← Quay lại trang sách

CHƯƠNG SÁU NAM-NINH THỦ PHỦ CỦA TRUNG-HOA

Chiếc tàu lênh đênh trên mặt nước là một thế giới riêng, giống như là một hành tinh di chuyển trong không gian. Ta cảm thấy ở ngoài thời gian và chỉ hiện diện nơi đây, ngay "lúc này". Gió thổi hây hây trên mặt hồ Đông-Kinh với những dợn sóng nâu xẫm ánh lên mầu bạc. Trên trời chim biển bay lẻ tẻ hay sắp thành từng đàn như những đội hình máy bay. Tỳ tay trên thành tầu, chúng tôi nhìn mặt nước sủi bọt thành một đường dài, mở rộng ra về phía Vũ-Hán. Vũ-Hán thân yêu đã mất. Chúng tôi không nói gì với nhau, chỉ có đôi vai kề nhau và tay Pao nắm lấy tay tôi trên thành tầu. Gần bên nhau, lòng thanh thản trên mặt nước mong mênh, không bến bờ, nâu xẫm một mầu đen tận chân trời. Dần dần, những vòng đồi núi lấp ló ra khỏi đám sương mù rực sáng trên nền trời.

Chúng tôi đã ra khơi vào một ngày thứ bẩy. Chúng tôi lại bắt đầu cuộc sống thực vào ngày thứ hai. Chúng tôi xuống Trường-Sa để thấy một thành phố náo loạn y như một đàn kiến vỡ tổ. Người qua kẻ lại tấp nập, nào thúng, nào mủng, nào trẻ con, nào đàn bà, tất cả đều loạn lên trong sự vội vàng hốt hoảng, đúng là một cuộc chạy trốn điên cuồng! Tin Hán-Khẩu thất thủ đã giáng xuống Trường-Sa như tiếng sét nổ và mọi người đua nhau chạy.

Cả ngày hôm đó và ngày hôm sau, chúng tôi chạy tới lui đủ mọi chỗ để tìm một phương tiện di chuyển. Chuyến xe lửa đặc biệt cho Bộ Tổng-Tham-Mưu đã khởi hành từ ba ngày qua. Pao đã lỡ tầu khi quay về Hán-Khẩu đón tôi. Ấy vậy mà chàng lại phải có mặt tại Bộ Tổng-Tham-Mưu để tiếp tục công việc. Chúng tôi đã lý luận như vậy hy vọng thuyết phục được viên xếp ga dành cho chúng tôi một đặc ân trên chuyến xe lửa sẽ khởi hành ngay chiều nay, nhưng không thành công.

Nửa đêm. Chúng tôi thả dài theo sân ga, len lỏi giữa những đống hành lý và đám dân tản cư, tuyệt vọng và mệt mỏi hơn cả chúng tôi nữa. Tối nay không có chuyến xe lửa nào.

Tuy nhiên chúng tôi cũng còn may mắn. Chúng tôi kiếm được một người bạn của Pao. Anh ta cho chúng tôi địa chỉ và thư giới thiệu đến một người bạn của anh có trách nhiệm sắp xếp các chuyến xe quân vận. (Lại vẫn cái lề lối bạn bè quen thuộc! Ta chỉ cần tìm ra được một người bạn quen biết nhiều và từ đó, ta sẽ lần từ người này qua người khác, cùng khắp nước Tàu.) Chúng tôi đến khua động bạn của anh bạn chúng tôi dậy. Anh ta cho chúng tôi hay quả là có một chuyến xe cam nhông chở quân dụng sẽ khởi hành đi Hàng-Châu sáng mai. Lộ trình có băng qua Nam-Ninh. Nếu chúng tôi có thể co rút vào một lỗ trống nhỏ - bởi vì xe đã chật cứng - anh ta sẵn sàng để chúng tôi quá giang.

