CHƯƠNG BA TRẠM NGƯNG Ở HỒNG-KÔNG
Những đám mây mầu xám tro khổng lồ và bẩn thỉu che kín cả trời lẫn biển. Không khí đông đặc và ngột ngạt, mặt nước đục lờ đờ phản chiếu một khung trời vừa thấp vừa nặng nề. Về hướng tây bắc, nhưng dẫy đồi ở lục địa đứng sừng sững trên mặt nước: những dẫy đồi Trung-Quốc. Hồng-Kông giống như cái tổ kiến khổng lồ với những đường phố chật hẹp, những căn nhà nghèo khổ, trải ra dưới chân núi trong khi đỉnh núi mất hút trong mây.
Hôm đó là ngày 30 tháng chín và là sinh nhật của tôi. Tôi đã được hai mươi mốt. Với tôi điều này mang một ý nghĩa đặc biệt. Tôi đã trưởng thành; tôi đã trở về với quê hương xứ sở, không phải như một cô gái mơ mộng mà là một phụ nữ trưởng thành, sẵn sàng nhận lãnh vai trò của mình trong cơn hoạn nạn của đất nước.
Tầu chúng tôi cặp bến ở gần khu Cửu-Long, đối diện với thành phố hải đảo của Hồng-Kông. Nơi đây là lục địa Trung-Hoa, tuy đã nhượng lại cho người Anh, nhưng dù sao vẫn là đất Trung-Hoa. Từ Cửu-Long, đường xe lửa chạy về phía tây, xuyên qua dẫy đồi đá trọc bao quanh hải cảng. Hai con đường sắt mỏng manh, con đường dẫn đến Quãng-Châu và Hán-Khẩu.
Chúng tôi rời tầu và đặt chân lên lục địa Trung-Hoa. Ước mong của chúng tôi là được bay vào trong nội địa. Nhưng chúng tôi đành quay lưng lại phía các ngọn đồi cùng con đường sắt để xuống phà sang Hồng-Kông.
Ước mong của chúng tôi là bay vào trong nội địa! Chúng tôi đã trở về, nhưng đây chưa phải là quê hương của chúng tôi. Nếp sống ồn ào náo nhiệt, những dấu hiệu của Trung-Hoa bao quanh chúng tôi dầy đặc: những khuôn mặt rám nắng, những thân áo dài yểu điệu của các cô gái, những bảng hiệu với các chữ Hán tuyệt vời và đám dân tị nạn - những người đầu tiên mà chúng tôi gặp. Nhà cầm quyền Anh đã thiết lập một vòng đai bất khả xâm phạm tại đây. Đây là khu trung lập. Ở đây có nghĩa là an ninh nhưng chúng tôi không tìm kiếm an ninh. Chúng tôi trở về để đảm nhận vai trò của chúng tôi trong một nước Trung-Hoa khói lửa. Đối với chúng tôi, Hồng-Kông chỉ là một trạm ngưng.
Lòng nôn nóng và lo nghĩ vẩn vơ, chúng tôi ngấu nghiến đọc báo để dò tin tức Hán-Khẩu, tin tức tiền tuyến. Hán-Khẩu là mục tiêu của chúng tôi, là thủ phủ của chiến tranh... Một cuộc giao phong quyết định đang xẩy ra, thế mà chúng tôi lại không được tham dự. Chúng tôi phải đi Hán-Khẩu... ngay lập tức, bởi vì nếu không, mọi sự sẽ quá trễ và mọi đường giao thông sẽ bị cắt đứt.
Ngay lúc này con đường đã đầy khó khăn. Quảng-Châu, cửa ngõ của Trung-Hoa tự do bị các phi cơ địch nhòm ngó hàng ngày; trong khi Hồng-Kông lại hoàn toàn an ninh vô sự, thật là khó tưởng tượng. Nhà ga đã bị phá hư đến nỗi hơn một tháng nay không có một chiếc xe lửa nào rời ga cả. Các loại quân dụng cần thiết và đạn dược vẫn được đưa đến các khu vực nào có đường sắt rồi từ đó người ta sẽ chuyển đi bằng xe lửa, nhưng xe chở hành khách thì lại rất bất thường và rất mạo hiểm nên ít ai dám liều và cũng chẳng có ai là tay mơ.
