← Quay lại trang sách

CHƯƠNG MƯỜI HAI -MỘT MÙA HẠ Ở TRÙNG-KHÁNH

Rồi một năm trôi qua.

Vào đầu năm 1940, Pao lại nhận được một nhiệm vụ ở Bộ Tham-Mưu tại Trùng-Khánh. Tôi đã từng mong sẽ lên với chàng ở miền Tây-Bắc, vùng đất khô cằn của những niềm hy vọng mới, quê hương sa mạc cổ xưa của dòng giống chúng tôi. Khi Pao tả địa thế trong thư, tôi tưởng tượng ra, tôi như sờ thấy nó và tôi mơ được khám phá miền đất hứa ấy với chàng. Chàng tả cảnh cưỡi ngựa trên những con đường uốn khúc qua các ngọn đồi đã bị xói mòn. Từng đám bụi bốc lên dưới chân ngựa, quay tròn như sinh động, như có một nếp sống riêng, quái đản, tung lên mặt chàng như một cơn lốc rồi tan biến mất. Chàng tả cảnh các ngôi làng lẽ loi chơi vơi giữa sa mạc, gần như bị chôn vùi dưới các núi cát, vòng thành bao quanh bị gió xoi, thời gian đục.

Chàng viết cho tôi:

Tú-Anh, hãy lên đây với anh. Em sẽ thích điên lên được với xứ này. Ở đây mọi người đều mặc áo lông, ngủ trên các giường đá, cưỡi ngựa Mông Cổ. Ta thấy những chân trời không thể tưởng tượng được. Nơi đây, giữa tâm điểm của Châu-Á, cát và gió sẽ rèn luyện tâm hồn chúng ta. Đất là đất của tuổi trẻ, nơi chúng ta có thể làm việc và nhìn thấy tác phẩm của ta phát triển.

Quả đúng như vậy, toàn vùng Tây-Bắc... Vùng của phe Quốc-Dân-Đảng, cũng như khu vực Cộng-Sản ở quanh Vân-Nam - bừng dậy một nếp sống mới. Nơi đây, cũng như ở Quảng-Tây, dân chủ và tiến bộ đã được phổ biến và phát triển. Pao nói với tôi về một cơ sở y tế xã hội mới được thành lập tại Lan-Châu-Phủ và hứa sẽ tìm việc làm cho tôi ở đó. Tôi sẽ đến ở đó khi kỳ hạn của Pao ở đó chấm dứt.

Trong một thời gian sau khi trở lại Thành-Đô, sự nuông chìu của gia đình, những cuộc vui, sự rỗi rãi đã cho tôi đúng cái nếp sống mà tôi cần. Nhưng rất chóng, cũng như lần trước, tôi đã thấy cuộc sống nhàn hạ đó vô vị. Khi thím Ba và hầu thế mọi người dọn về Phi-Tiên vì sợ Thành-Đô bị dội bom, tôi không đi theo họ. Tôi xin một việc làm trong một Y-Viện bảo sanh của Bộ Y-Tế. Trong thời buổi chém giết này, ta sẽ thấy như thể đền bù lại một phần nào trong việc trợ giúp các sanh mạng chào đời.

Rất nhiều lần chúng tôi phải đỡ cho các sản phụ trong các ngôi nhà không hơn gì cái mái hiện ở Sơn-Đầu, nơi mà tôi đã đỡ đẻ lần đầu tiên ở Trung-Quốc. Nhưng chúng tôi có nhiều dụng cụ hơn. Chúng tôi mang theo đủ thứ để có thể vạch ra một khu vực sát trùng sạch sẽ giữa khung cảnh dơ bẩn và hôi hám. Biết bao nhiêu đêm chúng tôi đã phải thức canh chừng trong các căn lều tồi tàn tối om, dưới ánh đèn dầu lập lòe, với đám muỗi bu lại như chấu, với rận rệp hay còn tệ hại hơn thế nữa. Cũng may trong vùng Tứ-Xuyên không có dịch hạch, nhưng không lần nào tôi leo lên một chiếc giường đầy chấy rận mà không sợ lây chấy rận hay bịnh thương hàn.

