, chúng tôi nhìn hàng dẫy người nghèo khổ, những kẻ ăn xin kéo đến trước nhà Pao, ngày nào cũng như ngày nào rất đúng giờ y như là được triệu đến. Họ đứng đợi trước cái cổng lớn, tay cầm những cái bát sứt mẻ để đựng thức ăn. Rồi các gia nhân mang những nồi cháo lớn ra. Họ múc cháo nóng hổi, bốc khói đổ vào từng chiếc bát dơ cao trên những cánh tay gầy khẳng khiu. Sau đó, đám người ăn xin vừa húp cháo sùm sụp, vừa hơ những ngón tay cóng lạnh trên thành bát.

Trong tất cả những cái tráng lệ của nhà Pao, dưới mắt bọn khán giả con nít chúng tôi, những đêm lễ lạc rập rìu ngựa xe cùng những kẻ hầu người hạ là những đêm huy hoàng nhất. Chúng tôi len lén mò vào tận dẫy sân ngoài, mon men đến gần đám khách khứa tụ tập trên sân giữa để say sưa ngắm nghía, nghe ngóng - và ngửi nữa - trong khi những bà mệnh phụ trang điểm lộng lẫy và sực nức mùi hoa, mùi trầm đi lại ngay sát mũi chúng tôi.

Đám bồi bếp hấp tấp đi tới đi lui bưng hết bát này đĩa kia, thứ nào cũng nóng hổi bốc lên mùi thơm ngọt bay thốc vào mũi khiến chúng tôi thèm rỏ dãi.

Rồi chúng tôi sấn đến gần hơn nữa để xem đám nghệ sĩ giúp vui quan khách; họ đều là những nghệ sĩ thượng hạng của Bắc Kinh, nghĩa là nhất cả nước Trung Hoa. Giữa những tiếng chiêng, tiếng trống, giọng ca và bộ điệu của họ làm sống lại những vị anh hùng, những vị hoàng đế của các triều đại xa xưa. Chúng tôi thuộc lòng từng vở, từng truyện. Ngay từ lúc diễn viên bước ra chúng tôi đã biết ngay là nhân vật nào. Chúng tôi nhận ra ngay Tào-Tháo với cái mặt trắng bệch, xương xẩu, gian trá, Quan-Công trong lớp áo bào xanh với làn da mặt đỏ tía và lại cả những tên hề với các lỗ mũi trắng hếu nữa. Trước khi người dẫn tuồng lên tiếng, chúng tôi đã biết màn này là màn gì. Chúng tôi lóa mắt trước những bộ áo quần nạm bạc sáng lóng lánh, những chiếc mũ gắn lông trĩ dài cả thước và đối với chúng tôi, những đứa trẻ con, những màn hát kịch đó cũng có một ý nghĩa và một vẻ đẹp.

Những cuộc giao tranh quay cuồng với những cây giáo cây gươm bay vù vù, những cánh áo, những chiếc lông trĩ xoay tít giữa tiếng chiêng trống dồn dập, dưới muôn ánh đèn lấp lánh, rực rỡ lóe những mầu vàng, đỏ, tím trên các xiêm y.

Pao thuộc vào cái đám huy hoàng tráng lệ đó, nhưng chàng lại đứng về phe chúng tôi. Chàng bỏ ngôi nhà lộng lẫy để chạy nhông ngoài phố chơi đùa cùng chúng tôi với một tinh thần rất dân chủ, bình đẳng tự nhiên của tuổi thơ. Chúng tôi tôn chàng làm thủ lãnh không phải vì quyền uy và gia thế nhà chàng mà vì phản ứng tự nhiên. Trò chơi nào của chúng tôi cũng đều đánh nhau. Pao là đại tướng của chúng tôi. Chàng sắp chúng tôi thành một đạo quân và thường dẫn chúng tôi bầy trận đánh lộn với lũ trẻ con phố bên cạnh. Tôi cố gắng hết sức để xứng với Pao, nhưng tôi không có vẻ thành công lắm. Là con gái, tôi không có cách gì ganh đua với tụi con trai trong các cuộc rượt bắt hay vật lộn. Nhưng mỗi khi cần đến "thương binh", tôi lại thành công đến mức xuất thần, tôi kêu thét lên những tiếng đau đớn giống đến nỗi mọi người đều phải ngừng tay để xem tôi có bị gì không?

Những đứa trẻ thuộc lứa tuổi tôi đều đã sớm biết thế nào là chiến tranh, là hỗn loạn và chém giết. Không có đứa nào trong đám chúng tôi lại không bị xâu xé với những kinh nghiệm bản thân về cuộc nội chiến. Ngay tại con đường bình yên, với hàng liễu rủ trên dòng kinh nhỏ của chúng tôi, chiến tranh vẫn là một nỗi đe dọa kinh hoàng thường trực. Các đạo quân của xứ quân thay phiên nhau đánh chiếm miền Bắc và Bắc-Kinh. Người ta long trọng đón tiếp những vị Xứ-quân nào nổi tiếng là nhân đức, không đánh thuế nặng và biết kiềm chế quân sỹ. Mỗi lần như vậy, người ta treo cờ trước cửa nhà, pháo được dịp đua nhau nổ tan trong làn khói xanh khét lẹt. Những cổng trào sặc sỡ mọc lên khắp phố trong khi cả tỉnh trang hoàng và ăn mừng đón tiếp vị chủ mới. Ngược lại, nếu vị Xứ-quân thắng trận không có lý tưởng, chỉ hành động vì lòng tham và quyền lực, khi ông thường thả lỏng cho đám quân sĩ đối rách và vô kỷ luật di cướp bóc thả cửa trong ba ngày đầu, tất cả lẩn vào trong nhà, cửa đóng then cài, cả tỉnh chìm trong một màn yên lặng phập phồng. Đám trẻ con chúng tôi thường nhòm qua kẽ cửa để nhìn cảnh đạo quân thắng trận diễn hành qua các phố, hay lang thang từng đám đi cướp bóc. Ai mà hại chúng tôi? Chúng tôi chỉ là một lũ trẻ con. Lệnh giới nghiêm nhốt các người lớn trong nhà, còn chúng tôi lẻn ra đường thám hiểm một cảnh tượng hỗn loạn và mang về nhà những câu chuyện cướp bóc hay chém giết. Chúng tôi học để biết thế nào là chiến tranh!

