CHƯƠNG HAI NHỮNG NGÀY TRÊN ĐẤT ANH
Thứ mà chúng tôi thích nhất khi ở trên đất Anh là cỏ, những bãi cỏ được cắt tỉa, xanh mướt, mềm mại đã được trồng sới vun đắp hàng vài ba trăm năm nay. So với những cánh đồng cỏ khô cằn vàng úa mầu bụi cát của miền Bắc Trung-Hoa, so với những mùa đông lạnh cắt thịt, những mùa hè nóng thiêu đốt, cái thảm cỏ xanh mướt ăng-lê này là một kỳ quan đầy hứng thú. Tôi nhớ lại kỷ niệm mùa hè đầu tiên sống ở miền quê, trong vùng Kent, khi tôi và Pao gặp nhau nơi xứ người, một nước Anh còn thanh bình, nguyên lành dưới ánh mặt trời dìu dịu hay những hạt mưa êm đềm. Không khí như thơm mùi mật. Mặt trời sắc óng như mật vàng, không bao giờ quá nóng. Ánh sáng trong suốt ôm ấp một hơi mát lạnh, giống như một thanh kiếm vừa nhẵn thín vừa sắc như nước.
Chúng tôi là những người được ưu đãi trong cái thế giới đó - chúng tôi, Pao và tôi đã nhận được nhiều thư nhà trong khoản thời gian này. Pao đã hai mươi tuổi, tôi còn trẻ hơn nữa. Chúng tôi được tự do, thứ tự do mà ít thanh niên Trung-Hoa được thưởng thức. Chúng tôi đã được đặc quyền xuất ngoại, học tại ngoại quốc. Trong cái không khí mới mẻ này, chúng tôi tạm quên đi những lo nghĩ quá nặng nề đối với số tuổi của chúng tôi, quên đi những xáo trộn bi thảm của thuở thiếu thời. Những cái tang mới cũng hình như xa lạ hơn và bớt đau nhức hơn. Chúng tôi là những kẻ được may và hơn thế nữa, nhờ vận may, hay đúng hơn là do định mệnh, cái định mệnh đã đưa đẩy chúng tôi vào hai con đường khác biệt để rồi lại kết hợp chúng tôi lại một cách hết sức kỳ lạ nơi đất khách quê người.
Khi Pao trốn khỏi Bắc-Kinh, chàng chạy về với gia đình tại Hán-Khẩu. Mười bẩy tuổi, chàng được gửi đến Nam-Kinh theo học tại trường Võ-bị Trung-ương để trở thành một chiến sỹ. Trường này đã được các lãnh tụ cách mạng thiết lập để huấn luyện các sỹ quan trẻ theo một mẫu mực mới: hiểu biết, kỷ luật và trung tín. Những người trẻ tuổi đó đã được lọc lựa để tạo thành cái nhân cho các quân đoàn của Trung-Hoa, họ phải khác biệt với cái bản chất ngu dốt, ích kỷ của các xứ quân và đám bộ hạ. Họ được trao phó trọng trách tái lập trật tự và hòa bình, tái chinh phục các tỉnh miền Đông-Bắc đã rơi vào tay Nhật-Bản, tiêu diệt đế quốc ngoại ban dù đó là các đạo quân xâm lược hay là một thứ xâm lăng khôn ngoan hơn của tư bản quyền lực. Nói tóm lại, họ được trao phó trọng trách phải tái lập một nước Trung-Hoa độc lập và thống nhất.
Chỉ huy trưởng trường là Thống-tướng Tưởng-Giới-Thạch, người nổi tiếng như là vị lãnh tụ đã hướng dẫn cách mạng trên đường chiến thắng. Cứ mỗi sáng chúa nhật, ông lại cho tập họp ba ngàn sinh viên sĩ quan trước thao diễn trường để nói chuyện liên tiếp ba bốn giờ liền.
Con đường học vấn của Pao tại trường Võ bị Trung ương lên đến tột đỉnh vinh quang, khi chàng được chọn làm một trong ba người được gửi đi theo học tại ngoại quốc. Tướng Bạch-Chung-Si, cục trưởng quân huấn đỡ đầu cho một số rất ít các sinh viên Trung-Hoa, được tuyển chọn hàng năm trong những người xuất sắc nhất để gửi theo học nghệ thuật quân sự với các sỹ quan nước bạn. Pao được gửi đi Sandhurst để theo học tại trường Võ bị Hoàng-gia và trường Pháo-binh, những trường Võ-bị nổi tiếng của Anh quốc. Chàng đến xứ Anh với tư cách là một sinh viên, nhưng đồng thời cũng là người đại diện cho quốc gia và giống nòi ở xứ người.
Dù vậy, điều vinh quang đó lại có một cái tang đau đớn đi kèm: thân phụ chàng mất. Người ngoại quốc khó có thể hiểu được cái cảm tình mà Pao dành cho cha chàng, nó vượt quá tình yêu thương và bổn phận thường tình. Nó mang nặng một ràng buộc chặt chẽ gần giống như trong tôn giáo, bởi mối liên quan phụ tử là một trong bốn đức tính mà nho giáo coi như tối thượng.
Ngay từ thời thơ ấu, Pao đã coi cha chàng như một vị anh hùng và lý tưởng của ông là ngôi sao sáng hướng dẫn đời chẳng.
Trong khi đang chơi bóng rổ, Pao được gọi lên văn phòng để nhận một điện tín. Bức điện chỉ vỏn vẹn có mấy chữ: "Con thân yêu, cha bị bệnh". Khi đọc xong, Pao biết rằng cha chàng sắp mất.
Không có lý do nào trọng hệ hơn có thể khiến cho người quân nhân khắc khổ đó phải nói về bệnh tật của mình. Pao quay gót, vội vã về phòng để được giam mình trong cô đơn. Chàng không thể làm nhục đến cha trong việc biểu lộ tình cảm trước mọi người.
Ngày hôm sau, chàng lên tầu về Hán-Khẩu. Khi chàng đặt chân lên thành phố thân yêu này, khi chàng về đến con phố cũ, tim chàng chết lặng. Những chiếc đèn lồng trắng đã được treo trên cửa ra vào. Mầu trắng! Mầu tang tóc! Chàng đã về quá muộn. Bước qua thềm, chàng nghe thấy tiếng kêu khóc, tiếng đàn bà than vãn. Họ kêu gào tên cha chàng, van xin người hãy trở lại. Pao băng qua sân, mặt dắn đanh lại và xung lên, tiến về phía đại điện nơi đặt chiếc quan tài do một thân cây xẻ hai đã được đóng kín. Trước quan tài, thân mẫu Pao đang quỳ khóc và kể lể. Pao, người con trưởng, đứng thẳng tắp và cứng ngắc trong bộ quân phục nói lớn:
- Không một ai được khóc, nếu không tôi sẽ bước đi ngay!