Công việc sản khoa ư? Chín mươi phần trăm là đợi sinh bình thường, mười phần trăm thảm họa. Tôi thường đợi hết giờ này qua giờ kia, ngã dài trên một chiếc chõng tre, đầu gối trên tay; nửa ngủ nửa thức nghe tiếng rên rỉ liên hồi của sản phụ, tiếng chuột rúc, tiếng ngáy pho pho của các người nhà ngủ ở phía bên kia bức vách. Cuối cùng giờ hành động đã đến. Người phụ tá của tôi hơ lửa các cái chậu. Quay tròn các dụng cụ trên ngọn lửa xanh; cô ta đứng dậy, trông y như một nữ tu trong một cuộc tế lễ nào đó. Người ta đốt thêm đèn cầy và các mụ đàn bà trong nhà được triệu ra để cầm đèn soi sáng cho chúng tôi. Dưới mắt họ, trông tôi có vẻ kỳ dị và đáng khiếp với cái mũ trắng, cái áo choàng trắng, miếng vải ga bịt nửa dưới khuôn mặt, hai bàn tay kỳ dị trong đôi bao tay cao su mầu nâu.

Nói cho cùng, trong các cuộc sinh nở thường, tôi có làm gì hơn là giúp cho sản phụ nhẹ bớt cơn đau, giữ gìn vệ sinh, canh chừng các vết rách nặng và làm độc. Ngoài ra, tôi chỉ việc khuyến khích sản phụ hãy vận dụng hết cả sức lực.

Đàn bà Trung-Hoa hầu như không bao giờ khóc lóc trong những cơn đau. Khóc là không đàng hoàng. Ta chỉ nghe thấy tiếng rên rỉ khò khè trong niềm cố gắng vô biên, tiếng thở mệt nhọc. Rồi bất thần chấm dứt. Tôi hớn hở cầm hai chân đứa bé xách ngược lên, tọng một ngón tay thông sạch cổ họng; đập mạnh vào lưng cho đến khi khuôn mặt bé xíu cau lại, đến khi hai bàn tay nhỏ dẫy dụa lung tung và cho đến khi cuống họng rãn ra để la lên tiếng khóc kháng cự. Và mọi người đều cười, kể cả bà mẹ.

- Con gái hay con trai nào? À, thôi con gái rồi.

Đôi khi điều bất ngờ có thể xảy ra. Không còn cái cảnh gì đáng sợ hơn, cũng không có gì sung sướng hơn khi thấy cơn đau lắng xuống không có tai họa và biết rằng, không còn nghi ngờ gì nữa, một sinh mạng nhẽ ra phải chết vừa được cứu thoát. Ngăn chận ngay cơn băng tiền sản dữ dội, cứu sống một đứa bé tắc thở ngay khi vừa đẻ; đó là những công việc mà một cô đỡ phải biết làm vì không có thì giờ để gọi bác sỹ.

Tôi thấy hình như không thể nào chịu được cảnh xa Pao trong một năm mà không hăng say thích thú, không có điều an ủi sâu xa của công việc này.

Năm trường dài đăng đẵng trôi qua. Pao và tôi đã xa nhau quá lâu, đến cái độ mà chúng tôi tưởng như cuộc sống chỉ còn là một hy vọng xa vời, gần như không thực hiện được. Nhưng đột nhiên, lệnh đổi về Trùng-Khánh khiến cho hy vọng của chúng tôi gần thành sự thật. Tôi sẽ đến ở với chàng ngay khi chàng tìm được một chỗ ở. Tôi xin thôi việc và ghi tên giữ một chỗ phi cơ. Ít ra là phải đợi nửa tháng. Nhưng dù sao thì cũng phải lo kiếm chỗ ở cho chúng tôi ở Trùng-Khánh đã.