Lớp trẻ cùng lứa tuổi với Pao và tôi đều sinh ra trong thời hỗn loạn. Chúng tôi đã sinh ra giữa thời chiến. Chiến tranh đã phủ một màn đen tang tóc lên tuổi thơ của chúng tôi. Từ ngày hiểu được ngôn ngữ của người lớn, chúng tôi toàn nghe những chuyện đánh nhau. Cuộc đời chúng tôi nối tiếp nhau trong dòng lịch sử. Sau này khi có một vài năm thanh bình, chúng tôi đã vồ lấy tất cả những gì chúng tôi có thể, với nỗi lo ngại về một cuộc xâm lăng lúc nào cũng canh cánh bên lòng. Thế rồi một cuộc thế chiến ác liệt đã bùng nổ, cuộc chiến tàn khốc hơn tất cả những gì mà chúng tôi đã trải qua. Chúng tôi chưa hề biết thế nào là một cuộc sống thanh thản, không bị đe dọa và không sợ hãi.

Thoạt tiên, gia đình tôi đã đến tị nạn tại Bắc-Kinh. Quê nội tôi là tỉnh Tứ-Xuyên xa xôi, ở bên kia dẫy Tây Trường-Sơn, sát gần biên giới Tây-Tạng. Tôi chưa bao giờ thấy tỉnh Tứ-Xuyên. Tôi ra đời tại Hồ-Nam. Khi tôi lên năm hay sáu gì đó, gia đình tôi sống ở Sầm-Giang, cha tôi làm việc cho công ty xe lửa ở đó. Chúng tôi sống trong một ngôi nhà thật đẹp của công ty, chung quanh có vườn hoa và có cả chuồng nuôi gia súc. Chúng tôi nuôi gà, lợn và một hai con bò. Tôi được một con chiên nhỏ mà tôi yêu như một đứa em. Nó lẵng nhẵng theo tôi suốt ngày, vừa chạy vừa kêu "ma...a...a" và chúng tôi chẳng lúc nào rời nhau. Tôi không thể nào chịu được cái việc để một con chiên nhỏ dễ thương sống lẫn lộn với các thú vật khác trong chuồng, tôi mang chú chiên nhỏ của tôi vào phòng khách, nơi mà tôi thường tiếp khách khứa.

- Mang ngay con chiên này ra ngoài không nó bậy ra đây bây giờ!

- Nhưng nó bị lạnh mà, má! Sắp tối rồi, thế nào con chiên của con cũng bị lạnh.

- Chiên không bao giờ bị lạnh. Bộ con định mang nó vào giường ngủ với con nữa chắc? Mang nó ra vườn ngay lập tức!

Tôi biết là không thể cãi thêm gì được nữa. Tôi đành phải tuân lệnh má tôi. Tôi chạy tới chạy lui kiếm các áo len và áo lót cũ để mặc cho chú chiên rồi tôi cùng ra ngoài chuồng bò với nó. Chúng tôi nằm bên nhau, cùng đắp một tấm vải trải giường rách rồi ngủ thiếp. Đến tối, các gia nhân mới tìm thấy tôi và bế tôi vào giường ngủ. Sáng sớm, chú chiên con nhẩy long tong đón tôi trước cửa nhà.

Trong vườn nhà tôi còn có một con nhím của lũ bạn tôi. Hàng ngày, tôi mang đồ ăn cho nó và đặt cho nó một cái tên. Con nhím luôn luôn nhận ra giọng tôi và chạy nhào tới y như một con sâu khổng lồ, lắc lư thân mình với những tiếng khua leng kẻng.

Ở Sầm-Giang gia đình chúng tôi được coi như khá giả. Bởi thế mỗi khi có sự thay đổi biên cương của các Xứ-quân, mỗi khi các đạo quân ào ào đổ vào Sầm-Giang - thật ra đây chỉ là những cuộc điều binh biểu dương hơn là một cuộc chiến - nhà tôi thường bị trưng dụng để làm bộ chỉ huy. Gia đình chúng tôi cũng chủ trương một chính sách hòa hoãn y như các thành phố thường bị chiếm đóng, nghĩa là tiếp đón những kẻ chiến thắng tử tế, nuôi họ ăn uống đàng hoàng rồi để mặc cho họ ra đi tự nhiên.

Chúng tôi cũng dành những cảm tình khác nhau cho từng vị xứ-quân, không phải vị nào cũng như vị nào. Có một lần, Sầm-Giang bị một xứ-quân khác tiến chiếm mà không đổ một giọt máu, chúng tôi đã mời ngài cùng toán vệ sĩ dùng bữa tại nhà... Đó là Phan-Vụ-Sanh, sứ giả của nông dân, nổi tiếng vì tính khiêm cung, vì tinh thần kỷ luật trong đạo quân của ông và nhất là vì thành tâm muốn đem lại hạnh phúc cho đám lê dân mà ông cai trị. Ngay cả đám trẻ con cũng biết đến tiếng tăm công binh của ông và không có đứa nào sợ đám binh sĩ của ông cả. Chúng tôi phân phát bánh, mứt cho đám vệ sĩ và họ cảm ơn rất lễ độ. Tất cả đều to lớn, chân đi ủng cao có gắn ngàm thúc ngựa, lưng đeo một lưỡi đao to bản cắm trong những cái bao đỏ ửng: vậy mà chúng tôi không sợ hãi gì cả, trái lại họ còn làm cho chúng tôi khoái là khác. Ngày hôm sau, khi họ ra đi, chúng tôi không khỏi tiếc nhớ tuy rằng để tiếp đãi, gia đình tôi đã phải làm thịt hết cả gà vịt, lợn cùng một con bê. Những binh sĩ dù có kỷ luật cao đến đâu thì cũng phải ăn chứ!