Chúng tôi cố ngủ được vài giờ trước khi tiếng còi kêu oang oang trước cửa. Chiếc cam nhông phủ một tấm bạt xám xanh, trải trên mấy khung sắt. Người tài xế mở tấm bạt phía sau và ra dấu cho chúng tôi leo lên. Hấp! Hình như chỗ nào cũng đầy những thùng và hộp cùng đạn dược, quân trang, yên ngựa. Chúng tôi thấy tít cao trên đỉnh núi đồ, ngay sát tấm bạt còn một chỗ trống. Trong khi leo lên, tôi nhận thấy trong cái hốc chật hẹp và tối đen đó đã có ít ra là bốn người. Bốn người to lớn và không còn cách nào có người vào được nữa. Tôi tưởng như hết cách nào mà chui vào cái hốc đó được. Nhưng tình thế bắt buộc nên rồi cũng phải chui vào.

Một trong đám bốn người lủi vào trong một cái kẹt giữa hai thùng đồ. Một người khác, đầu gục trên hai gối xê vào sát trong một xó. Người thứ ba ngả dài người trong một cái kẹt chừng ba chục phân và mũi vừa đụng lên tấm bạt. Tôi và Pao lên sau cùng nên được xếp ngồi phía sau xe, ngay trên hai bánh sau, chỉ vừa đủ che bởi tấm bạt. Chúng tôi được lợi hơn về không khí mát, nhưng ngược lại bị sóc và bụi hơn. Vả lại, khoảng trống dành cho chúng tôi không đủ chỗ cho chúng tôi nằm hay ngồi bệt xuống. Chúng tôi ngồi chồm hổm, hai chân gập lại, lưng còng, cằm gục xuống trước ngực, hai tay bám lấy tấm bạt trên đầu. Chiếc xe vặn mình phóng đi.

Giữa kẽ hở của hai tấm bạt, chúng tôi nhìn thấy một thế giới đầy bụi; toàn bụi là bụi, một thứ bụi dầy đặc, lốm đốm điểm một vài bóng cây mờ mịt hay một vài nóc nhà vụt qua, khuất mờ sau đám bụi mù. Mỗi khi xe chạy chậm lại, bụi lại lùa vào trong và bay cùng khắp chỗ. Sau chừng nửa giờ, mặt, mũi, tai, miệng, đầu tóc chúng tôi toàn bụi là bụi. Sau một giờ, bụi xuyên qua cả quần áo, bám vào da thịt. Bụi len cả vào trong giầy vớ và đóng cục trong các kẽ chân. Chúng tôi chỉ cảm thấy toàn bụi. Bụi chất đống quanh chúng tôi và phủ lên chúng tôi, vùi chúng tôi, chôn cả chiếc xe dưới một nấm mồ khổng lồ. Vài ba chục năm sau, người ta sẽ đào chúng tôi lên như người ta đã khai quật thành Pompei: Sỹ quan Trung-Hoa và vợ, 1938, tìm ra giữa Trường-Sa và Nam-Ninh.

Sau một thời gian dài như vô tận, hay đúng hơn vào lúc năm giờ rưỡi, xe đậu lại, toàn thân rung chuyển, phì phì phun một đám hơi nước sặc mùi dầu nhớt giữa đám bụi đỏ bốc lên mù mịt bốn chung quanh. Người tôi tê dại không còn cảm giác gì cả. Một bóng người ho sù sụ cố quạt bụi và mở tấm bạt sau ra. Pao lay tôi:

- Người tài xế bảo chúng ta xuống. Đã đến rồi!

Chàng tuột xuống và tôi rơi tọt vào trong tay chàng. Chúng tôi gập mình xuống khạc, nhổ. Chúng tôi lảo đảo vài bước, chân cẳng chúng tôi hình như không thuộc chúng tôi nữa, rồi chúng tôi lại khạc ra toàn bùn đỏ lẫn với cát.