Chúng tôi dò hỏi những phương tiện khác, nhưng cũng không có gì khá hơn. Các chuyến xe đò đều bị ngưng cả vì con đường gần như không còn đi được nữa. Không có cách gì lấy được vé máy bay. Các hãng hàng không China National Airways và Eurasia đều giảm bớt các chuyến bay và thời khắc biểu các chuyến bay cũng rất thất thường kể từ ngày một phi cơ của họ bị bắn hạ và tất cả hành khách đều bị giết. Dù vậy, tất cả các chỗ đều được giữ từ hàng tháng trước.
Chúng tôi ngước nhìn dẫy đồi trầm lặng mà lòng những nghẹn ngào. Lâm vào ngõ bí, chúng tôi đành quay sang cứu tinh đầu tiên và cuối cùng của mọi người Trung-Hoa khi gặp khó khăn: đó là những bạn bè và thân quyến. Lúc nào cũng có thể xuất hiện vài bạn bè, chú bác, anh em họ hay bạn của bạn ta. Bạn của Pao rải rác khắp nước, có đến hàng trăm. Có lẽ tôi nên giải thích cái quy chế bằng hữu lạ lùng trong quan niệm của chúng tôi.
Không có nơi nào trên thế giới mà những sợi dây liên hệ cá nhân lại quan trọng và chặt chẽ như vậy. Điều đó có thể hay, có thể dở, nhưng đó là sự thật: tình họ hàng và bằng hữu là hai nền móng của xã hội Trung-Hoa. Tình bằng hữu nẩy nở trong bất cứ cuộc gặp gỡ vô tình nào và tình họ hàng liên kết đến cả các bà con có họ xa nhất.
Tại Trung-Hoa, Đại-Gia-Đình là trọng tâm. Cả gia tộc sống quây quần một chỗ, dưới các mái nhà lớp lớp kề nhau với những dẫy sân thông suốt, bao quanh nhà từ đường, nơi thờ cúng bái vị ông bà. Ngay cả khi Đại-Gia-Định bị phân tán vì chiến tranh, vì di cư, vì công việc, con trai, con gái, cho đến đời thứ ba vẫn gọi nơi sinh quán tổ tiên là "nhà", có thể về đó và được đón tiếp nồng hậu hơn bất cứ lúc nào. Đó là lý do mà nhà tôi thì ở Phí-Tiên, một thị trấn của Tứ-Xuyên, mặc dù tôi ra đời tại Hồ-Nam, sống ở Bắc-Kinh và nếu không có cuộc chiến tranh đuổi tôi đến tận miền Tây, tôi sẽ chẳng bao giờ biết mặt Tứ-Xuyên.
Dưới mái nhà Đại-Gia-Định luôn luôn có những người được coi như khách. Họ có thể là những bà con xa - thí dụ như một "ông chú", vốn là anh em họ ba đời của bà vợ thứ hai của cha chồng hay vợ ta. Lại còn những anh chị nuôi vốn là con của những gia đình khác đã quỳ lậy và cúng vái trước bàn thờ tổ tiên gia đình mình, nhờ vào cuộc lễ đó mà họ được thu nhận vào Đại-Gia-Đình. Từ đó trở đi, họ cũng có những đặc quyền như các con cháu huyết hệ vậy. Cũng có thể đó chỉ là những người bạn hay người lạ nhưng có mang thư giới thiệu của một người bạn khác quen với gia đình. Tất cả những người đó đều được gia đình lưu dưỡng và họ sẽ ở lại nhà cho đến khi họ hết còn thấy cần thiết.
Người ta nhận bạn cũng gần tự nhiên như nhận bà con và sợi giây ràng buộc cũng chặt chẽ như vậy. Ta gia nhập một hội đoàn, vào một nghề gì, đi du học ngoại quốc, giữ một nhiệm vụ gì đó: bất cứ ai ở chung quanh ta đều là bạn cả. Mối giây đó hết sức chặt chẽ đối với những người cùng học một trường; họ coi nhau như anh em ruột thịt. Tất cả những sinh viên sỹ quan của trường Vỏ-bị Trung-ương đều là anh em kết nghĩa của Pao cả.
Luật tắc của tình bạn rất khắc khe. Không bao giờ được phụ bạn bè. Trong mọi trường hợp luôn luôn có một giải pháp nhờ vào tình bạn hữu đó. Đó là cái hệ thống bạn bè phức tạp của chúng tôi, nó chịu trách nhiệm một phần lớn những gì là tốt đẹp và một phần những tệ trạng trong tổ chức xã hội của chúng tôi...
