CHƯƠNG NĂM TRĂNG MẬT
Hôm đó, khí trời mát lạnh, gió bấc lạnh lẽo đã thổi. Cơn nóng tháng mười của mùa hạ đã dứt. Giờ đã nhuốm khí lạnh của tiết đông. Với lại ngoài cái chuyện thay đổi khí trời, tôi vẫn có một điều gì đó canh cánh bên lòng, mang máng như một hung tin và một nỗi lo âu vơ vẩn. Không phải chỉ vì cái tin Hán-Khẩu sẽ mất lẩn quẩn trong trí tôi. Dân chúng cũng dần dần biết điều đó, họ thì thào bàn tán với nhau. Nhiều người khác cũng đã biết rõ như tôi. Những cửa hàng bớt tấp nập; nhiều hàng đã đóng cửa, những tấm ván đóng ngang cửa chìa bộ mặt trống trơn ra đường phố. Từ trên cửa sổ bệnh viện tôi theo dõi cuộc di cư: người người đi qua, mang theo cái gia sản nghèo nàn gói ghém trong mấy cái bọc hay trên hai cái thúng lủng lẳng trên hai đầu đòn gánh. Họ ra đi, lầm lũi tiến về phía Tây, trốn tránh quân xâm lăng. Từng dẫy người đứng chờ trước những con tầu đi về phía các bến trên thượng lưu sông Dương-Tử. Các chuyến xe lửa đi về phía Nam đều đã chật ních những người từ mấy tuần lễ nay. Những ai chần chừ không sớm quyết định đều hết phương tiện chuyên chở. Tất cả mọi thứ đều đã được đặt thuê từ hàng tháng trước. Họ đành dắt díu, bồng bế con cái đi bộ nguyên cuộc hành trình về phía Tây. Tim tôi thắt lại trước cái quang cảnh đã thành quen mắt ấy. Khi tôi còn bé, lúc đói kém xảy ra ở miền Bắc, cũng đã có những cảnh như vậy. Ba năm liền không có một giọt mưa. Những kho chứa lúa đều cạn trơn. Người ta đã ăn hết đủ các thứ, kể cả vỏ cây. Những con vật trung tín cũng đã bị giết để làm thực phẩm. Người ta đã uống đến máu sống của con trâu cuối cùng. Sau chót, trước cái viễn ảnh khủng khiếp người ăn thịt người, những ai còn có thể đi được đều cố đứng dậy để ra đi, lê lết trên hai bàn chân mỏi, còng mình dưới đống đồ đạc chất trên hai đầu đòn gánh chĩu nặng đôi vai gầy. Họ rời bỏ đất đai, ra đi kiếm việc làm và miếng ăn tại những miền mà mây mưa còn nhớ đến, chưa nỡ quên. Nhưng nơi đây, cơn hoạn nạn còn khủng khiếp hơn nữa, bởi vì nó không phải là một thiên tai của định mệnh mà là một hành động có ý thức của con người. Chính chiến tranh đã giáng họa lên đầu đám người vô tội, đám trẻ con khốn khổ này.
Tôi quay về với công việc của tôi.
Ngày 17 tháng mười.
Nửa đêm. Pao đã đi. Chàng đã đi và tôi đã để chàng đi một mình. Kìa trên mặt bàn, những nhánh thủy tiên còn đượm mùi hương tuy đã hơi úa vàng, chiếc đồng hồ quà tặng của Pao và con dấu gỗ với cái tên không còn là của tôi nữa. Hà-Tú-Anh. Tôi không còn là Hà-Tú-Anh nữa mà đã là bà Tăng-Phu-Yến. Tôi và Pao đã lấy nhau được hai ngày.
Chiều đến, sau khi đã hết việc, tôi trở lại căn nhà kỳ cục được coi như là "nhà" của chúng tôi. Pao vẫn chưa về. Tôi lại ra đường hy vọng sẽ gặp chàng. Màn đêm buông xuống. Tôi cố chống đỡ với cơn gió lạnh đang bốc tung đám bụi mù trên hè phố. Dọc theo đường Chương-Hán, hàng đèn nê-ông sáng chưng của các cửa tiệm và quầy hàng bị cắt quãng bởi những hũng đen thảm đạm: những căn đóng kín và bỏ trống. Chưa đi xa lắm tôi chợt thấy một linh cảm kỳ lạ. Tôi quay ngược lại đường cũ, gần như chạy đua với cơn gió, tim đập rộn ràng vì một nỗi sợ hãi bâng quơ. Có ánh đèn trong phòng ngủ của chúng tôi. Tôi đẩy cửa bước vào, Pao đang cúi người trên chiếc va-li. Chàng ngửng lên:
- Tú-Anh, anh phải đi. Tầu sẽ khởi hành vào lúc tám giờ.