Khi người ta khiêng quan tài ra ngoài ngoại ô để chôn, Pao đi giữa đám người khóc than, đầu ngửng cao. Trong khi đi đường, không một ai lớn tiếng kêu gào như thường lệ. Trước mộ, người ta cúng vái người chết bằng cách đốt tiền vàng, đốt pháo, lầm rầm khấn vái và tấu nhạc cử ai với các loại đàn giây và chiếc cồng để tống tiễn linh hồn người ra đi. Mẹ Pao mặc cái áo sô, cuối thân sổ tua đầu chít vành khăn tang trắng, đứng chết lặng bên đống đất mới đắp, người run lên trong cơn đau khổ thầm lặng. Những họ hàng thân quyến đều yên lặng không dám cất giọng khóc thương vì Pao, ông con trưởng và cũng là người cử ai chính đã cấm đoán. Và chàng, chàng đứng thật nghiêm và thật thẳng, mặt chàng đanh lại như được khắc trong đá.
Khi Pao rời gia đình để đi Anh quốc, chàng cũng chẳng hứa hôn với ai. Đó là một điều bất thường đối với cậu ấm của một danh gia, vốn có bổn phận phải nối tiếp tông môn. Chàng còn trẻ. Chàng chỉ rời quê hương mấy năm. Nếu chàng uốn mình theo cổ tục hay ý muốn của mẫu thân, chàng đã phải quỳ gối trước bàn thờ tổ tiên với một cô gái xinh đẹp do gia đình lựa chọn. Sau khi chàng xuất ngoại, vợ chàng sẽ ở lại nhà chàng và hiếu thuận hầu hạ mẹ chồng. Nếu mọi sự đều êm đẹp, cô nàng sẽ cho gia đình một đứa con trai. Nhưng sau bao nhiêu năm làm quen với tinh thần tự do của Âu tây, tâm hồn biến đổi cách tế nhị khi giao tiếp với một nền văn minh khác - thật là kỳ quặc, phải sống với người đàn bà xa lạ, với đứa con e dè, sợ sệt người cha nó chưa hề gặp mặt.
Gia đình Pao rất muốn có một nàng dâu. Ngay từ lúc mới sáu mươi, thân mẫu Pao đã lo chọn một vị hôn thê trong đám các gia đình quen thuộc cho chàng. Nhưng Pao không phải là hạng người khuất phục trước nghịch cảnh. Khi biết là gia đình đã nhắm được một cô dâu và việc mai mối sắp sửa bắt đầu, chàng bỏ nhà đi biệt tích hai tháng. Thân mẫu chàng chấp thuận hoãn cái công việc nhàm chán đó hai năm rồi lại bắt đầu đi tìm cô con dâu hoàn toàn khác. Nhưng Pao không còn để cho ai dỗ dành lần thứ hai nữa. Thân mẫu chàng đồng ý để thu xếp cho chàng giáp mặt với cô gái mà bà đã kén chọn, coi đó như là một hành động thật trái với lệ thường.
- Nó đẹp lắm, bà hứa hẹn. Rồi con sẽ thấy!
- Nhưng, Pao trả lời, làm sao còn có thể lấy một người mà con không quen biết? Làm sao còn có thể sống gần gũi với cô ta suốt ngày này qua ngày kia cả đời? Làm sao con có thể chia sẻ những tư tưởng, những ước vọng của con với một người xa lạ? Việc cô ta có đẹp không đối với con không quan hệ bằng việc con cần biết tâm hồn cô ta ra sao. Và làm sao con có thể biết được trong một lần gặp mặt ngắn ngủi. Còn cần phải tự chọn lấy một người biết giữ được danh giá của gia đình, người vợ sẽ cho con những đứa con mà con sẽ hãnh diện. Giữa hai vợ chồng, cần có sự kính trọng và thông cảm lẫn nhau. Con không thích sau này sẽ bỏ rơi người vợ mà gia đình đã cưới cho lúc còn trẻ, để lấy một người vợ thông minh trẻ đẹp hơn như nhiều người khác vẫn làm. Con cũng không muốn có cảnh vì chán người vợ do gia đình lựa chọn mà lại đi cưới thêm thê thiếp. Hôn nhân phải là sợi dây ràng buộc vững chãi, một sự thỏa thuận dứt khoát cho cả hai người đàn ông lẫn đàn bà. Đó là một lời ưng thuận tự do chứ không phải vì ép buộc. Đây là lý do tại sao sau khi ý thức được trách nhiệm của mình, con muốn tự chọn lựa lấy. Không ai có thể chọn lựa hộ con được.
Thân mẫu chàng ngạc nhiên tột độ. Đúng là những tư tưởng tân thời và nguy hại của lớp trẻ. Nhưng từ xưa đến giờ Pao vẫn theo đúng truyền thống cũ cơ mà. Không phải chàng chỉ bắt chước rởm những phong cách của người Âu tây, mà chỉ vì chàng đã suy ngẫm và cân nhắc những lý tưởng của đời sống gia đình Trung Hoa và đặt lại vấn đề. Chàng có đủ tinh thần độc lập để suy nghĩ lấy, để chọn lấy những điều hay mà giữ, thấy điều dở mà sửa bỏ. Thân mẫu chàng vẫn chưa hiểu được thái độ của chàng. "Đó chỉ là một giai đoạn tạm thời, bà tự nhủ như vậy, hãy để vài năm nữa và Pao sẽ qua cái tuổi niên thiếu bướng bỉnh này đi."
Trước khi xuất ngoại, thân mẫu chàng đã van vỉ chàng hãy lấy vợ sau khi đã thăm dò một gia đình quen có một cô gái đến tuổi cập kê. Nhưng lần này Pao lại bướng bỉnh hơn bao giờ hết. Chàng từ chối không chịu nghe ngay cả cái tên của cô gái đã được chọn. Cái cô gái thứ ba được thân mẫu Pao chọn làm dâu này... chính là tôi...
Pao lên tàu đi Anh, tâm hồn hoàn toàn thanh thản, hoàn toàn tự do không vướng mắc với bất cứ sự kết ước nào của gia đình.