Chúng tôi đặt chân đến Hồng-Kông như hai người ngoại quốc trong một thành phố xa lạ, rồi bạn bè xuất hiện từ khắp mọi nơi cứ như là ảo thuật. Có những người quen không gặp mặt đã hàng năm bỗng gọi tên chúng tôi ơi ới ở ngoài đường. Họ nhất định mời chúng tôi đến dùng cơm, tuy chúng tôi biết rõ rằng điều đó sẽ làm quỹ gia đình ít ỏi của họ thiếu hụt. Mọi người ai cũng sẵn lòng hy sinh thì giờ và sẵn lòng lưu dưỡng chúng tôi không tính toán. Chiến tranh đã đưa đẩy họ trôi dạt đến đây; người này là dân tị nạn, kẻ kia là công chức. Chúng tôi đã gặp họ lần chót ở Bắc-Kinh hay ở Thiên-Tân gì đó. Chúng tôi đã từng ở trong những dinh cơ rộng rãi và sang trọng của họ, chia sẻ nếp sống an vui nhàn hạ của họ. Chúng tôi lại gặp họ, hết cả đất đai của cải, sống chui rúc trong những căn phòng bé tí xíu ở Hồng Kông; dầu vậy, họ vẫn giữ lấy cái tính khí và cái triết lý nhân sinh sâu xa của nòi giống, cái triết lý nó giúp chúng tôi biết vui hưởng những gì tốt lành nhất trong bất kỳ trường hợp khốn khổ nào.
Thần hộ mạng và cứu tinh của chúng tôi là một người đàn ông to béo và rất cởi mở dưới cái tên Phu-Chính-Sán, bà con của một người bạn của Pao vốn là chủ một nhà xuất nhập cảng giàu có. Nay tài sản bị phân tán vì chiến tranh, đã hy sinh hết cả mọi thứ cho Tổ quốc, ông đến Hồng-Kông làm nghề dạy học. Cùng với vợ và năm con, ông sống trong một căn nhà hai phòng nằm cao tít trên sườn núi. Ông tiếp đón chúng tôi y như là hai đứa con hoang trở về, lo sắp xếp các thùng hành lý to tướng của chúng tôi và rất tiếc không thể cho chúng tôi lưu ngụ vì chỗ ở quá chật và chỉ cho chúng tôi một khách sạn vừa túi tiền của chúng tôi.
Với những lá thư giới thiệu của ông ta, chúng tôi tới thăm các bạn hữu của ông xem có ai giúp gì được không? Chúng tôi qua hết văn phòng này đến văn phòng khác, từ bạn này qua bạn kia, theo dò mỗi chút hy vọng và luôn luôn được tiếp đón lịch sự thông cảm. Chúng tôi uống không biết bao nhiêu tách nước trà, nhắm không biết bao nhiêu bánh và quen được nhiều người rất dễ mến, nhưng chẳng thu lượm được kết quả mong muốn. Ngày hết, mệt bã người sau những cuộc tìm kiếm như vậy, chúng tôi đến nhà hàng Hoàng Long trễ hẹn với gia đình Phu-Chính-Sán bốn giờ đồng hồ. Sấp nhỏ chắc đợi gần muốn xỉu nhưng vẫn không để lộ ra ngoài. Phu xua tay gạt lời xin lỗi của chúng tôi về sự trễ hẹn và nói câu nói lịch sự thông thường:
- Nhưng còn sớm, rất sớm mà!
Mặc dù suốt ngày hôm đó chúng tôi không có lấy một chút thì giờ nghỉ ngơi tôi cũng không thể nào cưỡng được việc đi mua sắm. Các cửa hàng của Hồng-Kông bầy bán đủ các loại hàng của cả thế giới và chúng tôi sắp đi vào nội địa, cắt đứt hẳn với cái kho hàng tuyệt diệu đó. Những gian hàng của nhà Vĩnh-An rất là mỹ lệ với những cái tháp kỳ dị, những tủ kính bầy đầy những hàng vải thêu tay, sản phẩm của Sơn-Đầu và Ninh-Ba. Pao lúng túng đứng cạnh tôi trong khi tôi chọn một vài món đồ. Có lẽ đây là lần đầu tiên chàng đi mua sắm với một phụ nữ. Trong khi chọn hàng, tôi hay hỏi ý kiến của Pao nhưng chàng chẳng giúp gì được. Chàng lấy tay sờ mấy sấp hàng nhiễu và thì thầm:
- Liệu mặc hàng này em có bị lạnh không? Vả lại nó có vẻ không được bền.