Ai đó đặt va-ly của chúng tôi xuống vệ đường và tôi sung sướng để rơi mình xuống như là người không xương, rồi tôi tỉnh lại dần vì Pao đang cám ơn và xin lỗi mọi người về sự quấy rầy của chúng tôi bằng những lời lẽ thật lịch sử và những cái chào gập người. Tôi cũng đứng dậy và nói vài lời vì tôi thực tình cảm ơn - hay ít ra tôi cũng cảm ơn về việc cuộc hành trình đã dứt. Nhưng nếp sống của chúng tôi không cho phép kéo dài các cuộc chào hỏi lâu lắc! Chiếc cam nhong chỉ còn là một cơn lốc, biến mất trên con đường dẫn đến Hàng-Châu và chúng tôi ngồi trên đống hành lý, chiếc khăn tay lau lớp bụi đóng két, dầy hàng phân tay trên mặt chúng tôi, chẳng còn là chiếc khăn tay nữa.

Ta sẽ không tìm thấy Nam-Ninh trên bản đồ Trung-Hoa vì làng này quá nhỏ. Nhưng nếu ta xem kỹ một bản đồ chi tiết của tỉnh Hồ-Nam, ta sẽ thấy nó ngay: một chấm nhỏ với hai chữ Hán bên cạnh.

Lúc Bộ Tổng-Tham-Mưu di chuyển tới, ngôi làng vẫn còn giữ nguyên vẻ cũ kỹ hàng ngàn năm xưa. Nam-Ninh, ngôi làng dưới chân dẫy núi thiêng của Hàng-Châu, nơi hành hương, nơi mọi người vẫn đến chiêm bái. Đây là một trong năm linh động của núi rừng Trung-Quốc.

Dẫy đồi bọc quanh làng như chiếc cung, những khu rừng mọc trên sườn đồi lấn xuống làng đến nỗi cây cối um tùm tạo thành cái mái xanh che khuất cả con đường duy nhất của làng và đám lá cây không ngừng lượn sóng theo nhịp gió núi thổi về. Những dòng suối chảy ngang qua kêu róc rách, nước trong vắt, chùi nhẵn những phiến đá xanh và rải một lớp rong rêu cùng những đám cỏ hoang trên bờ. Ngay đầu làng một con đường đất sỏi đá ngoằn ngoèo dẫn ta qua những lối gồ ghề, vượt suối băng rừng để đến từng ngôi chùa nằm chênh vênh trên bờ vực hay trên sườn đồi.

Với con đường chính dài - năm trăm thước, Nam-Ninh chỉ như là một thân cây mềm, lẻ loi, cũ kỹ và tuyệt vời. Cuộc đổ bộ của chúng tôi đã phá tan vẻ thanh thản cố hữu, đảo lộn nếp sinh hoạt và tập quán cổ xưa từ hàng thế kỷ nay, nhấn những tiếng chuông chùa, những lời kinh trầm bổng vào trong một âm thanh rộn ràng ầm ĩ và chưa đến một tháng, chúng tôi đã kéo theo thảm họa bom đạn đập vỡ cái không khí thanh bình và cái vẻ muôn đời của cảnh sắc.

Chúng tôi được đưa đến trước cửa Văn phòng Du lịch Trung-Hoa, cách làng chừng một cây số rưỡi. Đó là một ngôi nhà thấp, sơn trắng với những mái cong thật lớn, nằm giữa một vườn hoa đủ màu. Một dàn cây leo uốn quanh cửa chính và hai hàng cây chè chạy dọc theo con đường dẫn vào nhà. Một chú nhỏ trong bộ áo trắng tinh chạy ra đỡ đống hành lý của chúng tôi. Chúng tôi được mời trà để rửa lớp bụi còn đóng trong miệng, những cánh hoa nổi lềnh bềnh trên mặt nước trà nâu sáng trong, mùi hoa thơm quyện với mùi trà ngất ngây. Người ta dọn cho chúng tôi mấy thau nước và khăn mặt. Rồi, đứng ngay giữa phòng khách của khách sạn, chúng tôi bắt đầu rửa mặt, lau tai, lau cổ, chú bồi phải tiếp tế lên cho tụi tôi nhiều chậu nước nóng nữa.