Vào dạo ấy tôi không biết rõ mấy về các cuộc mai mối đó. Tôi không lạ gì việc chú tôi (trở thành giám hộ của tôi khi song thân tôi qua đời trước đó vài năm) vẫn tiếp xúc với gia đình muốn ngấm nghé tôi. Nhưng tôi không tin tưởng gì vào hôn nhân, tôi đã quen với nếp sống tự do ở đại học. Tôi say mê trong việc học hỏi khoa học và tôi đã quyết định dâng hiến đời mình cho một nghề nghiệp. Nếu cứ chiếu theo bản chất tự nhiên, tôi sẽ theo ngành văn chương. Nhưng cũng giống như cả thế hệ của tôi, tôi hăng say mong muốn phục vụ xứ sở và thấy rằng các danh từ rỗng tuếch chẳng mang lại lợi ích và sức mạnh gì cả. Khoa học là vị thần, một vị thần vạn năng sẽ biến Trung-Hoa thành một nước giàu có và hạnh phúc. Võ trang bằng các ống nghiệm cùng các động cơ, chúng tôi sẽ mang lại thịnh vượng cho đất nước và ấm no cho hàng triệu dân, tiêu diệt bệnh tật và nghèo khổ. Đó là lý do tại sao tôi đã xếp xó tất cả những cuốn sách mà tôi yêu mến, những cuốn thơ, những vở kịch, những cuốn tiểu thuyết để suốt ngày chúi đầu trong các phòng thí nghiệm và cặm cụi trên các công thức cùng các biểu đồ.
Nhưng tôi không có khiếu trong việc nghiên cứu trừu tượng. Tôi cảm thấy cần ứng dụng tất cả những hiểu biết khoa học của mình như một công cụ phục vụ một mục đích thiết thực. Rồi bất ngờ, nhân một hôm đến bệnh viện thăm một người bạn gái vừa mới sinh, tôi đã tìm thấy công việc mà tôi có thể xử dụng đến mớ kiến thức về sinh vật học và hóa học của mình. Đó là nghề cô đỡ! Tôi liên tưởng ngay đến các bà "mụ quê" với những móng tay dài cáu ghét, bẩn thỉu, với những lời phù chú lầm rầm nơi cửa miệng để xua đuổi tà ma định hãm hại sản phụ và hài nhi, thông thường là thiếu hiệu quả, vì tôi luôn thấy những chiếc đèn lồng trắng tang tóc treo trên cửa nhà, một cổ quan tài đen xám hay là một cái hòm gỗ thô kệch, đôi khi chỉ là một bó chiếu cũ rách được mang ra nghĩa địa. Nhưng nơi đây, tất cả đều sạch bóng, tinh khiết; nơi đây người ta tận dụng mọi khả năng của khoa học để giảm bớt cơn đau xé ruột của sản phụ, người ta chiến đấu với mọi nguy hiểm để cứu lấy sinh mạng non yếu của hài nhi. Đó chính là ý nguyện của tôi.
Tôi dẹp hết tất cả những dự định hôn nhân của chú tôi và thuyết phục được chú gửi tôi sang Anh quốc để học về nghề đỡ đẻ.
Những ngày dài trong lớp học và những ngày dài trong phòng thí nghiệm, quan sát các dung dịch biến từ mầu này sang mầu kia trước những tia nắng xuyên qua khung cửa sổ. Ở ngoài, trời mưa, những cơn mưa muôn thuở của xứ Anh; những mặt lộ sũng nước bóng loáng; những chiếc áo mưa chen lẫn nhau trên hè phố. Lại có những ngày dài trong phòng đẻ, cúi mình trên các sản phụ rên rỉ và quặn mình đau đớn; mùi ê-te hắc sộc lên mũi, mùi thơm ngọt của thuốc mê; những giây phút hồi hộp khi một sinh mạng mới chào đời. Nỗi phập phồng trong giây phút đầu tiên của đứa bé trước khi cất tiếng khóc the thé chào đời; nỗi vui mừng hớn hở khi mọi việc tiến hành tốt đẹp không trở ngại. Những ngày dài trong các phòng bà đẻ hay các phòng nuôi trẻ để nhìn ngắm sự sung sướng hau háu của những cái miệng tí hon nghiến ngấu nơi vú mẹ, nỗi hân hoan hiện rõ trên nét mặt của bà mẹ; và khắp mọi nơi đều bao trùm mầu trắng tinh khiết và mùi hương thơm của bó hoa. Cũng có những trường hợp bi thảm: Những giây phút kinh hoàng bất ngờ trước một trường hợp băng huyết hay những cơn đau cùng cực hay những hồi mê lim báo hiệu bóng dáng tử thần trên ngưỡng cửa của cuộc sống. Nhưng những trường hợp đó thật họa hiếm. Nơi đây thật không giống với quê hương tôi chút nào; tại đất nước tôi, các bà mẹ thường đợi chờ phút giây kinh hoàng ấy trong lo âu, thông thường một trăm vụ thì có hai ba vụ sẽ xảy ra thảm cảnh chết người khi lâm bồn và năm mươi phần trăm các đứa nhỏ không có hy vọng sống qua một năm. Mỗi khi tôi ôm những đứa trẻ mắt xanh biếc, đầu hói nhẵn hay lơ thơ một vài sợi tóc hung, tôi không khỏi nghĩ đến các đứa trẻ Trung-Hoa, cặp mắt và mái tóc đều đen và tôi mong muốn các đứa trẻ đó cùng các sản phụ đó cũng dược săn sóc như thế này, cũng được chăm chút chống lại bàn tay tử thần như thế này.
Các ý niệm về sự thiêng liêng cao cả cùng nỗi kinh hoàng của các cuộc sinh nở đã khiến tôi càng ngày càng ý thức giá trị của cuộc sống, và cái giá trị không thể vì của mỗi một sinh mạng mới chào đời qua tình yêu và đau đớn.
Vào hồi ấy, có điều gì đó đã thay đổi lề lối suy nghĩ của tôi. Tôi cần phải kể ra nơi đây, bởi vì khi viết cuốn sách này, tôi không muốn người ta coi đó là một cách tuyên truyền để mọi người ủng hộ lý tưởng của chúng tôi hay để nung nấu lòng hận thù đối với kẻ địch của chúng tôi. Tôi trở thành một tay chủ hòa. Mặc dù tình yêu quê hương nóng bỏng, dù kinh tởm trước sự dầy xéo của Nhật-Bản (đã chiếm cứ Mãn-Châu) và mất cả lòng yêu chuộng tự do của tôi, tôi tự cho rằng, chiến tranh là một điều sai lầm hoàn toàn và không gì có thể biện minh cho chiến tranh. Tôi đã đi đến tin tưởng trên bằng một sự suy tư, chiêm nghiệm lạ kỳ sau khi đọc Jeans và Eddington, các triết gia khoa học lớn của Anh*.
Chưa chắc tôi có hiểu được lấy một nửa, nhưng khi đọc đến những điều mà tác giả này viết về thế giới khác, về các ngôi sao mặt trời, vàng chói hay trăng sáng, những ngọn lửa muôn sắc, tôi thấy rằng trái đất nhỏ nhoi của chúng ta chỉ là một điểm vô cùng nhỏ bé trong cái không gian bất tận của vũ trụ. Tôi để mặc cho trí mình tưởng tượng đến các thế giới khác trong đó các sinh vật đều thông minh siêu việt, vô cùng hạnh phúc, sống thanh bình trong các đô thị toàn bằng pha lê trong suốt, với những bồn nước và muôn loài hoa thơm cỏ lạ.