Rồi chàng lảng ra chỗ khác và chăm chú xem tủ đồng hồ. Khi tôi lại gần, chàng đang xem xét một chiếc nhỏ xíu bằng bạch kim với sợi dây đeo bằng kim khí.
- Em có thích cái này không? Chàng hỏi.
Cái đồng hồ quả là đẹp, đẹp nhất trong quầy. Chàng đeo vào cổ tay tôi.
- Quà sinh nhật cho em.
Đó cũng là kỷ vật đính hôn của chúng tôi, bởi vì quá nôn nóng rời nước Anh, chúng tôi quên cả nghĩ đến việc trao đổi kỷ vật theo phong tục nữa. Nếu chúng tôi đính hôn theo sự dàn xếp của gia đình, theo đúng phong tục cổ hàng bao thế kỷ xưa của người Trung-Hoa, hai bên giòng họ sẽ trao đổi đủ thứ quà, nhiều và quý giá hết mức mà hai gia đình có thể đài thọ - các cây lụa, vòng vàng, khăn thêu, bình, chóe, các đồ sơn mài - tất cả sẽ được chất trên những cái khay sặc sỡ do hai người khiêng, đi dài theo các đường phố, trong tiếng kèn, sáo chập chóe dẫn đầu.
Nhưng cái cách Pao tặng tôi món quà của chàng là lúc chàng khóa sợi dây vào tay tôi, chứa một vẻ thành khẩn trang trọng gấp ngàn lần các cuộc lễ lạc có tính cách phô trương kia.
Sau khi chạy quanh Hồng-Kông ba ngày, thành phố này đã trở thành quen thuộc. Khu thương mại phủ một mầu xám và có vẻ cũ kỹ như thế được xây từ thế kỷ 19, các ngôi nhà gạch đầy bụi, những chiếc lan can, những cửa tò vò. San sát trên những đường hẻm tạp sắc, đông đúc là những ngôi nhà hai tầng mỏng manh, cái nọ nối tiếp cái kia kéo dài hàng cây số. Các xe kéo chạy ào ào trong tiếng kèn kêu toe toe, các xe điện khập khiễng lăn trên hai đường sắt hẹp và khắp chỗ, đâu đâu cũng toàn những người miền Nam nhỏ nhắn và ngăm đen.
Tiếng Quảng-Đông là căn bản cho một thứ ngôn ngữ tạp nham đủ loại. Người ta thấy đủ các thứ thổ âm miền bể bắc: Ninh-Ba, Hưng-Hóa, Phúc-Châu - lẫn với ngôn ngữ chính của miền Bắc, nhịp nhàng, chững chạc hơn cùng với đủ thứ tiếng ngoại quốc. Tất cả tạo nên giọng điệu phức tạp của Hồng-Kông. Thành phố lại cuồn cuộn thêm người: những người giàu có chạy sang khu trung lập để giữ của; những kẻ chạy loạn cốt chạy lấy mạng sống; những công chức chuyên lo về nghiệp vụ và liên lạc; các tay gián điệp đủ quốc tịch; những người có món gì muốn bán hay những kẻ đi tìm thứ gì có thể mua. Cuộc chiến trong nội địa, gần đó, ở phía sau dẫy đồi trong khu Cửu-Long đã ảnh hưởng lên nhịp sống của Hồng-Kông, nó giống như một chiếc đầu máy phì phò kéo một đoàn xe quá nặng.
Mặc cái vẻ vội vàng và căng thẳng khác lạ biết bao với nhịp sống sang cả của Bắc-Kinh, đây vẫn là Trung-Hoa. Với chuyến trở về (mặc dù chúng tôi mới ở ngưỡng cửa), hòa mình vào lối sống Trung-Hoa, thời gian chúng tôi ở bên Anh trở thành một kỷ niệm mờ ảo như hình ảnh của giấc mơ nhạt nhòa vào lúc buổi sáng thức dậy. Thật giống y như là những năm dài đã bị xóa đi. Với tư tưởng và tình cảm lúc đó, chúng tôi gần gũi với cái thời niên thiếu sống ở miền Bắc hơn. Phải chăng mới hôm qua đây chúng tôi vừa đi dạo dọc theo con kinh, dưới rặng liễu xanh, oằn mình dưới sức nóng thiêu đốt của mặt trời. Chúng tôi lại trở nên náo nức, nhiệt thành như những đứa trẻ khôn trước tuổi, lòng đầy can đảm và lý tưởng, tin chắc vào vinh quang của xứ sở và thiện chí của mọi người; tổ quốc cần chúng tôi và thế hệ chúng tôi để xây dựng lại những gì đã đổ vỡ ngả nghiêng.