Nhưng rồi cục diện thay đổi và một năm sau đó, đạo quân của Phan phải rút khỏi huyện tôi. Lợi dụng lúc tình hình trống rỗng, không có kỷ cương đó, một số các tiểu Xứ quân, không lý tưởng, không kỷ luật nổi dậy cướp bóc khắp nơi. Đám bộ hạ dã man, rách rưới, đói khát, vô kỷ luật, không lương bổng chỉ theo họ vì được thả lỏng đi cướp bóc. Thế là chúng tôi sống trong phập phồng lo âu suốt bốn tháng giao thời, hết nghe tin đồn cướp bóc lại đến tin đụng độ tại các vùng kề cận. Chúng tôi ngồi đợi đám quân ăn cướp ào vào Sầm-Giang như người ta ngồi nhìn đám châu chấu ào xuống ruộng đồng.

Một buổi chiều, chúng tôi ngồi ở ngoài vườn, không khí ấm dễ chịu và thoáng mùi hăng hắc của các bông cúc. Tôi còn nhớ, má tôi ngồi trong căn nhà mát và đang thêu mấy tấm lụa mầu thật tươi. Mấy chị em tôi chơi đùa bên cạnh bà. Côn trùng đua nhau kêu ran đón mừng những ngày nắng ấm cuối cùng của mùa thu trước khi mùa đông giá lạnh tới.

Hình như có tiếng kim khí khua kêu loong koong hay tiếng bụi cây bị sô dạt, bởi vì hốt nhiên, tất cả chúng tôi đều ngoảnh đầu nhìn về phía bờ dậu đầy những hoa trắng xóa và vàng ối; và một cái đầu người ghê tởm đang dương mắt nhìn chúng tôi. Chiếc mũ trận đen xám bẩn thỉu chụp trên khuôn mặt gớm ghiếc với nụ cười khinh nhờn và dễ ghét, nhất là cái mũi đã mất, chỉ còn lỗ đen sâu hoắm. Một chiếc đầu nữa nhô lên, rồi lại một chiếc nữa: khuôn mặt nào cũng gớm ghiếc. Má tôi đứng bật dậy. Bà vẫn chăm chú nhìn thẳng ba bộ mặt ghê tởm đó trong khi hai tay bà quơ ra kéo chúng tôi nép sát vào bên bà. Ba tên lính cười hô hố và hết cất lời trêu chọc lại nhăn mặt dọa nạt chúng tôi. Tôi thấy tay bà hơi run run khi kéo sát đầu tôi vào lòng bà. Tất cả chúng tôi đều nín lặng, không ai thốt ra một tiếng gì.

Rồi chẳng nói chẳng rằng, má tôi lại thản nhiên ngồi xuống chỗ cũ, lượm cái khung thêu lên và chăm chú đưa đẩy các đường kim theo mẫu vẽ. Mấy tên lính vẫn buông ra những câu cợt nhả thô tục. Chiếc kim thêu trong tay má tôi vẫn lanh lẹ xuyên qua đâm lại trên làn lụa mỏng, để lại từng vệt chỉ mầu. Sự bình thản của bà đã làm nản chí ba tên lính và ba cái đầu biến mất. Chúng không còn đó nữa, chúng biến hẵn sau hàng dậu. Mấy chị em tôi, sau cơn hốt hoảng thoáng qua, lại tiếp tục chơi đùa. Sau hàng dậu, mấy tên lính đứng trù chừ một lát rồi bỏ đi. Đó mới chỉ là những tên đầu tiên. Còn nhiều, rất nhiều tên khác nữa sẽ đổ vào Sầm-Giang để ăn cắp, ăn cướp và để chém giết. Mẹ tôi đứng dậy và dẫn chúng tôi vào trong nhà. Cha tôi cũng vừa từ sở về, vẻ hốt hoảng:

- Chúng đã đến rồi...

- Mấy mẹ con tôi cũng vừa nhìn thấy.

Khi tối đến, chúng tôi bỏ nhà, chạy băng đồng đến nhà một người bạn, một người Ý-Đại-Lợi mà cha tôi quen. Hy vọng rằng, ít ra, họ cũng nễ mà chừa những nhà người ngoại quốc. Chúng tôi mang theo những gì có thể bỏ trong mấy bọc, ít quần áo ấm. Trước khi khởi hành, má tôi cúi gỡ mấy chiếc hoa tai của tôi. Bà cũng tháo tất cả đồ trang sức của các em tôi và của chính bà nữa. Không những vì đồ đó đắt tiền mà còn vì nếu chẳng may gặp những tên lính cướp cạn, chúng có thể chụp lấy các đồ trang sức và dành giựt làm đứt tai hay gây thương tích.

Khi tôi biết chúng tôi sắp đi và lý do tại sao, tôi muốn chạy đi kiếm chú chiên con của tôi, nhưng không được phép. Tôi bị kéo đi, nước mắt tuôn rơi.

Ông kỹ sư người Ý đã chứa chúng tôi trong suốt thời gian hỗn loạn. Khi ông chúa ăn cướp kéo đoàn quân của ông đi, chúng tôi trở về nhà để thấy toàn một cảnh đổ nát; tất cả những gì có thể lấy được đều đã biến cả, chỉ còn lại toàn là rác rưới và cứt đái. Cánh cửa thì đỗ nghiêng, còn các khung cửa sổ đều gẫy hoặc lung lơ. Căn nhà trơ trọi trông còi cọt, mất hết vẻ quen thuộc thân yêu cũ.

Nhưng ngôi nhà thì có quan trọng gì! Tôi chạy băng vườn ra chuồng bò gọi tên chú chiên con rối rít. Nhưng sau khi tìm kiếm khắp nơi chẳng thấy còn gì sống sót, tôi ngồi bệt xuống ngưỡng cửa, vùi mặt vào cánh tay mặc cho nước mắt trào ra và lòng tôi đau khổ biết chừng nào. Có tiếng động là lạ như tiếng lách cách giữa tiếng sào sạc của lá khô trên sân. Đó là chú nhím đang đi lục lọi đồ ăn mà đáng lẽ tôi phải mang ra hàng ngày. Lòng tôi chợt rộn lên và tôi muốn vuốt ve nó, muốn nhặt nó lên, muốn ôm siết nó vào lòng. Tôi chạy vội đi kiếm thức ăn cho nó và lòng cũng vơi bớt được phần nào.