Chiếc khăn mặt không còn màu sắc của một chiếc khăn mặt nữa và khi tôi vừa lau xong thì chú Pao, tướng Tăng, hiện ra trước mặt. Ông làm như bất thần hiện ra, nhưng rõ ràng là ông, với nụ cười nhẹ nhàng kín đáo và với cặp mắt như cười đón chúng tôi. Không còn chỗ cho chúng tôi ở đây. Tất cả các phòng đều được giữ từ khi Bộ Tổng-Tham-Mưu rời về đây. Chính ông cũng chỉ được giữ một cái gác xép với một cái cửa sổ cao nhìn lên trời xanh qua dẫy đồi tím xẫm. Một nhành keo lòa xòa ngay trước khung cửa. Ngồi dài dài trên thành giường hẹp của tướng Tăng, chúng tôi bàn tính kế hoạch. Chúng tôi cần phải kiếm một chỗ ở ngay trong làng. Tướng Tăng cho chúng tôi mượn một binh sỹ hậu cận để phụ giúp chúng tôi trong việc tìm chỗ ở.

Con đường ngoằn ngoèo chạy về phía Nam-Ninh, băng qua những thửa ruộng hoang xếp thành từng lớp, cắt ngang những bờ ruộng thấp um tùm cây cỏ. Dù đất bụi vẫn đỏ, không khí vẫn khô ran, nhưng con đường không có mang dấu vết của cuộc hành trình mệt nhọc vừa qua và chúng tôi thoải mái như đi dạo trong cái khí mát của buổi chiều tà. Mặt trời từ từ hạ xuống dưới đường chân trời sáng rực một mầu vàng tía và mầu hồng thẫm. Không khí thật là nhẹ và mát, khí núi lạnh quện lẫn với hương thơm của muôn loài hoa mang một sắc vị thật kỳ thú. Tiếng một con chim hót trên hàng dậu - tiếng hót thánh thót ngân dài. Dưới chân cầu, nước chảy siết và trong suốt như pha lê, mơn man mấy cây cột đá khắc hình mấy con rồng đang trườn mình về phía thượng lưu. Phía bên kia cầu, giữa những hàng keo, con đường dẫn vào xóm nhà đầu tiên. Cây cỏ, đường xá, nhà cửa, tất cả đều nhuộm một mầu vàng óng, trơn mướt và ta có cảm tưởng như muốn vuốt ve mơn trớn.

Chúng tôi vào trong làng. Con đường duy nhất lát đá, từng ô vuông nhẵn thín một mầu xanh, bóng lên và lõm xuống dưới muôn ngàn bàn chân và giầy cỏ của những người hành hương qua bao đời. Những ngôi nhà gỗ nhỏ nằm san sát hai bên đường trông giống như hai hàng phông sân khấu với những lớp trang hoàng và cảnh trí đặc biệt. Phảng phất trong không khí mùi trầm hương và mùi hăng hắc của lá và cành cây khô. Những lọn khói bốc thẳng lên trời như những giải lụa trắng. Ánh nắng cuối cùng của mặt trời xuyên qua lớp lá cây tạo thành những vệt sáng đỏ. Bóng dâm trông như xanh xẫm và mờ sương.

Dân làng thản nhiên ngồi ngoài cửa nghỉ ngơi như tổ tiên họ đã từng ngồi từ hàng trăm năm nay. Da họ đều nâu xậm vì rám nắng, quần áo toàn một mầu xanh đậm, những bàn tay đen đúa và trai san đặt thảnh thơi trên đùi. Họ có vẻ hơi khó chịu nhìn cái đám người mặc đồ lính đi đi lại lại, hỏi han lăng xăng. Cho đến nay, chiến tranh vẫn còn xa lạ, vẫn còn quá xa vời đối với ngôi làng thanh bình này. Cuộc chiến kéo dài hơn một năm qua, cuộc chiến đã tàn phá một phần lớn xứ sở của chúng tôi vẫn chưa héo lánh đến nếp sống của làng Nam-Ninh này. Một vài lệnh tòng quân gọi bớt đám thanh niên trong làng đi lính chỉ khiến cho nó càng thêm yên tĩnh và trầm lặng. Trên các bàn thờ, khói hương vẫn tỏa lên nghi ngút trước các tượng Phật sơn son thép vàng, các nhà sư vẫn lầm rầm đọc kinh theo nhịp mõ, buổi chiều dân làng vẫn ngồi trên ngưỡng cửa và tất cả mọi chuyện vẫn bình thản trôi qua như nó vẫn luôn luôn bình thản như vậy.