Tất cả mọi thứ đã được đột ngột quyết định trong một vài giờ. Bộ Tổng-Tham-Mưu phải đi ngay tối nay. Tầu đang đợi ngoài bến. Tầu sẽ đi qua hồ Đông-Kinh để đến Trường-Sa, rồi từ đó Bộ Tổng-Tham-Mưu sẽ đáp xe lửa đi Hàng-Châu trong tỉnh Hồ-Nam và sau cùng sẽ băng đồng để đến một ngôi làng có tên là Nam-Ninh. Pao nói cho tôi nghe về những điều đó bằng một giọng nhát gừng trong khi tôi gấp quần áo cho chàng. Sau cơn xúc động vì sự ngạc nhiên lúc đầu, sự việc xảy ra như thể chúng tôi đã biết và đã chờ đợi nó từ lâu nay. Giọng bình thản không mảy may xúc động, chúng tôi nói với nhau những chuyện thông thường.
"Tiệm giặt chưa mang áo sơ-mi đến trả. Em sẽ gửi cho anh sau. Cuộc hành trình sẽ dài bao lâu? Khi đến Trường-Sa hãy viết thư để em yên chí là anh đã đến nơi vô sự. Phải mất bao lâu mới hy vọng nhận được thư? Em sẽ viết cho anh theo địa chỉ nào? Em sẽ rời đây vào ở trong cư xá y tá của bệnh viện. Như thế tiện hơn."
Cả hai đứa, không ai nghĩ là tôi có thể đi cùng với Pao ngay đêm hôm đó. Tôi còn công việc của tôi. Bệnh viện có quá nhiều việc trong khi nhân viên lại quá thiếu. Các trận chiến vẫn tiếp diễn. Các thương binh được gửi từ các chiến tuyến về đây suốt ngày đêm. Tôi vẫn còn cần thiết ở Hán-Khẩu. Tôi từ Anh trở về với mục đích giúp ích. Tôi sẽ ở lại đây cho đến khi các đơn vị chiến đấu thực sự rút lui và các công cuộc phòng thủ hoàn toàn bị bỏ hẳn. Nhưng điều đó có vẻ xa xôi và mơ hồ quá.
Chúng tôi coi như nó chỉ kéo dài đôi ba tuần, vài tháng là cùng! Pao sẽ trở lại đón tôi khi tình hình thực sự nguy kịch. Hay có thể - như chúng tôi vẫn tin tưởng mặc tất cả những dấu hiệu báo động - cuộc trường kỳ kháng chiến ở Vũ-Hán sẽ đạt thắng lợi và quân Nhật sẽ bị đẩy lui... Tôi sẽ đợi Pao ở Hán-Khẩu. Chính phủ sẽ lại quay về đây.
Chúng tôi gọi xe kéo đến đại lộ Bund. Tôi đi theo tiễn chàng. Tại bến tầu, dưới ánh sáng chói lòa của các ngọn đèn pha hay dưới ánh đèn mờ đục, lung linh các ngọn đèn dầu, người ta đua chen nhau lên tầu trong cảnh hỗn loạn. Những chiếc xe kéo hồng hộc chạy tới; những chiếc xe hơi bấm còi inh ỏi cắt ngang đám đông; các sỹ quan dưới lớp quân phục, các viên chức mặc âu phục hay chiếc áo dài cổ truyền đang tấp nập lo đưa gia đình hay canh chừng việc chuyển mớ đồ đạc tom góp vội vàng lên tầu. Có những mệnh phụ mảnh khảnh và sang trọng dưới lớp áo dài bóng bẩy, môi tô son, lông mày kẻ chì. Những người làm với tiếng la hét cọc cằn. Những đứa trẻ mặt còn chĩu nặng cơn buồn ngủ. Những đứa bé khóc the thé và những chị vú thản nhiên trật vú cho chúng bú. Những phu khuân vác còng mình dưới những kiện hàng khổng lồ.
Tôi và Pao cố gắng băng ngang qua boong chiếc tàu đặt giữa cầu tầu và chiếc tầu nhỏ chở các sỹ quan của Bộ Tổng-Tham-Mưu cùng gia đình. Mảnh gỗ kê vội thay cho chiếc cầu sắt chũng xuống, đong đưa kẽo kẹt dưới chân chúng tôi. Một người đàn bà có đôi chân bó nhỏ đã trượt chân rơi xuống nước ngay giữa khoảng trống của hai chiếc tầu; người ta vớt bà ta lên giữa những tiếng la hét và thích thú của những người đứng xem. Nhiều phu khuân vác thi nhau ăn trộm đồ đạc, hành lý và cả bàn ghế.
Chúng tôi bước chân lên chiếc tầu chở Bộ Tổng-Tham-Mưu. Boong tầu đầy những hành lý đặt bừa bãi và những đống quân dụng chất thành núi. Dưới ánh đèn dầu mờ mờ chiếu hắt lên những bóng người ngồi tựa lưng vào các đống đồ. Chỉ có điện khi máy chạy thôi. Người ta xô đẩy, chen lấn nhau: tiếng ồn ào chửi rủa hoặc kêu réo nhau ơi ới. Những chiếc nồi rơi từ các bọc đồ kêu lên loãng xoãng hoặc những gói hành lý xổ giấy đổ tung tóe. Người ta dẫm cả lên những chiếc chăn trải vội trên sàn tầu. Trong những hành lang tối tăm, nhiều khi người ta bước cả lên những người bệnh hoạn nằm co ro dưới sàn tầu. Chúng tôi len lỏi qua đám đông và lên boong tầu, chú Pao, tướng Tăng đã giữ cho chúng tôi một chỗ: một chiếc chăn trải dưới sàn.