Chúng tôi ở lại ngôi nhà hoang tàn đó mấy ngày cho đến khi ba má tôi quyết định lên ở Bắc-Kinh. Ở Sầm-Giang chẳng có lấy một chút hy vọng gì là yên ổn cả. Sáng sớm tinh mơ chúng tôi bị đánh thức dậy, được thay quần áo và kéo ra sân đương khi cơn buồn ngủ còn nặng chụp trên mí mắt để dẫn ra xe lửa. Tôi lại khóc tức tưởi. Tôi không có cả thì giờ để từ giả chú nhím thân mến nữa. Xe lửa đã mang chúng tôi về Bắc-Kinh. Thế là con đường của Pao và của tôi bỗng giao nhau.

Pao sinh ra giữa mùa xuân, mùa của các loại chim di cư và tên hồi nhỏ của chàng là Yến, tên của loài chim báo hiệu mùa xuân đó. Cái tên hợp với chàng làm vì chàng có cái thông minh nhậm lẹ như mũi tên bắn, chắc chắn và chừng mực như đường bay của chim én. Chàng sinh hạ trong một gia đình bao đời qua vẫn giữ nguyên nếp nho phong. Gia tộc nhà chàng đã sản xuất biết bao danh nho, những người đã chán cảnh phù hoa phú quý để lùi về vui thú điền viên cùng cầm kỳ thi họa với các bạn hữu. Chàng mang giòng họ của biết bao vị quan danh tiếng và liêm chính đến nỗi khi chết mà vẫn còn bần hàn nhưng lại được dân chúng địa phương quý trọng và khóc thương cả năm. Cũng có cả những võ tướng, thề quyết trung thành với chúa, với một lý tưởng chứ không chịu bán rẻ lưỡi gươm của mình để đổi lấy lợi danh. Pao là đứa con xứng với danh giá của gia tộc nhà chàng. Cha chàng, người cha mà chàng ngưỡng phục, thường kể cho chàng nghe những điển xưa tích cũ của nước Trung Hoa: nào là quân sư kỳ tài Khổng-Minh, Quan-Công, người đã hiển thánh thành vị thần chiến tranh, Nhạc-Phi vĩ đại anh hùng cứu quốc đời Tống đã có công đẩy lui rợ Hung Nô mà sau lại bị triều đình hãm hại đến nỗi phải chết, chuyện các tay anh hùng cái thế đã dựng nghiệp tạo nên thời Tam-quốc, những tay dũng tướng đã từng dẹp tan các cuộc xâm lăng của rợ Hồ. Chàng thấm nhuần tư cách của bậc chinh nhân nho giáo. Chàng đã học thuộc lòng các đoạn văn có mang ý nghĩa cao thâm và khó hiểu, chàng cũng được dạy bảo về lòng trung thực, căn tốt của tín nghĩa. Tất cả những điều đó, ngay từ lúc chàng chưa tròn mười tuổi. Chàng vẫn thường lắng tai nghe các câu chuyện của người lớn, nào chuyện cách mạng, lý tưởng, nào là quyền lợi, danh dự và tự do. Những cuộc chiến của các vị anh hùng xưa lại thể hiện ra trong lòng chàng dưới một hình thức mới và cha chàng chiếm giữ một vai trò quan trọng.

Người cha đó là một nhà cách mạng - không phải là một tên nổi loạn vô trách nhiệm ngu dốt mà là một nhà quân sự tài ba, đã gia nhập Quốc Dân đảng ngay từ trẻ để âm mưu lật đổ chế độ phong kiến thối nát Mãn-Thanh hầu thiết lập chế độ Cộng-hòa. Ông đã dâng hiến cả đời ông cho lý tưởng này và lòng trung thành của ông không bao giờ suy xuyễn... Ông đã trực tiếp tham dự ngay từ ngày đầu tiên bùng nổ Cách-mạng, ngày mười tháng mười năm 1911 khi quân cách mạng chiếm được Vũ-Hán. Tên ông nằm trong bảng danh sách các nhà đại ái quốc mà nhân dân Trung-Hoa tôn kính hàng năm trong ngày kỷ niệm cách-mạng thành công.

Cuộc cách-mạng đã tiến được nhiều bước vượt bực nhờ tài lãnh đạo của vị lãnh tụ, một y gia trung niên, đó là bác sỹ Tôn-Dật-Tiên. Triều đình Mãn Thanh bị lật đổ, chính thể Cộng hòa được thiết lập với một vị tổng thống làm nguyên thủ. Bác sỹ Tôn-Dật-Tiên đã nhường cái vinh dự đó cho một chính sách quỷ quái còn giữ nhiều tư tưởng cổ hủ là Viên-Thế-Khải. Họ Viên đã âm mưu định tự tôn lên ngôi hoàng đế, nhưng may thay, ông ta bị bệnh và chết đúng ngày đen tối ấy. Trong khi đó, chính thể Cộng hòa còn chưa vững chắc, rơi vào tình trạng hỗn loạn và chia rẽ; thế là kỷ nguyên các xứ quân lại bắt đầu sống lại. Quân đội Cộng hòa đã phải đánh dẹp trong nhiều năm. Sau nhiều trận đụng độ liên tiếp mà không thâu đoạt được chiến thắng nào vẻ vang cả; lực lượng cách mạng sau cùng đã tìm được một vị thủ lãnh, một kẻ kế vị cho Tôn-Dật-Tiên đã nằm xuống... Các xứ quân đều bị đè bẹp và các tỉnh lại được lần lượt thu hồi. Cao trào chiến thắng và oai hùng đó đã đưa đến việc thống nhất nước Trung-Hoa.

Sáu mười ba năm chiến đấu đen tối, cuộc Cách mạng đã hoàn thành được nhờ vào tài ba của một người độc nhật, một sĩ quan Trung-Hoa trẻ tuổi và khiêm tốn nhưng có một ý chí vững chắc như Vạn-Lý-Trường-Thành, quyết liệt như giòng cuồng lưu của các trường giang Trung Quốc. Bởi vì kế hoạch Bắc phạt vào năm 1928 đã được thiết lập và lãnh đạo bởi một người... Tưởng-Giới-Thạch.