Nhưng, nếu trong vũ trụ có những thế giới khác có thể sống được như trái đất, chúng ta phải làm gì? Có một nơi nào khác có sự sống? Có một chỗ nào mà nhân loại có thể phát triển trong tự do và phẩm cách không? Tôi bị chặn đứng lại và trở về với trái đất. Tôi bắt đầu tìm kiếm một thế sống, một giá trị lý tưởng mà mọi người có thể chấp nhận. Tôi tìm kiếm lời giải đáp trong lịch sử Hy-Lạp, La-Mã, Ai-Cập, Trung-Hoa, Âu-Châu, tìm kiếm một nơi một thời đại mẫu mực hoàn toàn. Có rất nhiều ảo vọng về một thời đại hoàng kim - tôi biết được điều đó qua các truyền thuyết về các thời đại của vua Thang, vua Vũ cách đây bốn ngàn năm - nhưng luôn luôn đó chỉ là những thời đại hoàng kim đã trôi, đã biến mất mà các điển tích đã phai mờ qua thế kỷ. Khi lịch sử cô động thành những niên kỷ, những biến cố nhất định, nó chỉ là một danh sách thảm hại kể lại các vụ thảm sát, các cuộc chiến tranh, các cuộc xâm lược với các thành phố và các nền móng văn minh bị hủy hoại cách vô lối, không có lý do. Tại Trung-Hoa cũng như tại các nước khác, lịch sử đã trải qua nhiều ảo giác cứu độ: sự khinh miệt quyền thế, của cải của các bậc hiền sĩ. Hoặc sự viên ngộ chánh quả của một vị Phật hay lòng khiếm ái sâu xa của Chúa Giê-su ảnh hưởng lên dù chỉ rất yếu ớt - giòng lịch sử thế giới, có một số người đã cách biệt khỏi trào lưu xiển dương những cuộc tàn phá, hỗn loạn, bi thảm, và tàn bạo của chiến tranh. Tôi theo cái đám người ít ỏi đó và thuộc hạng những người tự gọi là "chủ hòa". Hòa Bình không có thực, nếu không nói là chỉ có trong trí tưởng. Tất cả các thời đại hoàng kim cổ xưa đều chỉ là những thần thoại. Chúng tôi, thế hệ chúng tôi, những con người của tương lai, chúng tôi phải hình thành, trong cuộc sống thực, một thế giới khác, hòa bình và hợp tác chân thành giữa các quốc gia. Chúng ta phải từ bỏ chiến tranh, dù đó là một cuộc tự vệ. Bởi vì tất cả mọi cuộc chiến tranh đều có thể ẩn núp dưới chiêu bài đó và chỉ dẫn đến thù hận và bạo lực.
Vào thời gian này, tôi đã tìm thấy Thánh-kinh Thiên-chúa-giáo và đây là các lời thâu góp tất cả các lời mà tôi đã đọc đi đọc lại không ngừng và sự thật cao cả tiềm ẩn trong đó đã khiến mắt tôi rưng lệ: Sung Sướng thay những kẻ nghèo hèn, vì rằng họ sẽ thừa hưởng thế gian.
Cái điều tin tưởng minh bạch và vững chắc ngày nào của tôi bây giờ đã biến mất. Tôi đã biết rằng chiến tranh không phải là một sai lầm toàn diện, rằng còn có những thứ, cách dày đạp, hạ giá con người còn hơn cả hành động giết người kinh tởm. Đến lúc mà tôi dần dần hiểu được cái sức mạnh của tội ác có thể tác hại như thế nào cho một quốc gia bị xâm chiếm: tôi thường nghe đến các tiệm hút thuốc phiện, các ổ điếm ở Bắc-Kinh - tổ ấm của tôi. Tôi không thể bám riết vào lòng tin tưởng của một quan niệm chủ hòa tuyệt đối nữa. Với tấm lòng đau nhức, cũng giống như hàng triệu người Trung-Hoa yêu hòa bình khác, tôi đành chấp nhận một cuộc chiến tranh tự vệ chống lại tình trạng ung thối về đầy đọa này.
Tôi đã gặp lại Pao trong thời gian tôi còn tin tưởng mãnh liệt vào quan niệm chủ hòa tuyệt đối - "có hoặc không". Chúng tôi cùng thuộc đám sinh viên người Anh và ngoại quốc được mời nghỉ hè tại một gia đình ở Kent. Cô bạn cùng phòng của tôi, một sinh viên Trung-Hoa giới thiệu chúng tôi:
- Đây là cô Hàn và đây là anh Tăng.
Chúng tôi chào nhau. Tên họ chẳng có nghĩa lý gì. Có hàng vạn ông Tăng và hàng triệu cô Hàn tại Trung-Hoa. Trong câu chuyện tầm phào đó, chúng tôi đã không khám phá ra rằng hai nguoi đã từng quen biết nhau. Tôi cũng không biết rằng Pao được chính phủ gửi đến Anh để học Quân sự, bởi vì chàng không mặc quân phục. Do một nhận xét, tôi kết luận rằng chàng đang theo học kỹ sư. Hai hay ba ngày sau tôi mới biết rõ khi chúng tôi cùng tham dự một buổi diễn thuyết về Trung-Hoa. Diễn giả là một nhà tu hành và là một tay chủ hòa kỳ cựu nêu ra chủ đề: "Hãy yêu thương kẻ thù". Đôi mắt sáng rực sau làn kính, ông đòi hỏi chúng tôi phải yêu thương người Nhật.
Tôi cần phải nói rõ một điểm là chúng tôi không hề thù hận người Nhật, một thứ hận thù chủng tộc như tôi thường thấy giữa các quốc gia Âu Châu mỗi khi xảy ra xung đột... Không bao giờ chúng tôi lại cho là cần phải thù hận họ, dù họ đã gây ra bao nhiêu đau thương cho chúng tôi. Chúng tôi gọi người Nhật là những tên "quỷ lùn", đúng như vậy, nhưng chúng tôi không bao giờ giết tù binh như họ thường làm...
Thành ra đối với chúng tôi, những sinh viên Trung-Hoa, may mắn thoát khỏi sự tủi cực trong cuộc xâm lăng của Nhật-Bản từ bao nhiêu năm qua, những tư tưởng của vị tu hành khả kính đó chỉ là một lời trẻ con có hậu ý. Pao lắng nghe, mắt nhíu lại, thầm lặng bác bỏ giả thuyết của diễn giả. Tôi cũng lắng nghe, tuy rằng đồng ý trên nguyên tắc, nhưng vẫn chưa thỏa mãn và muốn phân tích sâu xa hơn những ý đại cương của diễn giả. Sau cuộc diễn thuyết, Pao và tôi đi dạo và chuyện trò thân mật. Chàng nói với tôi:
- Chúng ta có thể thương yêu kẻ thù, nhưng trước hết chúng ta phải đánh bại họ đã.