Chúng tôi đi vào làng và hỏi thăm để thuê một chỗ ở, nhưng tất cả các nhà, tất cả các phòng, tất cả các giường, tất cả các gốc kẹt đều đã có người chiếm ngự... Không còn chỗ nào cho hai tôi cả.

Ở đầu đường một con suối uốn éo băng ngang dưới ba cây cầu nhỏ và xa hơn tí nữa là bức tường đỏ chót của một ngôi chùa. Những cây thông, cây bách in thành những vết đen xậm trong bóng chiều. Những nóc chùa vàng chói chiếu hắt những vệt sáng lên đám lá tối đen. Đúng lúc ấy, người lính hầu cận chạy tới báo cho biết anh đã tìm được cho chúng tôi một căn phòng trong Đại Khách Sạn Nam-Ninh. Chúng tôi miễn cưỡng rời cái phong cảnh u nhã đó để đi theo anh ta. Khách sạn, khiêm tốn lắm mới có thể gọi là "đại", là một kiểu nhà mới xây bằng gỗ và vữa trên một cái sân rộng, phía ngoài có cái cổng thật vĩ đại với hàng chữ cao đến cả thước. Tất cả tổng cộng có mười tám phòng. Những phòng dưới nằm ngay sát mặt sân, có khi còn thấp hơn là khác. Nền nhà là đất nện và tất cả cửa lớn, cửa sổ đều mở ra sân. Tầng trên cùng y như vậy, chỉ khác là nó có một hành lang bao quanh. Sân cũng là chỗ để xe luôn. Hơn một chục chiếc xe đầy bụi và bùn, dáng tả tơi mệt mỏi, đậu thành hàng dài trên sân. Không có con đường lót đá hoặc gạch nào dẫn qua sân cả, trái lại ngay cả giữa mùa nắng ta cũng phải dọ dẫm, cẩn thận tránh vũng bùn nằm chình ình thường trực giữa sân. Nguyên nhân của vũng bùn này rất dễ hiểu: Đại Khách Sạn Nam-Ninh không có cống rãnh gì cả. Những người ở tầng trên đã hắt đại những chậu nước bẩn lên mui đám xe đậu dưới sân trong khi những người ở tầng dưới thản nhiên hắt vào giữa các bánh xe.

Với tất cả những sự thiếu tiện nghi như vậy, Đại Khách Sạn Nam-Ninh vẫn không thiếu khách. Ít ra nó có một mái nhà, bốn bức vách. Điều đó có nghĩa là một chỗ trú thân, một chỗ để ngủ và đã đầy những sĩ quan là sỹ quan. Căn phòng mà người lính kiếm được thực ra không trống khi chúng tôi đến lấy. Một người độc thân, bạn của tướng Tăng đã ở đó, nhưng sau khi biết rõ hoàn cảnh của chúng tôi, ông sẵn sàng nhường lại và đi ở với hai người bạn độc thân khác.