Những bước thăng trầm của thân phụ Pao phản ảnh rõ rệt vào đời sống của gia đình chàng tại Bắc-Kinh. Sau khi chúng tôi đến định cư tại con đường bên giòng sông nhỏ tại Bắc-Kinh, sắc thái huy hoàng của nhà Pao giảm dần đi. Số khách khứa đông đảo, những buổi yến tiệc linh đình, những ngựa xe đi lại rầm rập từ sáng đến tối khuya chưa dứt, dần dần chìm vào yên lặng. Những toán quân kỵ với bầy ngựa đeo nhạc lủng lẳng ở cổ, chân nện xuống đất cồm cộp không còn tới nữa. Đám gia nhân cũng thưa vãn dần. Cánh cửa khổng lồ lúc nào cũng đóng hé hờ hững. Gió bốc từng đám bụi mù trong dẫy sân.

Những gia sản của gia đình Pao lần lượt được bán đi để lấy tiền nuôi quân cách mạng... Rất nhiều bạn bè, trước kia đã lợi dụng biết bao điều, bây giờ đều phân tán đi cả, ai cũng cảm thấy sợ hãi và xấu hổ không muốn tên mình dính líu đến một tay cách mạng. Vì thấy sống ở Bắc-Kinh không còn được an ninh, cha Pao liền mang cả gia đình về Hồ-Bắc chỉ để mình Pao lại Bắc-Kinh tiếp tục học. Trong căn nhà rộng mênh mông trống trải với các phòng cửa đóng im lìm, mỗi tiếng động đều có tiếng vang dội lại như trong hang sâu, Pao, một thiếu niên mới mười hai tuổi, sống thui thủi một mình với một người chú họ già.

Tôi không biết nhiều về quãng đời này của Pao. Chúng tôi cũng không còn gặp nhau nữa, vì cả hai đã đến cái tuổi mà người ta coi như không còn là trẻ con nữa. Pao, trên một phương diện nào đó, quả thật đã mất tuổi thơ: Chàng đã tạo cho mình một nét mặt già dặn, chín chắn và tự chủ trong thời gian này. Chúng tôi gọi cái nét ấy là "xung", đôi mắt mở lớn, nhìn chăm chú, đôi môi mím, những thớ thịt hai bên hàm răng hằn lên, tất cả các đường nét trên mặt chàng đều khắc khổ và cứng cỏi. Nghĩa độc nhất của chữ "xung" là "dữ tợn", nhưng nó cũng còn hàm chứa điều khác nữa: cương quyết, nhiệt thành.

Là một học sinh chững trạc trong bộ đồng phục, chăm chú học địa lý, toán pháp và cổ văn. Nhưng Lịch sử mới là đam mê của chàng. Lịch sử, đó là công chuyện của cha chàng. Lịch sử của tương lai. Khi được mười bốn tuổi, chàng gia nhập một đảng cách mạng. Các tay cách mạng thường tuyển đảng viên trong các trường học. Chỉ có giới trẻ mới đủ máu nóng để biết lo lắng khi thấy tương lai và tự do của xứ sở bị bán rẻ. Những người lớn, nói chung, thường uốn mình sống nương theo các xứ quân, chẳng cần lo nghĩ là ngày nào quyền lợi của họ chưa bị đụng chạm tới. Viện Đại học Bắc-Kinh và viện Đại học Trung-Hoa là lò đào tạo của chủ nghĩa xã hội. Chỉ trừ một vài tay có tuổi - biên tập viên báo chí hay các nhà văn - cách mạng là một phong trào của sinh viên học sinh.

Chính phủ - nghĩa là các xứ quân - đều lo ngại và thù ghét phong trào này. Các đại học và trường trung học đều bị khám xét luôn luôn và tất cả các hoạt động đều bị theo dõi ráo riết. Đây không phải là một cuộc khủng bố tàn bạo, nhưng tại Trung Hoa, mỗi khi có đàn áp là luôn có đổ máu và tàn sát. Các thuộc cấp, đôi khi hung tàn, luôn luôn sốt sắng thi hành bổn phận, khi nhận được một lệnh đại cương nhắm triệt hạ một phe cánh, thì việc muốn hiểu mệnh lệnh như thế nào và thi hành ra sao đều tùy họ.

Hàng tuần, vào một buổi chiều nắng ráo nào đó, dân chúng lại tụ họp tại một chỗ gọi là Tu-Ti-miếu, đền thờ thổ địa để xem cảnh xử giảo. Tôi nhớ một lần chính mắt tôi đã trông thấy đoàn xe bò lắc lư tiến về phía đó. Trên xe toàn là đàn ông và thanh niên cởi trần: đó là những tay cách mạng bị kết án đang đi thọ hình. Chung quanh họ là một đám đông náo nhiệt, đến nhìn họ chết như người ta đi xem xiếc. Không biết đó có phải là một nét tàn bạo của dòng giống chúng tôi không? Dù sao cũng thể hiện sự thản nhiên tàn nhẫn trước những đau khổ và chết chóc. Các nhà cách mạng cũng rất thản nhiên. Họ cười nụ cười khắc khổ và còn kêu gọi quần chúng cho đến phút cuối cùng của đời họ. Đôi khi họ đã làm hồi tâm được một vài người bằng cách này. Một buổi chiều, khi hoàng hôn vừa đổ xuống, Pao lách khỏi cửa, bước ra ngoài đường phố xám vắng. Chàng sẽ đi luôn không còn về nữa. Chàng bước khỏi nhà, bình thản với một cuốn sách toán dưới nách làm như định đi đến nhà bạn để cùng học thi. Ít ra chàng cũng đã nói với ông chú già như vậy.

Nhưng lần này chàng lại đi theo con đường của đám học trò, lách qua rẽ lại nhiều lần trước khi đi đến khu Tây của thành phố. Mặc dù là nằm trong vòng thành, nhưng khu này còn đang xây cất dang dở. Các phố xá trông giống như các con đường trên cánh đồng hoang. Pao đến một điểm hẹn của các tay cách mạng: một ngôi đền nhỏ nằm khuất trong bóng tối của một cây đại thụ và cách xa lề đường.

Chàng lầm lũi đi, giữa những bức tường đỏ chót. Ngay trước các bực thềm thấp và rộng dẫn lên chánh điện là một cái đỉnh đồng thật lớn, trông giống như cái nồi ba chân khổng lồ. Ở hai bên đỉnh là một cái trống tròn to và một cái chuông đồng. Vào giờ tụng kinh sáng hay chiều, ông thủ đền đốt ba nén hương cắm trên cái đỉnh đồng, gõ mấy tiếng chuông và gióng lên một hồi trống, đốt mấy ngọn nến trước các tượng thần thánh trên bàn thờ. Trong cảnh tranh tối tranh sáng chỉ có các bức tượng là hiện rõ với những nụ cười nhẹ nhàng, xa vắng.