Thành phố bị dội bom hàng ngày, hay gần như hàng ngày. Trong những ngày đó, thành phố luôn luôn bị phá hủy rồi lại tái thiết, lại bị phá tan rồi lại xây dựng lại liên tiếp; cả hai phe đều kiên trì như nhau. Người Nhật liên tục trở lại tấn công. Hình như họ bị ám ảnh về Trùng-Khánh. Ta có thể coi các sự kiện cuộc sống vẫn tiếp tục tại đây là một sĩ nhục cho cái sức mạnh của họ. Còn đối với dân chúng Trùng-Khánh, họ đã chứng tỏ sức bền bỉ chặt chẽ. Mặc dù dân số đã giảm đi còn một phần tư, vẫn còn năm trăm ngàn người sống trong thành phố. Những cuộc oanh tạc đã trở thành các yếu tố thông thường của cuộc sống. Rất can trường, họ đã thích ứng với các cơn khủng bố, với hoàn cảnh khó khăn và nhất định không chịu lìa thành. Nếu quân Nhật định bẻ gẫy ý chí của họ bằng cách khủng bố, người Nhật đã thất bại hoàn toàn. Cứ sau mọi cuộc dội bom, mọi người lại thêm phần cương quyết kháng cự đến cùng.

Từ trên máy bay nhìn xuống Trùng-Khánh, tôi kinh ngạc kêu lên: "Thành phố không thay đổi gì cả!" Thành phố hiện ra trước mắt tôi y như lần đầu tiên tôi thấy nó, những bức tường gạch, những tòa bin-đinh nhiều từng nổi lên sừng sững trên hai con sông chạy dài theo các bãi cát rộng. Chỉ khi máy bay lượn vòng tròn xuống thấp, bay là là trên nóc thành phố tôi mới thấy sự tàn phá của bom nổ và hỏa hoạn. Những bức tường không mái, những lỗ cửa không có cửa, rửng rưng như khung cảnh của một sân khấu.

Chúng tôi hạ cánh xuống phi trường. Khi máy bay đáp lên phi đạo với vài cái rung nhẹ, chạy băng băng rồi ngừng lại, tôi tỳ tay lên khung cửa và dán mắt nhìn đám người tụ họp ở phi trường để đón các hành khách. Không thấy Pao. Không thấy cái dáng mảnh khảnh, chững chạc trong lớp áo ka ki đâu cả. Tôi đã đánh điện cho chàng mà chàng không tới. Tôi thất vọng vô cùng. Tôi có cảm tưởng như một bàn tay nặng nề bóp nghẹt tim tôi. Chúng tôi xuống tàu, băng qua một giải cát, đi qua khu quan thuế để khám xét hành lý. Mới có chín giờ sáng nhưng mặt trời đã phóng xuống mặt cát những tia lửa nóng như giữa trưa. Không khí vì hơi nóng và ánh sáng chói chang như có ánh bạc lấp loáng. Cát nóng như muốn thiêu đốt chân tôi qua làn da mỏng của đôi giày. Mắt bị chói lòa và đang buồn bực, tôi chẳng muốn ngước mắt nhìn những kè đá của Trùng-Khánh nữa.

Trong khi khám xét hành lý của chúng tôi, lâu lâu nhân viên quan thuế lại ngước mắt nhìn trời và lẩm bẩm: Thế nào cũng có báo động!

Rồi họ lo sợ dò nhìn lên các đỉnh đồi. Bởi vì không còn hụ còi Chình Páo để báo động tiên khởi nữa. Nó đã làm cho người ta quá xúc động khi nó bất ngờ hú lên. Người ta đã dùng nhiều cây cột trên các đỉnh đồi và mỗi khi nghi ngờ có một cuộc oanh tạc, người ta thả lên trời những trái bong bóng đỏ thật lớn để báo động. Trong lúc chờ đợi, với hy vọng Pao sẽ tới, bất thần nhiều giọng người nhao nhao gần như là trút được gánh nặng: "Bong bóng đỏ".

Chờ nữa cũng chẳng ích gì. Có thể Pao chẳng nhận được điện tín của tôi. Tôi thuê một chiếc kiệu và đi về chỗ ở.

Chúng tôi vừa lên đến kè đá thì còi kung-si rúc lên. Hai người phu kiệu của tôi gắng rảo bước, gần như là phóng nước kiệu giữa đám người nhốn nháo. Nhưng đường xa quá. Chúng tôi sẽ không đến nơi kịp. Ngôi nhà mà Pao đã kiếm được ở phía bên kia bức tường của thành cổ, ở trên bán đảo phía Gia-Lâm.