Tôi không chấp nhận cái định đề bắt buộc phải đánh nhau với Nhật-Bản. Tôi cực lực phản đối tất cả những biện pháp vũ lực. Pao trả lời (với giọng chua cay, tôi nghĩ thế):
- Nếu thế, tất cả những kẻ lương thiện sẽ bị giết hết và tội ác sẽ tự do hoành hành.
Câu trả lời của tôi nóng bỏng:
- Tôi thù ghét nhất là việc xiển dương vũ lực. Nếu ta cũng lại giết người thì ta hơn gì kẻ thù của ta? Tôi thà chết còn hơn phải bảo vệ lý tưởng của tôi bằng vũ lực! Tôi thù ghét cái tính cao ngạo vũ biền, thù ghét tất cả mọi sự xiển dương giết chóc. Người ta khoác lên mình nó bộ quân phục, người ta dựng cờ, treo bảng rồi người ta cho nó cái tên là ái quốc, là vinh quang, là danh dự quốc gia. Tôi cho những thứ đó là ngu xuẩn và nhớp nhúa. Bất cứ ai tán dương điều đó đều không thể suy nghĩ sáng suốt được.
Pao ném cho tôi một cái nhìn lạnh tanh, quay gót bỏ đi không nói một lời. Tôi hơi chột dạ, vừa giận hờn vừa bực tức...
- Anh bạn Tăng của chị bất lịch sự quá, tôi nói với cô bạn cùng phòng của tôi.
- Chuyện gì vậy?
Tôi kể lại câu chuyện, cô ta cười ngất trước sự bực dọc của tôi.
- Thế chị không biết là anh ta được chính phủ gửi sang đây học về Pháo-binh tại Sandhurst à? Những tư tưởng của chị chắc phải đổ lửa vào đống thuốc nổ còn gì. Anh chàng này rất kiêu hãnh, rất yêu nước và rất trẻ. Anh ta là một quân nhân!
Cô ta nói đến thân phụ Pao. Tôi hết sức kinh ngạc:
- Sao? Thế ra anh ta thuộc gia đình Tăng này đấy à? Tôi kêu lên. Nếu thế thì tôi quen anh ta mà. Chúng tôi cùng sống ở Bắc-Kinh, cùng chơi đùa với nhau khi còn nhỏ mà!
Khi chúng tôi gặp lại nhau, Pao lạnh lùng băng giá, chẳng chào tôi lạnh nhạt. Nhưng tôi lại tìm thấy dưới vẻ nghiêm khắc vũ biền đó, hình ảnh của một cậu bé đã từng là lãnh tụ, là hoàng tử của lòng tôi khi chúng tôi chơi trò đánh nhau dưới rặng liễu trên hè phố Bắc-Kinh.
- Tăng-Yến, anh không nhận ra tôi hay sao, tôi gọi tên trẻ con của chàng. Anh không nhớ con kinh trong Tử-Cấm-Thành, những buổi đánh nhau của chúng ta trên bờ kinh hay sao? Hồi đó tôi đâu có chủ hòa!
Suốt mùa hè năm đó - hè năm 1937 - chúng tôi đã gặp nhau nhiều lần, thường là với sự hiện diện của vài người khác, ít khi chúng tôi gặp nhau riêng. Không có bao nhiêu sinh viên Trung-Hoa tại Anh, bởi thế chúng tôi thường hội họp nhau và do đó tôi với Pao thỉnh thoảng lại gặp nhau. Lần nào chúng tôi cũng cãi nhau về đủ mọi thứ vấn đề. Trong tất cả các vấn đề bàn cãi, ngoại trừ các vấn đề thông thường, ý tưởng chúng tôi luôn luôn nghịch nhau. Tôi viết thư về nhà kể lại những liên lạc của tôi, đồng thời có nhắc đến tên Pao mà không chú ý đến điều đó lắm. Chú tôi trả lời như sau:
"Cách đây vài năm, thân mẫu của người này có tiếp xúc với gia đình ta, ý muốn xin con cho anh ta. Vì việc hôn nhân không có kết quả, tốt hơn là con không nên gặp anh ta nữa. Hai người không nên thân thiết nhau làm gì nữa."
Thật là quá buồn cười để tôi có thể giữ riêng điều đó cho tôi. Pao đã từng kể về ba lần cầu hôn hụt của thân mẫu chàng cho tôi nghe. Ngay khi có dịp, tôi liền nhắc lại việc hôn nhân. Pao bầy tỏ ý kiến rất là đứng đắn và trịnh trọng. Tôi lắng nghe và sau cùng khẽ hỏi:
- Thế anh có biết tên người vợ hụt thứ ba của anh là gì không? Tên cô ta là Hàn-Tú-Anh.
Pao nhìn tôi trân trối, kinh ngạc ghê gớm:
- Trời ơi! Thế ra là cô à?
Tôi có cảm tưởng má tôi nóng bỏng và đỏ ửng:
- Đúng vây, nhưng đừng nghĩ đến chuyện đó nữa, tôi đánh trống lảng. Chính tôi, tôi cũng không chịu nữa mà!
Tôi cố phá vỡ sự lúng túng bằng một giọng hấp tấp:
- Điều đó chẳng có gì quan hệ. Tôi cũng chẳng biết gì cho đến khi chú tôi vừa viết thư sang. Nhưng thực ra vào thời đó, tôi đã nhất quyết không lấy chồng. Vậy câu chuyện không có gì quan trọng cả.
Pao có vẻ yên tâm, chàng nói:
- Tôi cũng không tin tưởng vào việc hôn nhân gượng ép như vậy. Rồi với một giọng trịnh trọng và thẳng thắn, chàng tiếp, cũng may cho cả hai ta là việc mai mối chưa bắt đầu. Chúng ta không hợp nhau một tí nào cả. Chúng ta không đồng ý với nhau về bất cứ điều gì. Tôi cho rằng quyết định của chúng ta như vậy là khôn ngoan. Bởi vì, cô có biết không, cô thuộc vào hạng người khó tính nhất.
- Tính tôi cũng giống tính anh lắm mà. Tôi trả đũa.
- Chính bởi thế, Pao trả lời.