Pao và các đồng chí họp nhau trong một khoảng trống ở phía sau bàn thờ. Họ gặp nhau tại đây để nhận các chỉ thị mật cho chương trình hành động. Tiếng khua lách cách của chiếc máy in quay tay bị các bức tường và cây cối bưng bít. Chẳng có mấy nhà ở gần để có thể nghe thấy. Họ đã mua được ông thủ đền. Cái công việc chính trị đối với ông chẳng có quan hệ gì. Họ đã xử dụng chỗ này làm chỗ họp mặt từ mấy tháng nay. Chẳng có gì đáng lo ngại.

Bóng tối đổ xuống dần dần. Từng đàn quạ bay về các đình chùa ở khu Tây kêu lên quang quác rồi xà xuống cây đại thủ trước cổng đền, cất bổng lên, lững lờ bay nhiều vòng quanh cây rồi sau cùng, khi trời đột nhiên tối sầm lại, hạ xuống đậu cả trên cây. Đêm tối hoàn toàn yên lặng. Họa theo tiếng mõ nhịp nhàng, tiếng ông thủ đền tụng kinh đều đều trước bàn thờ. Trong cái hộc phía sau các tượng thần thánh, một ngọn đèn mờ hắt lên tường bóng dáng các khuôn mặt trẻ măng, nhiệt thành, chăm chú. Tiếng lách cách từ chiếc máy in vẫn đều đều, từng tờ giấy đầy các lời đòi hỏi tự do nguy hiểm được in ra. Không có gì đáng ngại...

Sau các bức tường mầu đỏ, đám binh sĩ của chính phủ đang lặng lẽ khép kín vòng vây. Một vài tên địch - hay tên phản bội nào đó đã tố cáo... Các tên lính đều không mang súng đạn, chúng chỉ cầm những chiếc mã tấu to bản, dài chừng một thước rưỡi đựng trong các bao mầu đỏ thẫm. Người ta đã hạ lệnh cho họ hành động thật gọn, nhanh và yên lặng để không gây náo động. Tiếng ồn ào có thể khiến phải tổ chức các cuộc điều tra phiền phức, bởi vì trong đám đó có rất nhiều trẻ thuộc các gia đình có địa vị quyền thế.

Sau khi đã làm một vòng vây khép kín ngôi đền, các binh sĩ liền phá cửa. Dấu hiệu báo động chỉ báo trước có một giây đồng hồ: tiếng quạ bay vút lên khỏi đám lá cây, tiếng cánh cửa đập mạnh vào tường khi bị húc mạnh. Họ đã tấn công bất ngờ, đám trẻ con không tự vệ. Máy in, một bằng cớ vô phương chối cãi nằm trong tay chúng. Nhưng ngay đúng lúc đó, vừa vượt qua bức tường ngoài, Pao lẩn vội vào bóng đêm của các lùm cây. Chàng tránh né cac toán gác phía ngoài để bắt các kẻ chạy trốn - Chàng đã biết cách tránh né ngay trong bóng tối - và chẳng bao lâu chàng đã bỏ xa đám lính săn đuổi. Một vài đồng chí của chàng cũng chạy thoát được. Những người bị bắt đều bị quỳ giữa sân và bị xử chém ngay tại chỗ. Họ chất đầy củi trong cái đỉnh đồng, rồi các đầu lâu và thân người đều bị đốt thành tro. Chẳng còn gì chứng tỏ sự hiện diện của những thanh niên chưa đến tuổi hai mươi, những quả cảm, đã lấy sinh mạng để trả giá cho những tư tưởng tiến bộ ấy. Nhiều năm sau, số mạng bi thảm của họ mới được khám phá ra.

Pao lẹ làng chạy khỏi nơi đó. Suốt đêm ấy, chàng đi lang thang trên các đường phố hay trốn tránh các toán tuần tiễu. Chàng không dám quay về nhà. Họ đã khám phá ra tên chàng, họ có thể đến bắt chàng ở đó. Chàng cũng không thể về trường. Nơi đây, mọi người đều biết rõ đồng chí và bạn bè của chàng. Nếu xuất hiện, thế nào họ cũng bị hạch hỏi. Tất cả những chỗ mà chàng quen biết, không chỗ nào có thể trốn tránh cả. Mới mười bốn tuổi, Pao đã phải tự lo lấy nỗi an nguy. Ông chú già không thể giúp chàng. Cha chàng lại ở xa, tận miền Nam. Chàng hoàn toàn đơn độc.

Sáng đến, chàng lẩn giữa đám đông náo nhiệt đang đợi mở cửa thành để bắt đầu một ngày sinh hoạt mới. Lẫn lộn trong đám đông, chàng vượt qua các trại lính gác vô sự. Có lẽ còn sớm quá nên lịnh truy nã chưa đến kịp. Thế là Pao ra khỏi Bắc-Kinh; từ đó, trong túi chỉ có 10 quan kim, chàng đi về Thiên-Tân, cách Bắc-Kinh hàng mấy trăm cây số. Chàng đi mãi cho đến khi gặp một đoàn xe lừa chở đầy hàng hóa cũng đang tiến về phía Tây. Pao đúng là một đứa trẻ của thành Bắc-Kinh, tâm trí thật nhậm nhẹ, đặc tính điển hình của vùng này. Chàng biết rất nhiều các mẩu điển tích thu thập qua các bài học hay qua các lần xem kịch. Với cái miệng mau mắn, chàng đi đâu mà chẳng lọt. Chàng có thể là một bạn đồng hành vui tính và các người đánh xe lừa đều khoái chí mà cho chàng quá giang, ngồi ngất ngưởng trên đống hàng. Dọc đường, cũng với cái miệng mau mắn, chàng đã xin được tá túc qua đêm tại các nông trại. Sau bẩy ngày lặn lội, chàng đã đến được Thiên-Tân, từ đây chàng đáp tầu thủy đi Thượng-Hải và bắt được liên lạc tại đó. Đây là câu chuyện Pao kể lại mỗi khi chàng muốn kể. Khắc khổ, chính xác, không lo nghĩ vẫn vơ về các nỗi sợ hãi, mệt nhọc, thương tiếc các đồng chí hay về các nỗi kinh hoàng, cô đơn và vô vọng. Chàng không hề cho cuộc hành trình đó có gì là phi thường cả.