Một nỗi buồn gớm ghiếc bao lấy chúng tôi. Vai kề vai, chúng tôi ngồi im lặng bên nhau. Phía dưới, người ta vẫn tiếp tục chất chứa lên tầu. Đã chín giờ rưỡi mà vẫn chưa có lệnh lạc gì cả. Giọng hò của đám phu khuân vác: Hấy à! Hấy à! át cả cái nhịp hoạt động náo nhiệt của họ.
Tầu sẽ rời bến sau khi người ta đã chất lên tầu nhưng thứ cần thiết.
- Đợi ở đây đến phút chót cũng chẳng có ích gì, Pao kêu lên. Có lẽ đến nửa đêm tầu mới chạy và ngày mai em còn phải làm việc ở nhà thương nữa. Giã từ lúc nào cũng thế mà thôi. Tốt hơn hết chúng ta hãy tạm biệt nhau để em còn về ngủ lấy một chút.
Chúng tôi từ biệt nhau. Nước mắt mặn thắm trên môi hôn chúng tôi. Rời boong tầu, chúng tôi phải xô đẩy để chen xuống một chiếc cầu thang vừa hẹp vừa dốc đứng, rồi lại phải xô đẩy giữa đám đông lổn nhổn trên boong dưới để ra cầu. Xuống đến đất chúng tôi mua vài cái bánh bích quy và mấy chiếc bánh mè bởi vì cả hai tôi đều chưa ăn tối. Sau khi ăn xong, Pao vẫy cho tôi một chiếc xe.
- Thôi em về đi.
- Anh đi.
Chỉ có thế. Ánh đèn pha sáng chói và những người qua lại tấp nập khiến chúng tôi không có thể làm gì hơn. Chiếc xe kéo tôi chạy băng băng. Pao quay người đi, mất hút vào trong đám đông.
Tôi trở về căn phòng lạnh lẽo, căn "nhà" của chúng tôi. Chúng tôi đã cùng nhau cười vì cái vẻ kỳ cục của nó. Tối hôm nay nó trở thành gớm ghiếc với mớ đồ cổ, với những tấm tranh tồi tệ trong những cái khung lớn quá khổ treo nghiêng ngả trên tường, với ngọn đèn điện chói mắt dưới cái chụp thủy tinh mầu hồng nhạt. Vì gió cuốn nên bụi phủ khắp nơi và sờ nơi đâu cũng đều thấy nhám bụi.
Tôi đi lại như người mộng du, đầu óc còn choáng váng về sự đột biến của các biến cố. Đây chỉ là một cơn mơ, một cơn mơ! Pao đâu có đi thật. Tôi sẽ thức dậy trên cái giường rộng thênh thang và sẽ thấy chàng bên cạnh. Hình như tôi đã nằm trong bóng đêm đen một giờ không chợp mắt, quá đau khổ để có thể khóc.
Rồi bất thần như bừng tỉnh sau cơn ác mộng, tất cả những ý thức về bổn phận, chịu đựng tan biến hết. Tôi sẽ làm gì ở Hán-Khẩu trong khi Pao đang trên đường đi Trường-Sa. Dễ thường trong khắp cả xứ Trung-Hoa tôi chỉ có thể làm việc ở Hán-Khẩu được thôi sao? Có gì đáng kể, không, không có gì đáng kể ngoài việc chúng tôi phải được gần nhau! Tại sao tôi lại không đi cùng với chàng? Tại sao tôi lại để cho Pao đi một mình như vậy?
Tôi nhẩy ra khỏi giường - chưa đến nửa đêm - mặc quần áo, vứt vội vàng một vài thứ vào trong va-ly, với lấy cái sắc tay rồi chạy như bay ra đường. Tôi gọi một chiếc xe kéo và dục:
- Mau lên, mau lên.
Chiếc xe phóng vụt về phía đại lộ Bund, chồm tới chân cầu tầu. Chiếc tầu chở Bộ Tham-Mưu đã ra khơi, mang theo cả Pao đi rồi.
Chẳng còn gì ngoài mặt nước loang loáng ánh đèn phản chiếu trên mặt sông.