Chúng tôi mất ba ngày ở Hồng-Kông mà không tìm được cách nào giải quyết vấn đề di chuyển. Hình như có cái gì trục trặc, nhầm lẫn trong hoàn cảnh oái oăm muốn giữ chân không cho chúng tôi đi Hán-Khẩu. Sự giải cứu tới vào lúc không ai ngờ... Tiếng Phu-Chính-Sán trong điện thoại:
- Có một chuyến xe lửa đi Quảng-Châu khởi hành vào lúc bốn giờ rưỡi chiều nay; nó sẽ đi qua Hán-Khẩu. Không chừng đây là chuyến chót.
Chúng tôi vội vàng cám ơn và chạy ra nhà ga mà vẫn không dám tin là thật. Chúng tôi đã bị thất vọng bao nhiều lần. Đó chỉ là một tin vịt, không nên quá tin tưởng. Vậy mà nó lại đúng sự thật. Người bán vé cho chúng tôi hai vé hạng nhất đi Hàn-Khẩu y như thể đó là chuyện thông thường nhất trên đời. Đúng mười sáu giờ, chuyến tốc hành mầu xanh, một chiếc xe tốt đây.
Chúng tôi chạy về khách sạn sửa soạn va-li. Chúng tôi chỉ có thể mang những đồ xách tay và quơ vội một vài thứ cần thiết. Phu-Chính-Sán đến và tổ ý muốn giúp đỡ. Chúng tôi nhờ ông ta giữ hộ những hành lý còn lại cho đến khi nào có thể gửi theo sau. Chúng tôi qua phà với mấy chiếc va-li và chạy đến nhà ga. Phu-Chính-Sán đi tiễn chúng tôi, mang theo bánh và ít trái cây làm quà tiễn biệt.
Xe lửa đã nằm chờ sẵn trong sân. Chúng tôi lên tầu. Trên sân ga, Phu-Chính-Sán nhất định đứng đợi cho đến khi tầu khởi hành. Phải đợi một thời gian lâu và chúng tôi vừa nóng ruột vừa lo lắng thấy như dài vô tận. Tôi nhìn đồng hồ, đã bốn giờ rưỡi. Tôi nhìn vài cành cây lác đác chung quanh nhà ga. Hải đảo Hồng-Kông ở về phía bên kia eo biển, quang cảnh đã thành quen thuộc. Những giờ phút chờ đợi kéo dài. Gần năm giờ. Chúng tôi đã quá lạc quan! Chẳng mấy chốc họ sẽ đến báo rằng: "Hôm nay không đi! Ngày mai cũng vậy! Con đường đã bị cắt. Oanh tạc". Mệt mỏi, chúng tôi sẽ lại quay về khách sạn với những va-li hành lý. Một lát sau khuôn mặt dễ thương của Phu-Chính-Sán lui dần lại phía sau. Chúng tôi nghiêng người khoa tay chào ông, đồng thời từ giả cả nhà ga, cả vịnh nước và hải đảo. Rồi chúng tôi ngồi vật xuống ghế, thở ra khoan khoái lúc xe bắt đầu tăng tốc độ.
Chúng tôi đang tiến về dẫy đồi. Mặt biển xanh như ngọc rời lại phía sau. Dẫy đồi mở ra cho chúng tôi băng qua rồi lại khép lại che lấp hình ảnh của Hồng-Kông trong tầm mắt của chúng tôi. Chúng tôi đang trên đường đến Hán-Khẩu.
Buổi tối thứ hai, chúng tôi đến Dương-Châu, ngã ba đường sắt quan trọng, nơi con đường Quảng-Châu - Hán-Khẩu gặp con đường đi về Quế-Lâm ở phương Nam. Vào thời bình đi từ Dương-Châu đến Hán-Khẩu chỉ mất vài tiếng đồng hồ. Chúng tôi phải đi trong bốn ngày.