Tuy nhiên, nhiều năm sau, tôi không khỏi thắt bụng mỗi lần nghĩ đến chàng thiếu niên tự tin đã quay gót từ bỏ ngôi nhà quen thuộc, từ bỏ những bức tường thành xám ngắt phong rêu của Bắc-Kinh, bước đi không hề một lần quay lại thương tiếc.

Đối với cả hai tôi, Bắc-Kinh là tổ ấm không nơi nào có thể thay thế được. Mặc dù những thảm cảnh diễn ra hàng ngày, không khí vẫn khoác một vẻ bình yên, một sự nhịp nhàng trầm lặng bất biến. Nơi đó phảng phất một vẻ đẹp, nổi bật trong cái dáng buồn trang trọng của thành phố. Chúng tôi đã khơi lại đóng tro tàn lịch sử đầy dẫy các cuộc xung đột và hào quang, nhiều đến nỗi, chúng tôi đã đạt được tâm hồn chín chắn, một trí khôn trước tuổi.

Vẻ đẹp của Bắc-Kinh không phải chỉ là một thắng cảnh dễ nhìn. Cần phải có một danh từ mới để diễn tả vẻ đẹp đó, bởi vì nó tỏa ra một sức mạnh, một hào khí, một vẻ trang nghiêm tôn kính, bầu trời xanh ngắt, một mầu xanh cô đọng nhưng mỏng manh đến cái độ có thể bị rạn nứt như một chiếc bình sứ nếu như các tiếng động trong thành phố mà vang lớn hơn tiếng thì thào. Nhưng đám thị dân Bắc-Kinh lại có vẻ hiền lành và tiếng nói của họ nghe nhẹ và mơ hồ, tiếng bánh xe nghiến trên mặt đường bị tắt nghẹn trong đám bụi và các tiếng động trên đường phố đều nhịp nhàng, nỉ non, đến cái độ mà bầu trời cong vút trên đầu vẫn còn nguyên vẹn. Tại chân trời, rặng núi Tây đứng sừng sững mầu xám, xanh hay tím ngắt tùy theo từng lúc trong ngày. Buổi chiều, dẫy núi biến sang màu đen xám che khuất ánh mặt trời đỏ rực mầu lửa đỏ đang từ từ lặn. Những mái ngói của một triệu căn nhà, những mái ngói ánh mầu vàng của các dinh thự duỗi ra như thể đang vươn tay ban phước lành cho mỗi người. Những tường thành xanh, xám vững chắc như những ghềnh bao bọc lấy thành phố - đó là bức tường phòng vệ của quá khứ xa xưa, ngày nay nó trở thành vô vọng trước những thứ vũ khí tối tân của một cuộc xâm lăng mới, cũng tàn khóc như xưa, nhưng lại hữu hiệu hơn là mối đe dọa xâm lặng của các rợ Hồ miền Bắc.

Còn với tôi, các biến cố không xảy ra quá đột ngột như vậy. Khi lớn lên, tôi đã học các lớp trung học và đại học tại Bắc-Kinh. Những năm trưởng thành của tôi cũng là những năm mà quê hương được thống nhất và thanh bình, tất cả các phe nhóm sau cùng đã thỏa thuận được với nhau. Tuổi trẻ có nghĩa là ái quốc và yêu nước Trung-Hoa với tất cả nhiệt huyết. Tương lai chỉ là hứa hẹn và hy vọng... lứa tuổi chúng tôi được hưởng một thứ tự do mới. Chúng tôi đã thoát ra ngoài vòng kiểm tỏa của gia đình cổ hủ để tìm thấy một lề lối giải phóng và một hướng đi tại đại học. Đó là một phong cảnh tuyệt vời với những bải cỏ láng mướt, những hàng cây lả lướt, với một dòng sông nhỏ lượn quanh, với mái chùa cong vút, với những dẫy nhà còn đọng vẻ cổ xưa. Giáo sư của chúng tôi là những nhà bác học từ khắp thế giới và những học giả uyên bác nhất của Trung-Hoa. Thư viện của chúng tôi chứa đủ các tác phẩm Trung-Hoa cùng tất cả các loại sách ngoại ngữ. Trong những phòng học rộng mênh mông, chúng tôi đã say sưa tìm kiếm những kiến thức mới mẻ. Chúng tôi đã say mê bàn luận về triết học, chính trị và thần học. Cái gì cũng đều là mới mẻ. Không gì có vẻ khó đối với chúng tôi cả. Chúng tôi học làm quen với một thế giới mới, bác bỏ những tranh luận, những thiên kiến cổ hủ, và với lòng tự tin, với tuổi trẻ, công việc không có gì là khó.

Hàng rào truyền thống ngăn cách gái trai bị dẹp bỏ trong một không khí bằng hữu cởi mở. Chúng tôi học chung, bàn luận chung. Tối đến, chúng tôi thường tựu họp trên các gác lửng của các dinh thự lớn ở Bắc-Kinh - khoảng một trăm hay hai trăm là nhiều - chỉ cần căn phòng đủ lớn thôi. Các cô mặc áo dài vẽ hoa, áo xường xám với thân áo mỏng và bó sát lấy người và trên đầu cài một vài bông hoa. Nếu có nhạc, con trai con gái nhẩy với nhau theo các điệu vũ tây phương. Chúng tôi còn kéo nhau đi cắm trại trên thảm cỏ xanh, đọc dòng sông nhỏ lượn quanh khu đại học. Dưới ánh trăng thu vằng vặc (trăng Bắc-Kinh sao mà sáng thế), dưới rặng liễu uốn bên bờ hồ Bạch-Hà, chúng tôi ngâm những câu thơ Lý-Bạch. Đôi khi chúng tôi chèo thuyền cho trôi lờ lững trên những dòng kinh, chui qua các dạ cầu, lướt qua những bông sen vươn lên trên đám lá xanh nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Xa xa vọng lại một giọng sáo thì thầm hay một điệu đàn thập lục hoặc một lời ca tình ái.