Sáng ngày hôm sau, từ khung cửa sổ của dẫy nhà dành cho y tá, tôi đã chứng kiến một cuộc dội bom. Tại Thượng-Hải, tại Quảng-Châu cũng như tại Hán-Khẩu, quân Nhật luôn luôn tránh xa các nhượng địa quốc tế. Chỉ trừ lý do tai nạn, nếu không chúng tôi có thể nhìn ngắm cuộc chiến từ các khung cửa sổ hay từ trên nóc nhà mà không sợ nguy hiểm gì; chiến cuộc thật là gần gũi, đôi khi xảy ra ngay sát cạnh mình, chỉ cách vài dẫy nhà. Người ta sẽ có cảm giác lạ lùng khi thấy mình ở kề cận nỗi nguy hiểm nhưng vẫn tách ra riêng biệt, như những người ngoại quốc ở Thượng-Hải thường bình thản nhìn Thương-Bắc bị dội bom và bốc cháy bên kia vịnh Tô-Châu, đôi khi họ mở dạ tiệc trên nóc nhà để tìm những cảm giác mạnh khi nhìn những ngọn lửa liếm từ đường này sang đường khác trong thành Nam-Đảo, họ có gì khác biệt với những người Trung-Hoa vẫn thường tụ họp tại miếu ông địa để xem hành hình các tử tội? Chỉ có điều ở đây, người ta không nhìn thấy máu; đó là sự khác biết độc nhất.
Buổi chiều, sau khi làm việc, tôi thấy chán nản, trống rỗng thay vì nôn nóng về với Pao như mọi khi. Nhưng Pao đã đi rồi. Tôi đi dạo một mình trên đại lộ Bund, để mặc cho đôi chân mang tôi đến cầu tầu chỗ tôi đã nhìn Pao lần cuối cùng. Lại vẫn cảnh cũ, một đám người đông lố nhố trên cầu tầu, những chiếc xe hơi, những xe kéo, những phu khuân vác, những bà mẹ ôm con, tất cả cái ồn ào náo nhiệt của một cuộc lên tầu; lại cảnh ngày hôm qua tái diễn. Thật là khó tưởng được rằng Pao không có ở đây như ngày hôm qua.
Tôi gặp An-Phương đứng giữa một đống máy móc trên cầu tầu. Anh cười với tôi:
- Dọn nhà chị ơi!
Tầu của anh sẽ rời bến tối nay. Anh hỏi thăm Pao. Tôi kể cho anh nghe. Anh ta nhìn tôi soi mói và bảo:
- Chèng đéc! Có lẽ hai người biết đang làm gì đấy chứ! Nếu tôi có vợ, tôi sẽ mang cô ta theo, Hán-Khẩu sẽ thất thủ nay mai.
Sáng hôm sau, tôi thức dậy giữa một tiếng ầm ầm khó chịu, một tiếng gầm nhỏ như nhuốm mầu kinh hãi.
Bây giờ dân chúng mới rõ cái tin tệ hại.
Đây hẳn là một cuộc rút lui nhưng không hỗn loạn và kinh hoàng. Tiếng người lao xao, tiếng giầy dép khua rào rào đã đánh thức tôi dậy. Tôi nhìn dòng người qua cửa sổ. Họ sẽ băng qua hàng trăm cây số để đi đến Ích-Châu, đến Tứ-Xuyên. Mùa đông giá buốt sẽ đón chờ họ.
Đường phố ngập nắng. Gió thổi lồng lộng trên nền trời xanh, lao qua những ngôi nhà với tiếng gào hú lanh lảnh, gió lạnh biểu hiệu của mùa đông giá buốt thổi tốc lên thân hình của hàng vạn người đang lang thang trên các nẻo đường xa lạ.
Tôi ra phố mua một tờ báo. Không còn báo bán nữa. Tờ Đại-Quang-Báo là tờ báo chính đã ra số cuối cùng ở Hán-Khẩu với lời hiệu triệu quân sỹ nơi trang nhất và một cái tin di tản nhà in về Trùng-Khánh nơi trang trong. Có nhiều tin đồn về Quảng-Châu. Không ai biết rõ gì cả, nhưng mọi người đều xì xào đến việc phản bội. Có lẽ Quảng-Châu cũng đã bị thất thủ rồi chăng?
Hán-Khẩu khoác một vẻ buồn nản khác thường. Bất ngờ người ta cảm thấy lạnh khi đứng trong bóng mát và nóng nực ở ngoài nắng. Đường phố mới hôm qua còn nhộn nhịp bán buôn, hôm nay trở mặt xa lạ với những cửa hàng trống vắng. Một vài tiệm khác đang rục rịch đóng cửa. Người ta thấy những ông chủ đang loay hoay đóng ván chắn cửa, khóa chặt các ống khóa và đút chìa khóa vào túi rồi ra đi, tay vung vẩy chiếc quạt vẻ thản nhiên.
Tất cả mọi người đều đã được thông báo. Mọi người đều ra đi. Dù vậy vẫn không có sự kinh hoàng nào cả. Đâu đâu cũng là trật tự và kỷ luật. Mọi người đều yên lặng, bình thản, chỉ có tiếng gió và tiếng giầy dép khua rào rào trên mặt đường.