Suốt mùa hè năm đó, tôi đã sống trong một thế giới khác hẳn cái thế giới mà sau này chìm ngập trong khói lửa. Quê hương Trung-Quốc xa tít mù tận cả trong không gian lẫn thời gian. Tôi sống trong một xứ Anh thanh bình, một xứ từ sau vua Guillaume le Conquérant, chưa hề có kẻ xâm lăng nào đặt được chân lên, cũng như khi hạm đội Armada Y-Pha-Nho bị bão bể đập tan, không còn một đe dọa xâm lăng nào để làm xáo trộn nếp sống thanh thản. Đó là một xứ rất dễ thương với các vườn hồng, các thảm cỏ xanh mướt, với thừa mứa thực phẩm, với những đứa bé hồng hào, với những cô gái trẻ trung đẹp đẽ, với những mệnh phụ quý phái hiếu khách. Tôi có bạn bè, có một công việc thích thú để giải khuây. Tôi đã nếm qua một quãng thời gian yên ổn hạnh phúc và ngày nay, nó đã thuộc vào lớp quá khứ không bao giờ phai mờ; mỗi lần nghĩ lại, nó càng đẹp hơn và thân thiết hơn.
Vào tháng bẩy, các báo đều đăng vắn tắt tin một cuộc đụng độ nhỏ xảy ra tại ngoại ô Bắc-Kinh: các binh sĩ Trung-Hoa và Nhật-Bản đã bắn nhau trong khi binh sĩ Nhật đang thao đợt mà không có phép (chiếu theo một bản hòa ước đã lỗi thời, có nhiều cường quốc được phép dồn quân tại miền Bắc để giữ con đường từ Bắc-Kinh ăn thông ra biển. Người Nhật đã lợi dụng điều khoản đó để biện minh cho việc họ đã đồn trú hàng vạn quân tại các tỉnh ở miền Bắc. Đây không phải là lần đầu tiên đạo quân xâm lược của họ đụng chạm với người Trung-Hoa, những người cư ngụ hợp pháp trên đất đó).
Đối với tôi, đó cũng chỉ là một cuộc rắc rối khác không hơn không kém. Không biết có phải tôi mù quáng đến cái độ không nhận ra những dấu hiệu báo trước cơn bão táp sắp nổi lên ở phương Đông? Không khí thanh bình trùm bọc quanh tôi đã khiến tôi mụ đi, mất hết cả trực giác. Tôi đã quên hết cái không khí căng thẳng, bất an ở Trung-Hoa. Nhưng Pao biết ngay rằng cuộc chiến tranh nhen nhúm từ lâu đã bùng nổ. Chàng liên lạc với sứ quán Trung-Hoa tại Luân-Đôn xin phép hồi hương ngay lập tức. Sứ quán đánh điện hỏi ý kiến của cục quân huấn và tướng Bạch-Chung-Si trả lời:
- Học xong mới về.
Những tuần lễ hòa đàm tiếp theo cuộc đụng độ, hai bên trao đổi kháng thư cùng cố gắng phân định rõ những rắc rối. Nhưng càng ngày vấn đề càng rõ ra là nếu Trung-Hoa không chịu khuất phục và cắt nhượng địa, Nhật sẽ ra tay hành động. Thế rồi tai họa đã xảy ra vào tháng tám năm 1938; dưới cái cớ thiếu vững chắc của một cuộc rắc rối xảy ra sau khi các tàu chiến của Nhật đã rời căn cứ và đang trên đường tiến đến Thượng-Hải. Chiến tranh bùng nổ.
Tên Trung-Hoa hiện trên khắp mặt báo chí. Những tuần lễ trôi qua và Thượng-Hải vẫn đứng vững, chúng tôi đều hy vọng như điên. Xứ sở tôi, thiếu chuẩn bị, vừa thoát khỏi cuộc nội chiến tương tàn đã chống giữ Thượng-Hải hơn ba tháng, đối đầu với một hạm đội hùng hậu vào hạng nhất thế giới, đối đầu với một đạo quân trang bị với tất cả các loại vũ khí tối tân. Những đơn vị thiện chiến nhất của chúng tôi được tung vào trận chiến trong một tinh thần hy sinh vô vọng, cao cả mà mọi người cho là không tốt trên phương diện chiến lược. Trung-Hoa đã mang hết cả lực lượng dồn vào một cuộc kháng chiến độc đáo và tuyệt vời, đã cầm chân được quân xâm lặng và đã khiến cho cả thế giới phải thán phục.
Pao rất bực tức với cái lệnh giữ chàng ở lại trên đất Anh trong khi trên chiến trường quanh Thượng-Bắc, bạn bè và đồng chí của chàng ngã xuống như rạ. Mỗi lá thư gửi sang là một bản danh sách các người chết. Càng ngày chàng càng buồn bã và câm lặng. Tôi quen dần với cái vẻ đăm chiêu, xung, phản ảnh những suy tư thầm kín của chàng. Chúng tôi cũng ngồi trong một rạp chiếu bóng khi một cuốn phim thời sự chiếu lên màn bạc những cuộn khói đen cuồn cuộn bốc lên từ những mái nhà đang bốc lửa của Thượng-Bắc (khu vực phía Bắc Thượng-Hải, phía bên kia khu thương mại quốc tế). Màn ảnh đổi sang cảnh khác. Chúng tôi thấy những dẫy tường gạch đổ nát của nhà ga xe lửa khu Nam ở Nam-Đảo và những đống bầy nhầy không hình thù: những xác chết tan nát. Rồi chúng tôi thấy một con đường đầy những người chạy tản cư. Chúng tôi thấy những đồng bào của chúng tôi, gầy mòn, rách rưới, phải bỏ nhà cửa ruộng đồng ra đi. Một nông dân da đen sạm, lưng còng xuống dưới chiếc đòn gánh cong vòng vì sức nặng của mớ hành trang lủng lẳng ở hai đầu đòn; một bé gái nhỏ chân đi đất, tóc rối tung, bím tóc xổ rã rời đang kéo vạt áo người nông dân. Hai người bước ngang qua màn ảnh, hướng cặp mắt cam chịu nhìn chúng tôi. Chúng tôi không thể chịu đựng hơn nữa. Pao thì thào:
- Đi ra thôi!
Chúng tôi đi lang thang trên đường phố giữa đám sương mù mùa đông giá lạnh ở Luân-Đôn.
Chiến tranh đã kéo dài được một năm. Thượng-Hải bị hạ, rồi đến Nam-Kinh và mọi người đều đoán là Trung-Hoa sắp sửa đầu hàng. Nhưng tuy lùi chúng tôi vẫn chiến đấu. Chúng tôi dùng du kích đánh phá các đường liên lạc tiếp vận của địch quân, chúng tôi dựa trên nguồn nhân lực khổng lồ và vào tinh thần trường tồn của chúng tôi. Chúng tôi bước sang giai đoạn hai của cuộc kháng chiến: sự chịu đựng của chúng tôi dẻo dai hơn địch quân. Mùa xuân đến, với chiến thắng vẻ vang ở Đài-Di-Trang, hy vọng lại sống lại... Lòng đầy can trường, chúng tôi bước sang năm thứ hai của cuộc chiến.