- Chúng ta phải kiếm một hầm trú ẩn công cộng, hai người phu kiệu nói với tôi. Sau lệnh Chình-Chi(*), cảnh sát không cho ai đi trên đường cả.

(*) Đình chỉ.

Ở Trùng-Khánh, tất cả các hầm núp công cộng đều ở dưới chân đồi. Đó là một hệ thống các hầm dài, rộng từ hai đến ba thước, tối tăm, ẩm thấp và ngộp thở. Các bức tường hầm đều rỉ nước. Đáy hầm toàn là bùn. Không có ghế. Đám người chen lẫn nhau trong đó phải đứng hàng giờ. Nhiều người mang theo những ghế đẩu hay ghế xếp. Khoảng nửa giờ sau, mùi hôi hám trở thành nồng nặc. Việc vệ sinh được giải quyết với hai cái sô trống để ở ngoài cửa cho đàn ông. Đám trẻ con thì tha hồ bậy bạ như súc vật.

Tôi đã sống qua ngày đầu tiên trong một hầm trú ẩn như vậy, từ mười giờ sáng đến bốn giờ trưa. Sáu tiếng đồng hồ...

Chúng tôi nghe thấy tiếng máy bay và những tiếng nổ từ xa vọng lại. Giữa hai đợt tấn công, chúng tôi liều ra ngoài để thở hay để thỏa mãn các nhu cầu khác. Mặt trời nóng dữ dội. Chỉ có một cái cây con ở gần đó và dưới cái bóng mát nhỏ xíu đó, một đám cu li nằm phưỡn bụng và phì phèo hút thuốc, quá quen với cái cảnh cơm bữa này. Tôi nghe thấy một người trong bọn nói:

- Trong khi chờ đợi mình cần sứa một chút chứ.

Tôi liều phơi nắng trên sườn đồi trống vậy. Nếu tôi cứ ở trong hầm, thế nào tôi cũng bị lên cơn động kinh. Sau cùng, còi dứt báo động vang lên và mọi người tuôn ra khỏi hầm. Mấy người phu khiêng kiệu đã được nghỉ khỏe - mà đúng là nghỉ khỏe - sau hàng giờ bất động, kêu lên vui vẻ và lượm cáng lên chạy; chở tôi đi bay bay. Mệt mỏi, tôi nằm ngả dài trên ghế ngưỡng phục tinh thần của họ.

Căn nhà sẽ là tổ ấm của chúng tôi nằm trong một quận nửa quê nửa tỉnh, các đường phố vỡ nát và uốn quanh các ngọn đồi, dẫn đến các cái miệng đen ngòm của đường hầm. Hai người phu kiệu bỏ đường lát nhựa, xuống nhiều bực thang rồi lại leo lên một khoảng cao như một cái tháp. Ngay trên đỉnh tháp là nhà của tôi. Đó là một căn nhà hai tầng cũ kỹ mà người ta đã sơn đen màu tro như bao nhà khác với ý tưởng làm như vậy cho khó thấy. Những ngôi nhà này nằm ngay trên đỉnh đồi, không một cây che, chung quanh toàn là ruộng lúa, không còn gì dễ nhắm hơn. Mấy phu kiệu đặt tôi trước một cái cổng. Tôi đẩy cửa và đi vào một sân hẹp, rải rác ít ngói vỡ và rác rưới. Một Á Xẩm hiện ra ở lan can tầng trên và bắt một mẻ đầy vôi vữa và rác rưởi xuống sân. Tôi vội phóng mình ra phía sau, nấp dưới cống để tránh. Hắn cúi mình xuống hỏi tôi:

- Bà kiếm ai?

- Tên tôi là Tăng, tôi nói. Có lẽ nhà tôi ở đây.