Không còn cần phải giữ bí mật những tin tức mà Pao cho tôi hay mấy bữa trước nữa, vì mọi người đều đã biết và tại bệnh viện, tuy vẫn giữ vẻ bình tĩnh như thường lệ, chúng tôi không khỏi bàn với nhau về việc dân chúng tản cư ào ào ở dưới đường; tôi nói với cô James, y tá trưởng của bệnh viện rằng Hán-Khẩu có thể thất thủ bất cứ lúc nào. Mặt đỏ bừng lên dưới lớp da mỏng của người dân Anh, cô nói với tôi giọng trịnh trọng:
- Cô không nên để ý đến những tin đồn bậy bạ đó. Ngay ngày hôm qua, khi dự một buổi tiếp của phu nhân Thống tướng Tưởng-Giới-Thạch, bà còn hứa chắc với chúng tôi là bà và Thống tướng chỉ rời Hán-Khẩu vào phút chót. Họ còn ở cả đây, vẫn không có điều gì nguy hiểm gấp rút cả.
("Không đâu cô James ơi! Cô lầm lớn rồi! Cô không hiểu rõ Thống tướng và phu nhân đấy thôi! Sự hiện diện của hai ông bà không bảo đảm một sự an ninh tuyệt đối đâu, trái lại là khác... Phải, hai ông bà sẽ ở lại đến phút cuối cùng... Họ sẽ ở lại để giám sát, canh chừng việc rút lui. Rồi sau khi đã chắc chắn rằng mọi thứ gì có thể mang đi đã được mang đi, mọi thứ gì có thể phá hủy đã được phá hủy, để không cho rơi vào tay địch bất cứ thứ gì hữu ích hay giá trị cả, họ sẽ lên tầu bay và ra đi, yên trí vì đã hoàn tất một việc lớn.")
Tôi giữ riêng những điều đó cho tôi, chỉ có thời gian và sự kiện mới có thể thuyết phục được cô James. Tuy nhiên, trong khi các tư tưởng của tôi đang quay cuồng chung quanh đề tài ấy, đột nhiên sự thực bừng sáng lên trong đầu tôi: "Hán-Khẩu sắp thất thủ". Cơn khủng hoảng, nó đây, rất kề cận! Người ta đang rút quân. Chính phủ đã ra đi. Hán-Khẩu đã bị bỏ...
Lần đầu tiên, không nông nổi mà cũng không quá bình thản đến cái độ khác thường, tôi nhìn thấy rõ viễn ảnh thất thủ của Hán-Khẩu. Cũng giống như ở Thượng-Hải, người ta có thể xin ty nạn trong các nhượng địa: nhưng dù không bị đe dọa thể chất tôi cũng vẫn sẽ đau khổ khi không được hút thở không khí trong lành của nước Trung-Hoa tự do. Tôi sẽ bị phân cách với Pao, người chồng thân yêu mới cưới có hai ngày của tôi. Có thể, tôi sẽ bị cuốn hút vào trong cơn lốc vô vọng và ma túy như vài người bạn ở Bắc-Kinh của tôi. Phải chịu đựng một cuộc sống buồn nản, không mục đích, sống trong sự hàng phục, phải cúi đầu kính cẩn chào mấy tên lính Nhật đứng gác ngoài đường phố, phải lo sợ không được tự do ăn nói, ta sẽ không còn làm chủ được mình nữa, không còn sáng suốt nữa. Không có gì dễ cho bằng việc buông thả du mình vào cái mông lung bay bổng của thuốc phiện, nó không còn nguyên vẹn là cuộc sống nữa. Khi tôi còn làm tại Hán-Khẩu, tôi đã không tiên liệu cục diện lại có thể thay đổi nhanh chống như thế. Khi tự kiểm chứng, hình như tôi đã nghĩ đến việc ở lại cho đến phút chót chỉ vì phách lối. Cái phút chót đó đã đến sớm hơn tôi dự liệu nhiều. Tôi đã bị mắc bẫy! Không còn cách nào mua được một vé xe lửa hay tầu thủy. Tôi không còn đủ sức vác ba-lô lên vai và đi bộ hàng trăm cây số để đến Trường-Sa hay Trùng-Khánh như những người khác. Tôi đã hết cách. Không còn ai để cầu mong giúp đỡ: tất cả bạn bè của Pao đã đi cả rồi.
Hốt nhiên khuôn mặt gầy gò của mục sư Kent hiện ra trong trí tôi. Tôi không quen ông nhiều. Tôi chỉ là một trong hàng ngàn người mà ông đã gặp trong các buổi lễ, nhưng nghĩ đến giọng nói hòa nhã nghiêm trang của ông, tôi tin chắc rằng ông sẽ giúp được tôi... Tôi đến tìm và ông đã tỏ ra hết lòng như tôi đã kỳ vọng. Ông có nhiều manh mối, tuy rằng điều đó sẽ làm ông mệt nhọc hết cả ngày đi gặp người này người kia trước khi đạt được một chút hy vọng. Nhưng đêm đó tôi có thể ngủ thật yên lành, biết rằng mục sư Kent đã kiếm được cho tôi một chỗ trên chiếc tàu Hồng-Thập-Tự Quốc-Tế sẽ đi Trường-Sa trong vòng ba ngày nữa, ngày 22 tháng 10.