Đó là một căn phòng nhỏ ở trên lầu. Một thang gác nhỏ và thẳng đứng mà ta nên gọi nó là một cái thang thường mới đúng, bắc lên hành lang chạy quanh các phòng. Căn phòng chỉ có một cửa sổ và không có cửa kính. Lớp vữa mỏng trát trên vách gỗ tách ra thành những vết nứt lớn để ánh nắng và gió lạnh có thể lùa vào trong phòng. Chúng tôi cũng có thể thông thương với dưới nhà nhờ những kẽ hở bằng ngón tay dưới sàn nhà. Đồ đạc độc nhất là một cái giường bằng ván, một cái ghế và một cái bàn mà bốn chân không chân nào bằng chân nào. Chúng tôi khám phá ra rằng lợi điểm của căn phòng mình là chú bé bồi phòng. Chú bé này rất tinh khôn, nghệ thuật duy nhất của hắn là bắt những chậu nước thật xa và xủi thật nhiều bọt. Chúng tôi phải chỉ bảo thêm cho nó. Chúng tôi nhồi vào óc nó là chúng tôi ghét ruồi, muỗi và thịt mỡ. Từ đó mỗi khi mang thức ăn lên cho chúng tôi, nó luôn luôn thổi phù phù xua đuổi cả những con sâu bọ vô hình và lo sao để không bao giờ chúng tôi thấy một miếng thịt mỡ. Tôi không thể đoán chắc là nhà bếp có dọn một miếng thịt mỡ ngon lành nào trong món ăn không, nhưng mỗi khi thức ăn mang lên đến nơi, tất cả các miếng thịt mỡ đều biến mất cách giản dị và tự nhiên nhất.

Chúng tôi cũng bảo cho nó biết là chúng tôi cần nước, rất nhiều nước nóng để lau rửa và để tắm, nhất là mỗi khi đi công chuyện trở về, mình đầy cát bụi và mệt mỏi. Sau khi đã biết như vậy, chúng tôi không còn cách nào ra khỏi phòng, dù chỉ năm ba phút, lúc trở về mà khỏi gặp nó, mặt mày rạng rỡ với một thau nước nóng. Dù không cần lau rửa nhiều lần như vậy, chúng tôi cũng không lộ ra để làm rối trí và phụ cái lòng sốt sắng của nó. Nó chỉ mong làm vừa lòng chúng tôi. Khi nó khám phá ra là Pao cần trứng như người nghiện cần thuốc, nó sục sạo khắp làng để kiếm cho ra, mỗi ngày mang về hàng tá đến nỗi riết rồi phòng chúng tôi đầy trứng và chúng tôi phải phát bớt cho trẻ con.

Chúng tôi dạy cho nó về vệ sinh thường thức. Chúng tôi cũng dạy cho nó cách quét nhà sao cho đừng trút bụi và rác lên đầu những người ở phòng dưới, công việc không phải dễ! Lâu lâu nó lại quét dọn một lần và thế là bao nhiêu màng nhện trong phòng đều biến hết. Nó cũng giặt rũ quần áo cho chúng tôi, kể cũng tạm được, tuy nó thường hay pha đồ trắng với các mầu khác khiến cho sơ mi của Pao đều vằn vện các vệt xanh thôi ở áo vải của tôi ra.

Càng ngày bộ mặt của Nam-Ninh càng thay đổi. Nhiều toán lính làm việc ngày đêm để mắc các đường giây điện thoại và điện báo chạy đi khắp hướng, trong y như cái mạng nhện. Nam-Ninh đã thành đầu não của nước Trung-Hoa. Những "ông lớn" của quân đội đều có mặt ở đây cả, các ông bộ trưởng chiến tranh, các ông tướng và các vị tư lệnh, Thống tướng Tưởng cùng với một đám những thuộc cấp - như chúng tôi. Nhưng mỗi chúng tôi đều là một cái vẩy trong guồng máy công quyền trung ương vẫn còn sống và hoạt động, trong khi quân Nhật cứ đinh ninh rằng là đã phá tan khi chiếm Nam-Kinh rồi Hán-Khẩu. Các tướng trong Bộ Tổng Tư Lệnh đều đóng đại bản doanh trong các ngôi chùa trên sườn đồi. Những kẻ khác ở rải rác khắp nơi, xâm chiếm hết cả làng, lan ra ngoài bốn chung quanh trăm ngàn cây số... Người ta xây cất nhà mới. Làm vội vàng trong vài ba ngày, nhưng đều đã được đặt thuê ngay đến phần cuối cùng ngay từ lúc mới cất nền nhà. Người ta vẫn tiếp tục đổ ào ào vào trong làng vốn đã quá đông, chất có cả sáu bảy người vào trong một phòng bé tí xíu chỉ dành cho hai người là nhiều. Tôi và Pao cảm thấy gần như có tội khi sống trong một khung cảnh sang cả như vậy.