Một người đàn bà gầy, mặc đồ đen, với một đứa bé đang ngậm vú mẹ bước ra:

- Tăng tại tại(*), mời bà lên. Bà ở trên này với chúng tôi. Chúng tôi là Viên. Mọi người đều đợi bà nhưng không biết bà đến ngày nào. Đừng để ý đến những rác rưới này. Hôm nay chúng tôi bị oanh tạc và chưa kịp dọn dẹp. Quả bom nhỏ xíu nên căn nhà còn nguyên. Nhưng cái bếp bị nát tan như cái buồng sau của bà.

(*) Tại tại là bà.

Tôi lên trên hành lang bằng một cái cầu thang ọp ẹp vì mối ăn. Viên tại tại đón tôi với nụ cười thân thiện và dẫn tôi đến phòng của tôi. Phía dưới căn nhà đã khóa trái và các cửa nẻo đều đóng kín mít. Người chủ nhà đã dọn về quê cùng với gia đình nhưng vẫn giữ nhà lại như vậy. Điều đó bất hợp pháp vì quá thiếu nhà, chính phủ đã ra lệnh nhà trống đều phải cho thuê. Trên lầu, hai dẫy phòng đối diện nhau qua một khoảng trống, mỗi dẫy có ba phòng. Hai phòng về phía trái và đằng sau là của chúng tôi. Phòng trước gồm có bốn đứa con của bà Viên. Bên đối diện là phòng của Viên tại tại cùng chồng và bốn đứa con nữa, thêm một gia đình năm người khác. Các người làm ngủ ở ngoài hành lang và dưới sân.

Vôi vữa vẫn tiếp tục đổ từ trên trần xuống ào ào. Cửa nẻo đều long khỏi bản lề và đổ nghiêng. Cửa sổ chỉ là những lỗ hổng trên tường. Khung cửa và cánh cửa đã biến mất từ lâu. Các phòng đều rất nhỏ và rất nóng. Muốn đi vào phòng của chúng tôi phải đi qua căn phòng ngoài của bốn đứa con gia đình họ Viên. Cái buồng sau của chúng tôi đã mất hai bức tường và một phần trần nhà. Mái ngói đã bị giạt mất và ta có thể nhìn thẳng lên trời. Căn phòng còn nguyên vẹn có một cái bàn, một cái ghế đẩu, một cái ghế gấp và một cái giường gỗ hẹp rẻ tiền. Tấm vải trải giường nhăn nhúm và không lấy gì làm sạch lắm; cái màn còn vắt ngang trên giường. Trên mặt bàn bầy bừa bãi đủ thứ giấy tờ; giày dép, một cái chậu, một đôi vớ; một ngọn đèn dầu đầy xác thiêu thân, một cái ly, một bàn chải đánh răng và hai cái áo sơ mi dơ. Căn phòng nói lên cái cảnh sống độc thân của Pao.

Lòng đầy xúc cảm và thương mến, tôi ra tay dọn dẹp. Tất cả mọi chỗ đều phủ lên một lớp bụi, vôi vữa hay ngói vụn. Tôi quỳ dưới đất, lấy tay nhặt hết các mảnh vụn đó để vào trong vạt áo xường sám rồi mang ra ngoài hành lang trút cả xuống dưới sân. Tôi quét sạch bụi, xách nước lên và giặt những quần áo dơ, xếp gọn cái mùng, thay tấm trải giường trắng, sạch và thẳng nếp. Màn đêm buông xuống, tôi thắp cái đèn dầu mà tôi đã chùi bóng với giấy báo cũ. Tất cả các sợi giây điện chung quanh nhà đều đứt ngổn ngang trên đường. Tôi lau rửa mình mẩy trong cái chậu, thay quần áo rồi cầm cái đèn ra ngoài hành lang hóng mát. Đêm cũng nóng và oi như ban ngày. Ngọn lửa đèn đứng thẳng tắp trong bầu không khí bất động.

Ngoài hành lang, Viên tại tại đang vạch áo cho hai đứa bé nhất bú và đang đổ nước cơm cho đứa thứ ba. Bà mời tôi dùng bữa với gia đình, chỉ gồm có cơm và một món rau.

- Chồng tôi về muộn. Ông ấy làm việc đến tám giờ. Đại Úy Tăng cũng sẽ về nhà khoảng đó. Tôi chắc rằng ông chưa được biết là bà đã đến.