Những lá thư rời rạc gửi từ Bắc-Kinh qua không cho chúng tôi bao nhiêu tin tức. Người Nhật kiểm soát thư từ gắt gao. Cuộc sống vẫn tiếp tục, nhưng mọi điều, mọi thứ đều bị gò bó và hạn hẹp. Lớp thanh niên thấy một tương lai thật vô vọng. Tất cả các đại học đều bị đóng cửa, trừ lại có hai trường: hai trường này bị kiểm soát gắt gao, các sinh viên luôn luôn bị nghi ngờ và bị đe dọa bắt bớ. Rất nhiều bạn thân và bạn học của tôi đã phải di cư sang vùng Trung-Hoa Tự-Do; những người khác vùng lên chống lại sự áp chế của người Nhật bằng cách trốn đi theo các đoàn kháng chiến quân. Chúng tôi nhận được ít thư từ của bạn hữu trốn khỏi Bắc-Kinh, mô tả cuộc sống thật tàn tệ, một cuộc sống không đáng gọi là cuộc sống nữa: đối với những kẻ ở lại, hay những người nào không thể trốn được, cuộc sống của họ là cuộc sống chết. Những bức thư đó có nói với tôi về những trường hợp của cô bạn này hay anh bạn kia đã tìm cách giải thoát trong vòng tay nàng phu dung hay trong các cuộc truy hoan miệt mài. Với sự bảo trợ của quân Nhật, các ổ điếm, các tiệm hút, mọc lên như nấm khắp mọi nơi. Thoạt tiên chỉ là sự buồn nản và tuyệt vọng, tất cả các nguồn sinh lực đều bị tù hãm, tự do: trụy lạc và bại hoại.
Khi đọc những thứ này tôi hiểu ra rằng, sự thống trị của ngoại bang chỉ nhằm khai thác xứ sở chúng tôi, tôi không còn thể nào giữ nguyên lập trường chủ hòa được nữa. Chúng tôi cần phải kháng cự, cũng y như chúng ta phải chống lại bệnh tật, điều đó có nghĩa là chống lại một cuộc xâm lăng dũng mãnh hơn, ác hại hơn, chống lại cái nọc độc đang tàn phá sức lực của ta, tái tạo sức lực và giúp cho các cơ phận đã bị tàn phá hoạt động trở lại. Tôi không còn thể nào ngồi nhìn xuông được nữa, tôi phải tham dự vào cuộc chiến, tôi phải tham gia vào công cuộc kháng chiến của dân Trung-Hoa. Tôi phải về nước. Dù không làm được gì quan trọng, tôi cũng phải về, tôi cần hiện diện tại đó để chia sẻ những khổ cực và gian nguy. Tôi là người Trung-Hoa mà!
Bởi thế khi Pao báo cho tôi biết khóa học của chàng đã mãn, chàng có thể về và chàng sẽ lên tầu về nước vào tháng chín, tôi nói với chàng là tôi cũng về.
Lúc này, chúng tôi đã khá thân nhau. Chúng tôi khám phá ra rằng tuy hay cãi nhau dữ dội, chúng tôi vẫn đến với nhau để tìm thấy trong nhau một khích động, một nguồn cảm hứng và một sự thông cảm sâu xa.
Vào một buổi tối mưa dầm tháng tám, Pao đến tìm tôi tại căn nhà trọ ở South Kensington. Chúng tôi đi xem kịch. Cả hai chúng tôi đều rất ham mê kịch nghệ. Chúng tôi đi xuống thang gác và bước ra đường, im lặng. Chúng tôi đi và cứ im lặng đi mãi như thế cho đến khi vào đến trung tâm Luân-Đôn. Chúng tôi cần có mưa để thoa dịu giúp chúng tôi chịu đựng sự dằn vặt của tư tưởng. Những chiếc xe hơi vụt qua; những cặp đèn sáng loáng dọi thành những vệt dài trên mặt nhựa sũng nước, vết xe lăn qua bị nước mưa xóa nhòa, ngay tức khắc. Đèn đường mù mờ như những vừng trăng ẩn trong sương mù. Chúng tôi cứ tiếp tục bước, tay thọc trong túi áo, mắt nhìn thẳng.
Sau cùng Pao lên tiếng:
- Tú-Anh, cô chẳng nên về làm gì. Cô đã nghiền ngẫm đủ thứ ý tưởng về tình yêu quê hương, về sự hy sinh cho lý tưởng. Nhưng chiến tranh không phải như vậy đâu, nó không đẹp và lãng mạn như vậy. Chiến tranh là một việc khủng khiếp. Chính cô đã nói rằng chiến tranh là một cuộc tàn phá gớm ghiếc và tàn bạo. Ngay việc nhìn tấm hình trên báo hay trên màn ảnh cũng làm cô không chịu được nữa là! Cô phải ở lại xứ người: đi xem hát, nghe nhạc hay đọc sách. Một thiếu nữ trẻ măng và đơn coi như cô có thể làm gì khi về đến Trung-Hoa? Cô định làm gì khi từ bỏ chỗ sống để lao đầu vào chỗ chết?
- Pao, anh không phải là một người bạn chân tình. Anh không nên khuyên tôi như vậy. Tôi cũng là người Trung-Hoa như anh. Làm sao tôi có thể sống vui sướng thảnh thơi ở xứ người trong khi đồng bào tôi đang lầm than đói khổ?
Chúng tôi nói với nhau bằng tiếng Trung-Hoa. Lẫn lộn giữa đám bộ hành, nhưng hai chúng tôi tách riêng ra trong thế giới ngôn ngữ của chúng tôi.
- Cái gì đã khiến cô đổi ý như vậy? Pao kêu lên. Cô, người từng bai bải chửi rủa chiến tranh, bây giờ bất ngờ cô lại muốn cầm súng và mộ lính đàn bà để đánh giặc!
- Tôi không về nước để đánh nhau, tôi trả lời. Chưa chắc là tôi có giúp săn sóc các thương binh. Cứu chữa các thương binh làm gì để sau đó lại đẩy họ ra trước họng súng đại bác và mưa bom? Nếu quả nước Nhật mang đến cho ta một nền văn minh tiến bộ hơn nền văn minh của chúng ta, tôi thấy việc Nhật chinh phục Trung-Hoa cũng không khiến tôi phải băn khoăn, rất có thể như vậy. Chỉ trong vòng một trăm năm là ta sẽ đồng hóa họ. Nhưng nước Nhật không mang đến điều gì lợi ích, tốt đẹp cả. Họ không có cả lấy một nền văn hóa riêng; thoạt tiên họ mượn của chúng ta, bây giờ họ mượn của tây phương. Nước Nhật chỉ có thể dạy ta những điều tai hại. Họ sẽ lợi dụng chúng ta. Họ sẽ tàn phá lớp thanh niên của chúng ta, tất cả những kẻ đã được đào luyện để sau này sẽ là những người hướng đạo của dân tộc ta. Họ sẽ biến dần ta thành một đám nông nô và cu-li (*) một công cụ để phục vụ họ. Trước một cuộc xâm lăng như vậy, nước Trung-Hoa có lý do chính đáng để chống cự lại. Tôi còn trẻ và tôi muốn có mặt nơi đó, muốn tham dự vào cuộc kháng chiến do.