Ngay cả các vùng lân cận, các sỹ quan tham mưu cùng các nhân viên dân chính khác cũng tranh nhau từng phòng trong những ngôi nhà tranh vách đất. Vợ con họ bắt đầu học sống cuộc đời thôn dã. Ta thường gặp những thiếu phụ mảnh dẻ, những tiểu thư đài các kiêu kỳ trên những con đường hẹp giữa mương ruộng. Họ đều mặc một thứ hàng vải xanh thô, nhưng luôn luôn giữ vẻ sang cả với những mái tóc trải bóng mượt, những cánh hoa cài sau vành tai, má và môi đều thắm đỏ, mắt sáng rực một sức sống tươi vui hạnh phúc.

Thế giới bên ngoài và chiến tranh ào vào Nam-Ninh. Những toán lính ùa đến đóng rải rác chung quanh làng trong các lều cỏ hay các lều vải. Họ đào hầm hố và thiết lập một hệ thống phòng không. Họ vừa đi vừa ca hát...

Nhiều người đến rồi lại nhiều người khác nữa đến, con buôn, đầu bếp, thợ thủ công, công nhân, dân tản cư... Họ đến đây bằng đủ cách, xe hơi, xe kéo, xe bò hay đi bộ. Họ dựng nhà, dựng quán, dựng tiệm trang hoàng bằng những bảng hiệu xôm trò mang các tên của các cửa hàng nổi tiếng ở Thượng-Hải hay Hán-Khẩu. Nhiều nhất và phổ thông nhất là các hàng ăn và các tiệm may. Chiến tranh hay không chiến tranh, đàn ông vẫn cần ăn và đàn bà vẫn cần may mặc.

Tiếng máy may Singer chạy rào rào suốt đêm dưới ánh đèn dầu. Trên các cái kẹp, đám thợ thủ công đang khéo léo tết các khuy bằng sợi, hàng dẫy dài quần áo đủ mầu cắt sẵn treo kín trên các cây sào bắc ngang nhà. Chúng tôi thích những hàng có in hoa mầu, nhưng mầu xanh đậm được chuộng nhất với cái hoàn cảnh mới mẻ này.

Tất cả mọi hàng ăn đều phát đạt. Có những người bán mì rong, thường lấy hai miếng tre gõ vào nhau côm cốp để rao hàng, và lủng lẳng trên hai đầu đòn gánh chỉ có một cái lò và một cái tủ kính nhỏ. Một ông chủ hàng ăn nổi tiếng ở Nam-Kinh đã trốn đi với cái gia sản độc nhất: một bản thực đơn mà ông giữ trong đầu, lại mở cửa tiệm trong một căn nhà nhỏ và lại đầy khách. Suốt từ sáng cho đến nửa đêm, người ta chen lấn nhau trong nhà hàng này. Công việc buôn bán thật là tốt đẹp, nhất là vào buổi tối khi hàng đám người đổ dồn về con đường độc nhất của Nam-Ninh. Các tiệm ăn lúc nào cũng có người chen lấn. Người này đến để nói cười, ăn uống, người khác kéo đến chỉ vì tiếng ồn ào và mùi vị - lửa cháy hồng và nổ lắp bắp trong lò dưới các vỉ sắt nướng. Mùi cơm chín thơm nức bốc ra từ các nồi lớn dưới cái vung gỗ. Các món sào kêu xèo xèo thơm lừng mùi hành, mùi tỏi và mùi gia vị. Ta có thể thấy cái quang cảnh đó, cái cảnh tấp nập ngoài đường phố, cái vẻ giản dị, cái không khí vui vẻ cởi mở đó hầu hết trên các quận lỵ Trung-Hoa. Có những người đã từng sống lâu năm tại ngoại quốc, đã từng thưởng thức những món ăn ngon tại các tiệm tiếng tăm nhất Âu-Châu, giờ đây cũng vui thú hòa mình vào nếp sống ban đêm của Nam-Ninh.