Khu Giang-Bắc, ở phía bên kia bờ sông, sáng trưng ánh đèn. Hôm nay, phía Bờ Bắc không bị dội bom. Dưới làn hơi nóng, các vì sao có vẻ như nhỏ bé, hiếm hoi và mờ nhạt. Chẳng bao lâu, cổng kẹt mở và Pao hiện ra.

Tôi chỉ nhận thấy một cái bóng tối mờ không rõ ràng nhưng tôi nhận ra tiếng chân của chàng. Tôi ngồi im không gọi. Chàng bước lên cầu thang và nhận ra tôi. Chàng dừng bước trong khoảng tối trước đầu cầu thang rồi nói với tôi:

- Coi! Em đấy à! Anh vẫn đợi em, không, anh không nhận được điện tín của em. Rất tiếc đã không đón em ở phi trường.

Chàng bước vào vùng ánh sáng của ngọn đèn. Pao đó! Chàng gầy hơn là tôi nghĩ, cái áo đẫm mồi hôi dán sát vào thân người gầy còm của chàng, giọng nói thản nhiên nhưng cặp mắt sáng rực vui mừng vô hạn.

Sau khi dừng lại đôi ba phút cho phải phép, chúng tôi cáo từ. Tôi cầm ngọn đèn lên, chúng tôi bước vào phòng và đóng cửa lại. Rồi chúng tôi ôm chầm lấy nhau và tim chúng tôi muốn vỡ ra vì sung sướng và hạnh phúc.

- Tú Anh! Pao thì thầm. Thời gian qua thật quá dài, suốt một năm không có em. Anh như người sống có một nửa. Anh cần em biết bao.

Và chúng tôi thấy như thể mình vừa qua một thời gian nín thở quá lâu vì chúng tôi cần nhau như cần khí trời.

Tôi muốn làm cho chàng cái gì. Tôi chạy đi kiếm nước nóng, một chiếc khăn sạch để lau sạch bụi và cơn nóng ban ngày. Tôi mang nước trà đến cho chàng.

- Em đã lau dọn nhà rồi cơ đấy! Pao nói giọng thán phục!

Tôi thấy sung sướng rằng chàng đã nhận ra điều đó. Ngồi cạnh nhau trên chiếc giường hẹp, chúng tôi cùng nhấm nháp nước trà. Chính vào lúc đó, trần nhà bắt đầu chuyển động.

Miếng trần nhà ở phòng bên cạnh vì chứa quá nhiều ngói vụn đã bất thần đổ ầm xuống sàn. Lập tức bức vách ngăn hai phòng cũng lảo đảo như lên đồng rồi đổ đè lên cái bàn. Rồi bức trần nhà trong phòng chúng tôi nứt ra một đường khoảng nửa thước và xệ xuống. Thế là gạch, ngói, đá, bụi và vôi vữa ào xuống theo vết nứt.

Ngay từ lúc nó chuyển mình kêu răng rắc, Pao và tôi đã đứng dậy lui dần ra phía cửa, mắt không ngừng canh chừng cái trần nhà đang lay động; chỉ lát nữa là chúng tôi sẽ có trăng sao làm trần. Nhưng ba góc kia giữ nguyên, tiếng chuyển động chấm dứt và gạch ngói chất thành một đống.