* Theo nguyên tác (ND)
Pao tiếp tục lặng lẽ bước. Rồi bất ngờ chàng quay sang tôi:
- Cô là một cô gái cứng đầu lắm! Sẽ chẳng có ai hiểu cô. Sẽ chẳng có ai cám ơn cô. Với những người đang ra sức ở Trung-Hoa chỉ có cực nhọc, đọa đày đắng cay và có lẽ một ánh hòa quang rỗng tuếch sau khi chết. Ngày như cả với Tôn-Dật-Tiên cũng thế mà thôi!
- Tôi biết, nhưng đó là nước tôi. Tôi phải về.
- Nhưng Tú-Anh! Ai sẽ chăm sóc cô? Chiến tranh không phải là việc của đàn bà. Tôi chợt nghĩ tới mẹ tôi - bà hiện đang sống trong vùng bị chiếm đóng, không chạy được. Bà mẹ già và đứa em nhỏ của tôi không ai chăm sóc cả. Còn cô, ngoài gia đình ở tân Tứ-Xuyên ra, cô còn có ai để nương tựa?
- Tôi không cần ai hết, tôi trả lời. Tôi là thân gái nhưng tôi cũng là một người lớn. Tôi sẽ tự lo cho thân tôi.
- Nếu quả thực Tú-Anh phải về, tốt hơn là chúng ta đi cùng. Liệu chúng ta có thể đi cùng tầu không? Tôi muốn chăm sóc cô. Tú-Anh! Ta hãy là bạn tốt của nhau suốt đời nhe!
- Tôi không cần ai chăm sóc hết. Pao, lúc nào anh cũng khinh rẻ đàn bà vì anh chỉ nghĩ đến việc bảo vệ thôi.
- Tú-Anh! Cô khó tính thật, có không thể nào nhìn vấn đề một cách khách quan được! Cô không thể nào bàn luận mà không nổi đóa. Cô không thể nào tử tế với tôi được hay sao?
Chàng đọc một bài thơ của Lý-Bạch:
- "Giữa cơn mưa gió, còn thú nào bằng được cùng nhau chung một thuyền. Nâng bát rượu lên vừng trăng, chúng ta tìm cuộc sống..." Tú-Anh à! Nếu tôi không bao bọc cô quá lố, nếu tôi chỉ muốn được gần gũi cô mãi mãi... Cô có muốn lấy tôi không? Có lẽ cũng chẳng được bao lâu. Chắc thế nào rồi tôi cũng chết sớm. Pao làm ra vẻ bi thảm.
- Không, tôi mong rằng anh sẽ không chết sớm như vậy!
Mắt chàng rạng rỡ trở lại:
- Nếu vậy, có muốn kéo dài thật lâu năm? Suốt đời? Không ai biết được sẽ dài bao lâu. Tú-Anh, chúng ta lấy nhau nhé?
Nước mưa lóng lánh trên nóc dù của khách bộ hành, trên áo mưa của người cảnh sát đứng ở góc đường, trên nóc xe, trên hè phố. Cơn mưa ngớt đi, trời như mù sương hơn là mưa. Chúng tôi đứng giữa hè phố nhìn nhau, tay thủ trong túi áo. Không hôn nhau, đến cả hai bàn tay cũng không chạm nhau, chúng tôi đã trao lời đính ước với nhau. Có lẽ vì là dân Trung-Hoa nên chúng tôi đã hơi cúi mình chào nhau. Cả hai đều rất trang trọng. Thế là Pao và tôi đã hứa hôn. Cả hai đứa đều ngỡ ngàng trước sự việc vừa xảy ra. Chúng tôi đều có ý tưởng chống báng hôn nhân vì cho rằng nó sẽ trở ngại công việc phục vụ của chúng tôi. Nhưng đứng giữa một góc phố Luân-Đôn, dưới ánh sáng mờ nhạt của cơn mưa, chúng tôi nhận ra rằng đứa này thiếu đứa kia sẽ khiến cho cuộc sống của chúng tôi thành trống rỗng và vô nghĩa.
Mặc dù đã hứa hôn mà không cần hỏi ý kiến gia đình, chúng tôi đều cảm thấy nên đợi chờ hai gia đình chấp thuận rồi hãy cưới nhau. Phong tục của chúng tôi rất kỵ việc cưới xin vội vàng. Vả lại tôi có ý tưởng, có lẽ là lãng mạn, nên đợi khi về đến quê hương rồi hãy bắt đầu cuộc sống mới, với Pao.
Hai hay ba tuần sau đó, chúng tôi lên đường về Phương Đông trên một chiếc tàu chiến của Pháp. Đồ ăn tệ không thể tả. Tuy vậy, trong những ngày đầu tiên, điều đó không có gì là quan trọng đối với tôi. Rồi tôi bị một cơn say sóng gớm ghiếc. Đến ngày thứ ba, tôi chỉ còn nằm dài trên chiếc giường gấp. Pao không tìm được cho tôi thứ gì hơn mấy trái táo xanh mà chàng đã để dành trong bữa ăn sáng. Vì kiêu ngạo, tôi đã cố nuốt hết để sau đó lãnh lấy những hậu quả thảm hại.
Sau lưng chúng tôi, Âu-Châu cũng đang bị cuốn vào cơn lốc chiến tranh. Hít-Le đã chiếm nước Áo và đang tiến đến Thụy-Điển. Nền Tự-Do mới mẻ và tốn phí bao nhiêu công của mới thâu đoạt được của Tiệp-Khắc và Ba-Lan bị đe dọa. Tại Anh-Quốc, bạn bè của chúng tôi đều được trang bị các mặt nạ chống hơi độc.
Chúng tôi cảm thấy sung sướng trên đường trở về quê hương xứ sở, trong lúc tầu bè còn được đi lại tự do trên mặt trùng dương.
Chú thích:
* Sir James JEANS, 1877-1945, nhà toán học và thiên văn Anh, nổi tiếng như là một trong những nhà bác học đầu tiên nêu ra thuyết tương đối và quang tử Quanta.
- Sir Arthur Stanley EDDINGTON, 1882-1944, vật lý kiêm thiên văn gia Anh, nổi tiếng vì đã tính ra được trọng lượng, nhiệt độ và thể chất của nhiều vì sao. (N.D.)