Những người bị thương vẫn ùn ùn chở tới. Trận chiến vừa chưa chấm dứt, nhưng những giới thẩm quyền đã tới để giám sát việc di tản các thương binh có thể chuyên chở đi được. Cuộc rút lui đã diễn ra trong trật tự hoàn toàn đến nỗi không ai có thể nhận biết được, nhưng không còn gì nghi ngờ nữa. Khi tôi đến gặp cô James báo cho cô biết tôi sắp đi, cô không nói gì cả. Cô ta đã hiểu ra rằng có việc xảy ra mà cô ta không biết. Tôi có cảm tưởng như mình đang đào ngũ, khi mà công việc vẫn còn, nhưng tất cả các công việc sẽ trì trệ ngay khi quân Nhật ào vào Hán-Khẩu. Cô James sẽ ở lại, tôi chắc chắn như vậy, dù rằng cô ta có phải làm việc một mình đi nữa. Quân Nhật có thể đến và bổn phận của cô ta phải ở lại với nhà thương. Cô ta biết cách đối phó với bất cứ tình thế nào.
Khi dự tính của tôi đã rõ ràng, tôi có thể tập trung hết vào công việc, gắng thực hiện công việc của cả tháng trong hai ngày cuối cùng này. Ngoài đường, tiếng giầy khua trong đám bụi mù không lúc nào ngưng. Những tiếng động khác của thành phố thành khan hiếm hẳn... Đêm đến, tôi ngã dài trên giường, mệt bã người.
Đây là đêm cuối cùng. Ngày mai ra đi! Chấm dứt công việc ở đây.
Tôi bị khua dậy trước khi trời sáng vì tiếng gõ cửa và tiếng léo nhéo của chị bồi phòng. Hình như chị ta nói: "Điện tín". Tiếng Trung-Hoa gọi là chinh páo. Tôi lảo đảo bước ra cửa, người còn ngây ngất vì mệt, lòng quặn lại vì sợ hãi. Tôi bật đèn, kéo chốt cửa, Ngoài hành lang mờ tối, tôi nhìn chị bồi phòng đang khập khiễng bước đi. Chị ta chẳng để cái bì thư đen tối nào trước phòng tôi cả.
- Tú-Anh.
Pao đứng tựa sát tường, khuất trong bóng tối. Mặt chàng quay về phía tôi, tái xanh, cặp mắt sáng, long lanh và hai môi mím chặt. Tôi dụi mắt xem có phải mình nhìn thấy một bóng ma không.
- Trời ơi! Pao, có phải anh đấy không? Tôi kêu lên thảng thốt.
Thế rồi tôi nằm gọn trong tay Pao. Tôi khóc tức tưởi, người tôi run lên trong niềm sung sướng cùng độ y như cảm giác tê buốt của một cơn đau. Chàng ôm vòng quanh vai tôi. Áo chàng còn đượm hương vị của đường phố, của màn đêm. Pao hỏi tôi có lạnh lắm không vì tôi đang run lập cập. Tôi lạnh cóng cả người mà không biết. Tôi chịu vào giường và níu chàng ngã theo với nguyên cả quần áo, giầy vớ và chúng tôi ghì siết lấy nhau.
Cơn xúc động lúc đầu nguôi dần. Chúng tôi thì thầm nói cho nhau về bốn ngày vừa qua, bốn ngày mà dài đăng đẳng như hàng năm.
- Anh đến kiếm em. Pao nói. Người ta sắp đóng cửa sông để ngăn tầu chiến quân Nhật. Người ta nói rằng kể từ mai trở đi sẽ không còn tầu bè nào đi lại nữa. Hán-Khẩu thế là chấm dứt.
- Tất cả mọi người đều biết là Hán-Khẩu sẽ thất thủ, tôi trả lời. Tất cả mọi người đều ra đi từ bốn ngày nay.
Khi trở lên tầu, sau khi đã đưa tôi lên xe chiều hôm đó (một buổi chiều xa xăm như đã trôi qua hàng tháng nay), nhọc nhằn lắm chàng mới trở lên boong trên được. Vẫn chưa có gì tỏ ra là công việc lên hàng sắp chấm dứt cả. Pao gặp chú chàng đang đứng nói chuyện với mấy người bạn. Chàng đúng riêng ra xa không tham dự vào câu chuyện. Khoảng chừng hai mươi phút trôi qua. Những tiếng hò của đám phu khuân vác im bặt. Bất thần đèn điện bật sáng. Boong tầu rung theo nhịp máy chạy. Tướng Tăng quay sang Pao:
- Sao? Anh chị đã chiếm được chỗ rồi chứ? Cốt sao cho tiện là được, anh thấy mọi người không?
Pao trả lời:
- Cháu thì xong rồi, nhưng nhà cháu không đi theo. Nàng ở lại Hán-Khẩu.
Mặt tướng Tăng cau và tối sầm lại:
- Sao? Anh để cho chị ấy ở lại à?
- Vâng, nàng ở lại tiếp tục làm cho bệnh viện.
- Cả hai người đều điên hết cả, tướng Tăng kêu lên. Bộ anh không biết là Hán-Khẩu sắp mất hay sao? Đây là một cuộc rút lui.
- Đúng vậy, nhưng...