Sau hết, khi những chiếc lò cuối cùng đã tắt lửa và các miếng ván đã hạ xuống đóng cửa tiệm lại, công việc vẫn tiếp tục không ngừng. Xe hơi và xe cam nhông chạy xình xịch trên các ngả đường và các ngọn đèn pha chọc thủng màn đêm, quét thành những vệt sáng dài. Tiếng chân bước thình thịch, tiếng sắt chạm nhau kêu rổn rảng: các đoàn quân di chuyển đêm. Việc đắp đường liên tục hai mươi bốn giờ một ngày. Lâu lâu một tiếng nổ lại làm chúng tôi giật bắn mình, tiếng nổ bùm rung chuyển cả mặt đất và nhắc cho hầu hết chúng tôi đến cảnh bị dội bom.

Đường xá chạy ra tứ phía, các hệ thống liên lạc, báo chí (cho đến ngày chúng tôi đến, không có) càng ngày càng nhiều. Những báo cáo từ khắp nơi trên lãnh thổ đều đổ về Bộ Tổng-Tham-Mưu ở Nam-Ninh, các tin tức chiến trường của khắp các mặt trận, các điện tín báo tin thắng trận và thất bại, các tin tức từ ngoại quốc do máy thu thanh... Bởi vì nơi đây, Nam-Ninh là trung tâm não bộ của nước Trung-Hoa. Cái chí cương quyết cất dấu nơi đây đã huy động được cả nước, buộc toàn dân phải bừng tỉnh cơn mê, đã in vào tâm trí mọi người cái vinh quang của quá khứ; cái khí phách hào hùng và tương lai rực rỡ.

Chúng tôi đã mất những thành phố kiêu hùng và vĩ đại. Khói đen đã bốc lên từ những căn nhà bị thiêu rụi. Đất đã uống biết bao nhiêu máu đỏ đồng bào chúng tôi. Nhưng lịch sử không chấm dứt với những đô thị bị chiếm, những thành phố bị đốt. Nước Trung-Hoa vẫn chưa mất tuy rằng đất đai đã mất. Đâu đâu mà còn một trái tim bất khuất nước Trung-Hoa sẽ ở đó, không bao giờ khuất phục. Chân lý này mang lại cho chúng tôi một sức mạnh vô hình, vững chắc hơn cả thép súng hay đất đã xây công sự pháo đài. Cái sức mạnh bí mật ấy hiện diện đâu đó: nó không buộc liền với một thành phố, một hải cảng, một dẫy núi, một con sông nào. Bao lâu mà còn một người Trung-Hoa biết nói như Tưởng-Giới-Thạch: "Chúng tôi sẽ không khuất phục dưới sức mạnh vũ lực, bởi vì chúng tôi không chấp nhận quyền lực của nó, và dù sự hy sinh và đau khổ có lớn đến chừng nào, không gì có thể chinh phục được linh hồn", nước Trung-Hoa sẽ còn tự do.

Nam-Ninh, ngôi làng quạnh hiu dưới rặng Tô-Vân-Phong mờ nhạt, dưới khói hương của đám khách hành hương từ hàng ngàn năm qua. Nam-Ninh, chỉ trong vòng ba tuần lễ ngắn ngủi vào mùa thu năm 1938, đã vang lên tiếng quân hành, tiếng búa nện đe, tiếng nổ phá đường và đã trở thành trọng yếu hơn cả Thượng-Hải, hơn cả Nam-Kinh và Hán-Khẩu, nó chứa trái tim sống động của nước Trung-Hoa chinh chiến.