Mặc dù có những điều mới mẻ đó, chúng tôi vẫn còn giữ một truyền thống căn bản từ ngàn xưa trong nghệ thuật sống hạnh phúc và tiện nghi. Không có nơi nào mà những thứ vui và đam mê lại được đẩy đến mức tuyệt trần như vậy. Các hàng ăn ở Bắc-Kinh luôn luôn là một đề tài được nhắc nhở và bàn cãi sôi nổi: ở khu Tây có đủ quán của người Hàn, người Hồi, người Thát-Đát. Tại các tiệm của người Hán, người ta sẽ bồi tiếp bạn hết đĩa này qua đĩa kia, toàn là những món ăn thượng hạng mà bạn không thể gặp ở đâu khác: rau tươi ngọt lịm, sốt ngon đứt lưỡi thịt, mềm tuyệt, cá ướp ngũ vị hương nướng thơm điếc mũi, vịt quay vàng ngậy cùng các món gia vị hiếm lạ; có thể nói đó là một sự hòa hợp các hương vị đến chỗ tuyệt hảo, đưa khẩu vị lên đến xứng đáng được liệt vào hàng ngũ các ý niệm mỹ thuật cao cả nhất. Trong các tiệm ăn của người Thát-Đát, người ta nướng cả con cừu trên ngọn lửa sáng rực giữa sân, theo đúng tập quán của những bộ lạc sống trên các cánh đồng cỏ heo hút ở xứ Mông-Cổ. Những miếng kính dài hàng thước treo lủng lẳng dưới các mái nhà uốn cong. Ánh lửa ấm, sáng đỏ, mùi khói khét của than củi, thịt chín đỏ bắn tung ra từng giọt mở cháy sèo sèo trên đám than hồng. Thực khách ăn uống phủ phê, ăn đến độ không còn ăn được nữa để khi ra đi, bụng đã vững hầu chống lại khi đêm rét mướt.

Cuốn lịch cũ tức là âm lịch, đầy những ngày lễ, tết; mỗi ngày lại có một cái cớ - nếu thực sự cần một cái cớ - để mời bạn bè thân thuộc đến thưởng thức các món ăn đặc biệt của từng mùa hay để đi từ nhà này sang nhà kia, từ bạn này sang bạn khác mà ăn mà uống; ăn, lúc nào cũng ăn. Ngày tết Đoan Ngọ với những cái bánh ú, tết Trung Thu với bánh dẻo bánh nướng, tết Nguyên Đán với bánh tét, bánh ngọt và các bánh "quế" mỏng như tờ giấy cùng những loại rau đầu mùa.

Mỗi khi nhớ đến Bắc-Kinh là lòng chúng tôi lại thấy trống rỗng và cô đơn. Nhà chúng tôi - căn nhà bé nhỏ ở đầu đường của gia đình tôi và cái dinh cơ đồ sộ với các dẫy nhà nối đuôi nhau của gia đình Pao - đứng lặng lẽ và hoang tàn. Người giữ nhà chập chững bước ra khỏi phòng để hứng lấy ánh nắng mùa đông. Đấy là sinh vật duy nhất còn qua lại trong dẫy sân hiu quạnh... Chúng tôi nghĩ đến Bắc-Kinh với cái tên kiêu hùng như là "Kinh Đô Miền Bắc". Chính tại nơi đây, hai đứa chúng tôi đã cùng nhau thả bộ đi xem các dinh thự trong Hoàng thành - những bức tượng đỏ như son, những mái ngói vàng óng rực rỡ - khắp sân điện lót đá cẩm vân với những dẫy hành lang trạm trổ đầy những sư tử cùng kỳ lân - hàng tảng đá bạch vân đã được hàng ngàn thớt voi chở từ các mỏ đá từ các vùng biên giới Miến-Điện, qua hàng ngàn cây số của nước Trung-Hoa rộng bao la. Đấy, cái huy hoàng cùng cực của các vị hoàng đế từ hàng trăm năm qua ở cả đấy. Máu, mồ hôi đã cất lên những dinh thự điện đài của Hoàng cung; đó là chưa kể những sưu cao thuế nặng đánh lên đầu đám dân nghèo. Đối với nhiều người trẻ tuổi Trung-Hoa, đó chỉ là những dinh thự của bạo lực độc tài.

Đúng lắm! Nhưng hãy im lặng mà ngắm cái vẻ hùng vĩ của nó dưới ánh nắng mặt trời. Mọi thứ đều cân bằng, chắc chắn, chính xác: các bãi sân im lìm, phẳng như mặt nước, kiến trúc đúng theo phương hướng và chuyển vận mặt trời đông, nam, tây, bắc. Các lớp sân trước nhà cứ cao dần làm nền cho các cung điện hùng vĩ với những lớp tường đỏ chót, rực rỡ óng ánh còn hơn ánh mặt trời chiều; với những cái cổng tò vò lớn; với những mái nhà vàng óng ánh uốn thành những vòng cung dũng mạnh. Đó là hình dạng mà người ta tưởng tượng ra về nước Trung-Hoa. Bạo lực và độc tài đã dựng các khối đá cẩm thạch, đã đặt các cây xà trên các mái ngói. Đúng vây. Nhưng những hình đồ chính, những tỷ lệ căn bản, chính xác, cái vẻ đồ sộ, những cái gì có thể giải phóng tâm hồn, đó mới chính là thần sắc của toàn thể nước Trung-Hoa. Cá nhân chỉ là một hạt cát, chỉ có quốc gia mới hiện lộ ra. Không có một vị hoàng đế nào xứng đáng với tất cả cái huy hoàng vĩ đại đó. Không một kiến trúc sư nào lại có thể tự mình ý niệm được một kiến trúc hùng vĩ, cùng những vẻ tráng lệ với những mầu sắc, đường nét giản dị và dũng mạnh đến thế. Sắc thái vững chắc, sự yên tĩnh trầm thẳm, sự hòa hợp giữa trời với đất, tất cả những cái đó là một thực hữu rốt ráo dưới hình thức của cái đẹp hiển hiện trong nhân sinh quan của người Trung-Hoa.