Tất cả láng giềng của chúng tôi - Á-Xẩm, đám con nít, Viên tại tại và chồng cùng cả gia đình sống ở dẫy bên kia - đều chạy sang xem xét và ồ lên kinh ngạc. Với sự giúp đỡ của Viên, Sinh-Sâm, một người có nhiều óc sáng kiến mà tôi rất ngưỡng phục và không ngừng kính trọng, chúng tôi chế ra một hệ thống để chống đỡ trần nhà. Trước hết, chúng tôi kiếm một cánh cửa rời (vì ngôi nhà chẳng lấy gì làm tốt nên kiếm loại vật dụng này không khó khăn gì) với bốn cái sào tre, chúng tôi nâng cái cửa như một tấm phản ngang đỡ góc trần bị xệ lên. Khi mọi việc xong xuôi, mọi người đã dụi mắt, lấy bụi và vôi vữa rơi vào mắt các người cứu cấp cũng như các khán giả ra và sau khi chúng tôi cám ơn để mọi người ra về, lúc đó đã hơn mười giờ đêm. Chúng tôi cúi mình chào những người khách cuối cùng rời khỏi phòng. Sân nhà, mặt bàn và cái giường phủ đầy một lớp bụi và vôi vữa, nhưng chúng tôi thấy đã quá mệt để quét dọn. Chúng tôi lấy tấm khăn trải giường phía dưới và trải xuống sàn nhà để nằm ngủ. Nhưng đêm đó chúng tôi đâu có ngủ được. Nhiệt độ lên tới hơn bốn mươi độ. Chúng tôi thiu ngủ mà không thấy đỡ mệt chi cả, người đẫm mồ hôi, cho đến khi gần sáng mới có một chút khí mát, một cơn gió nhẹ thổi qua những lỗ hổng ở bức tường phía sau. Sau đó, mặt trời lên cao và hơi nóng lại ập xuống.

Mùa Hạ ở Trùng-Khánh. Sáng sớm mặt trời ló lên trên đường chân trời, nóng như thiêu đốt và khí nóng như tụ lại làm cho không khí thành nặng nề, khó thở. Làn hơi mát lúc bình minh tan biến mất. Bụi bốc lên mù trời trên các đường phố đã nghẹt xe cộ. Các nhà ngân hàng đều mở cửa, các tiệm ăn đều chật ních người chen lấn nuốt vội vàng "bữa cơm tiền báo động". Người ta vội vã thu xếp công việc trước còi báo động. Lâu lâu, người ta lại ngừng lại để canh chừng mấy đỉnh đồi, tay che, mắt nheo lại vì ánh nắng chói chang. Chưa có bong bóng đỏ. Nhưng ai cũng biết là thế nào cũng có một cuộc oanh tạc. Mọi người ai cũng đợi dấu hiệu báo động và có lẽ sự trông đời đó còn tệ hại hơn ngay cả lúc toàn thể thành phố bị náo động vì tiếng la "Chình Páo!" Bóng đỏ đã bay lên. Ngay lập tức, cảnh náo động bắt đầu diễn ra. Các tiếng động vang lớn hơn. Xe hơi, xe đò chất đầy người và đồ đạc, rống chuông inh ỏi và chạy về vùng quê. Các xe kéo cũng bấm chuông kêu coong coong, các xe bò với ít món đồ đi lẫn lộn với đám người đi bộ còng lưng lếch thếch với đống hành lý, kéo nhau về phía các hầm núp. Mọi người đều vội vã nhưng không lộn xộn. Sự thể cũng như một vở kịch hấp dẫn, được diễn đi diễn lại quá nhiều khiến nó mất hết cả ý nghĩa đối với các diễn viên; tuy nhiên họ vẫn giữ trọn vài trò của mình, lần nào cũng vẫn từng đó động tác. Dĩ nhiên lúc nào vở kịch cũng có thể kết thúc một cách khác hắn thường lệ...

Những giờ trôi qua. Chúng tôi ngồi trong một bầu không khí ngạt thở, mình đẫm mồ hôi. Chúng tôi quạt phành phạch cách vô ích vì không khí có thay đổi gì đâu. Trong cái cảnh tranh tối tranh sáng đó, các khuôn mặt đều có vẻ sầu não và láng nhẫy mồ hồi... Ba giờ! Các đợt tấn công cuối cùng đã đến và đã đi. Mọi người ra khỏi chỗ núp, chen lấn nhau nơi miệng hầm để đợi lệnh "dứt báo động". Từ xa, một hồi còi duy nhất hú lên yếu ớt. Tiếng vang đó được truyền từ khu này sang khu kia như một hợp tấu các giọng còi, lẫn với tiếng người thở ra khoan khoái và các miệng hầm khạc ra từng đám người lố nhố.