- Hán-Khẩu sẽ mất đến nơi, chỉ nội một tuần nữa quân Nhật sẽ chiếm được thành phố.
Pao tái xanh mặt. Chàng thú thật với tôi là quả thật lúc đó chàng như bị điện giật trúng ngay tim. Chàng nhẩy phóc tới bên phòng lái, chụt xuống chiếc thang hẹp, nhào qua đám đông đen nghẹt trên boong dưới, cố rẽ đường tiến ra phía cầu tầu. Nhưng máy tầu đã quay, người ta đã kéo neo. Đúng lúc chàng đặt chân lên bậc thang đầu tiên của boong tầu, tầu rùng mình và tách khỏi bến. Lúc chàng chạy ra đến thành tầu, nước đã ngăn đôi tầu và bến. Khoảng cách càng ngày càng xa, không thể nào nhẩy lên bến được. Pao quay lại chạy băng qua đám người và đồ đạc vào phòng máy.
- Quay lại, chàng van nài, quay đầu lại.
Nhưng người ta không thể quay tầu lại chỉ vì một cá nhân. Đó là điều không thể được. Pao hiểu rằng không thể làm gì được nữa. Chàng thẫn thờ trở lên boong tầu. Ánh đèn Hán-Khẩu đan trên mặt nước những chuỗi sáng lấp lánh dài đặc. Chàng nhìn mãi đường sáng cong vòng của bờ sông cho đến khi nó chỉ còn là một màn sáng mờ hắt lên trời như một lớp sương mù đỏ và vàng của một thành phố bốc cháy.
Những ngày và đêm kế đó chỉ là một nỗi lo buồn ghê sợ đối với Pao, bởi vì khoảng cách giữa chàng và tôi càng ngày càng lớn. Chàng nghe các sỹ quan trong Bộ Tham-Mưu trên tầu xì xào những tin đồn, tin thì đúng, tin thì thất thiệt khiến cho không còn biết đâu là chân đâu là giả nữa... Bây giờ quân Nhật chỉ việc tiến vào Hán-Khẩu. Chẳng còn gì cản bước họ nữa, cũng giống như khi họ chiếm Quảng-Châu vậy. Lối vào cửa Bạch-Giang sẽ bị cắt đứt. Người ta đang sửa soạn lưới ngăn. Người ta sẽ chặn hẳn con đường đó để ngăn không cho quân Nhật tiến về Trường-Sa.
Buổi trưa ngày hôm sau, tầu bay địch bắt gặp chiếc tầu. Đám hành khách vội ào đi kiếm chỗ núp. Tầu không mang một lá cờ, một dấu hiệu nào khả dĩ có thể xác định nó. Từ trên trời, người ta chỉ thấy một chiếc tầu bé xíu không có hộ tống. Có lẽ quân Nhật đã cho rằng chiếc tầu quá vô danh để chở những nhân vật quan trọng. Tầu bay đảo vòng trên trời rồi bay đi. (Sau này chúng tôi được tin họ đã bắn phá và đánh đắm một chiếc tầu chở hơn năm ngàn dân tản cư mà phần lớn là đàn bà và trẻ con. Bộ Tổng-Tham-Mưu và gia đình các sỹ quân đã phải trả cái giá quá đắt như vậy để thoát hiểm.)
Ngay khi lên bờ, Pao lập tức xin nghỉ phép ba ngày, sau khi dò biết chàng sẽ phải tìm Bộ Tổng-Tham-Mưu ở đâu, chàng leo lên một chiếc tầu Anh đi Trường-Sa về Hán-Khẩu. Sự yên tĩnh và vắng vẻ khiến chàng bỡ ngỡ so với cảnh náo loạn của con tầu mà chàng vừa rời. Chàng lang thang trên tầu, lòng nóng như lửa đốt. Chàng chạy xuống phòng máy hàng chục lần để thúc cho tầu chạy nhanh hơn với cái ý nghĩ thủy lộ sắp bị đóng luôn ám ảnh chàng... Đêm thứ tư sau khi ra đi, chàng lại quay lại Hán-Khẩu. Dẫy nhà xám hiện ra trên nền trời dọc theo bờ sông mập mờ đôi ba ngọn đèn. Tầu cặp bến. Pao nhẩy xuống đất. Một sự yên lặng bất thường trùm lên thành phố gần như bỏ hoang. Lúc đó là ba giờ sáng ngày 22 tháng mười.
Pao chấm dứt câu chuyện:
- Chắc chắn từ ngày mai không còn ai có thể ra khỏi thành phố nữa. Lưới ngăn sẽ đóng thủy lộ lại.
Tôi kể cho chàng nghe về việc tôi đã dành được một chỗ trên tầu Hồng-thập-tự quốc tế. Chàng nói có vẻ hơi dằn dỗi:
- Thế còn anh thì sao?
Tôi chấn tĩnh chàng rằng với sự quen biết trong Bộ Tổng-Tham-Mưu, chàng có thể kiếm được một chỗ.
- Thêm một người cũng chẳng làm đắm tầu được. Ngay sáng mai mình em sẽ đi lo vụ đó. Bây giờ anh nên đi kiếm chỗ và ráng ngủ một chút. Em không thể để anh ngủ trong này được. Luật lệ ở đây cấm.
- Nếu anh có thể kiếm được một phòng khách sạn?
- Anh có thể giữ nguyên cả khách sạn! Mọi người đều đã đi hết rồi.
Tám giờ sáng, tôi đi kiếm chàng. Cả chàng lẫn tôi đều không ngủ được trong mấy giờ xa cách qua. Một người bạn gặp ngoài hành lang đã chung phòng với chàng. Mới từ Hồng-Kông đến chiều qua, anh ta tưởng sẽ gặp được những nhân vật quan trọng mà anh ta cần gặp. Anh ta chỉ thấy một thành phố trống rỗng. Anh ta không biết gì về cuộc rút lui cả, điều đó tỏ rõ là cuộc di tản đã diễn ra nhanh chóng và rất kín.
Đường phố hoàn toàn trống vắng. Không có xe cộ lưu thông. Dòng người chạy tản cư chỉ còn lưa thưa, cơn thác lũ đã qua rồi. Tất cả các cửa hàng đều đóng cửa. Chỉ còn những người bán quà rong với cái lò nhỏ bán mì nóng, trứng luộc hay bánh bao. Chúng tôi mua bữa ăn sáng trên đường đi đến trụ sở Hồng-thập-tự. Tòa nhà này còn chứa nhiều cơ sở của các hội từ thiện khác, trong đó có cả phân đàn phụ nữ của hội Tam-Dân-Chủ-Nghĩa. Chúng tôi đợi sự quyết định về cái vé của Pao trong một căn phòng lớn có hàng trăm thiếu nữ đang ăn sáng. Họ mới may xong nửa triệu áo trấn thủ cuối cùng cho các binh sỹ ngoài tiền tuyến vào chiều ngày hôm qua. Hàng ngàn áo khoác xám dầy cộm chất đống và buộc chặt thành từng bó chất đầy góc phòng.
Trong khi Pao và tôi đang đợi, một người đàn bà dáng còn trẻ, mảnh khảnh bước vào. Mớ tóc đen bóng được cuộn thành búi sau gáy. Da mặt trắng xanh và không dồi phấn. Tôi tin rằng cặp mắt đen của bà là cặp mắt đẹp nhất mà tôi từng thấy. Nó long lanh sáng rực một sức sống mãnh liệt. Đó là phu nhân Thống tướng Tưởng-Giới-Thạch.
Bà nói với đám thiếu nữ, ra lệnh cho họ cột núi áo chất đống thành bó. Rồi nhìn thấy tôi, bà quay sang tôi ân cần hỏi han:
- Mọi sự đều tốt đẹp cả đấy chứ? Có ai lo cho cô không? Tôi có thể thu xếp để cô đi cùng với đám thiếu nữ này.
Tôi nói với bà là chiều nay tôi sẽ đi với nhà tôi. Bà tỏ vẻ hài lòng.
Tự nhiên tôi bật lên nói với bà sự ngưỡng phục của tôi. Bà nói vài câu bằng tiếng Trung-Hoa thoái thác tất cả những lời khen tặng.
Chiều tà trên dòng Dương-tử. Hán-Khẩu mờ khuất vào dĩ vãng. Lớp sương mù vàng úa quanh mặt trời làm dịu bớt chân trời sáng chói. Lòng trống vắng không cảm giác, chúng tôi sẽ mặc cho giòng nước cuốn rời xa những tàn bạo, rời xa thực tế - của tấn thảm kịch của nước tôi - chúng tôi lặng ngắm thành phố mà mai này sẽ rơi vào cõi chết và kinh hoàng. Đột nhiên tâm tình thụ động của chúng tôi tan biến đi như sương mù trước ánh nắng. Một ý chí quyết liệt dậy trong lòng chúng tôi, vì kìa, cao lớn, xậm đen, kiêu kỳ nổi bật trên nền trời sáng sủa mặt trời ta là đài kỷ niệm Vũ-Hán, được dựng lên để kỷ niệm những anh hùng liệt sỹ đã bỏ mình vào năm 1911 để giải thoát dân tộc khỏi ách độc tài phong kiến. Vũ-Hán đã bị thất thủ nhưng pháo đài Trung-Hoa tự do thì bất khả xâm phạm, vì nó đã được dựng lên trong lòng của hàng triệu người Trung-Hoa say mê Tự-Do.
Chúng tôi ra khơi vào lúc bốn giờ chiều ngày 22 tháng mười. Pao ở cùng phòng với tôi. Một người nào đó ở ghế trước đã lịch sự tự ý rút lui nhường chỗ cho chàng. Chúng tôi có giường, có khăn trắng, có phòng tắm, có nước, có đồ ăn, có muỗng nỉa. Một điều xa xỉ không thể tưởng tượng được. Chỗ nào cũng có vẻ tiện nghi tuy rằng tầu chở nhiều người... Tầu đã vượt lưới chắn ngay trước khi nó đóng lại...