Các nhà hàng lại mở cửa. Các xe hơi lại lục lục kéo về, đám đông vui vẻ, không lo nghĩ lại ào ra đầy đường phố. Các hiệu ăn lại nịch những người đến ăn "bữa cơm hậu báo động". Hoàng hôn. Không có đèn điện. Mọi người mang đèn dầu ra. Các thợ điện leo lên cột đèn, bắt tay vào việc. Họ cắt dây, họ tách mạch diện của khu bị oanh tạc ra và lập lại đường giây. Rồi bất ngờ phép lạ hiện ra, tất cả đèn điện trong thành phố đều sáng lên một lượt. Đám đông đồng loạt à lên một tiếng. Giống như tiếng ào của ngọn sóng dài đập vào bờ vỡ tan, rồi lại ào ào rút ra bể khơi. Thành phố lại vùng dậy, uy nghi trên mặt sông, giống như con tầu oai vệ, sáng trưng, đang lướt sóng trùng dương.

Chúng tôi tự thích ứng với hoàn cảnh. Có thể chúng tôi cũng hơi chai sạn lên tí ti. Sau những giờ ngồi bẹp dưới hầm tối, chúng tôi trồi lên, thèm thấy ánh sáng và thú vui. Trong khi khu phố này bị dội bom, các toán cứu cấp đang bơi móc và chuyên chở các xác người đi, tại các phố bên cạnh, đám đông vẫn vui vẻ ăn diện và đang sốt ruột chờ các rạp hát mở cửa và thản nhiên đứng ngắm một bức tranh quảng cáo vẽ hình một cặp tài tử Hoa-Lệ-Ước đang ôm nhau hôn đắm đuối. Thế là trong cái mùa hạ thứ hai bị ăn bom, tất cả từ đứa bé nhất đến người lớn nhất đều sống hai nếp sống. Một cuộc sống diễn ra dưới cái hầm trú bom. Một cuộc sống khác, vội vàng, đứt khúc diễn ra giữa các khoảng thời gian thất thường của các cuộc oanh tạc.

Trước và sau các cuộc rút xuống hầm xẩy ra gần như hàng ngày, tôi lo việc nội trợ. Pao đi làm từ bẩy giờ sáng cho đến tối. Chàng ăn cả hai bữa trong sở. Còn tôi, tôi chẳng lo gì về vấn đề ăn. Điều đó không có vẻ quan trọng lắm vì lúc nào thời tiết cũng quá nóng... Buổi tối, tôi nấu một món ăn nhẹ cho Pao. Cho đến khi đó, tôi chưa bao giờ nấu bếp cả. Cả hai đứa đều gầy sút đi.

Chàng rất khổ tâm khi thấy tôi phải xách nước và phải lau sàn nhà, bởi thế tôi phải làm các công việc nặng trong lúc chàng vắng nhà. Chúng tôi không đủ tiền thuê một Á-Xẩm.

Trong sự cố gắng để thích nghi vào cuộc sống chật vật ở Trùng-Khánh, tôi không thể không ngưỡng phục cách sống dễ dàng và giản dị của gia đình hàng xóm của chúng tôi, gia đình họ Viên. Không bao giờ có điều cãi cọ to tiếng. Trong gia đình này, không bao giờ người ta nói về vấn đề tiền bạc. Sống cách vui vẻ, vô tư và sẵn sàng chia sớt những gì họ có. Có một hôm tôi thấy Viên-Sinh-sâm bưng ngay nồi cơm lớn mà bà vợ vừa thổi để ăn tối, mang phân phát cho đám tù nhân đói khát, một ngày chỉ được hai bữa cháo lỏng đang làm việc ở dưới đồi. Viên tại tại chẳng nói gì. Bà không phản đối gì cả, chỉ nhìn với ánh mắt cũng giống ông ta vô tả và đi nấu nồi cơm khác cho lũ trẻ.

Viên-Sinh-Sâm là một người nhỏ bé, cặp giò rắn chắc, đầu lớn và trán gồ. Nhưng khi nhìn thẳng vào khuôn mặt đầy nhân ái và nghị lực đó, người ta quên ngay những nét kỳ dị kia. Ông ta có một cặp mắt rất lạ: mơ màng nhưng rất sắc bén, giọng nói nhỏ êm với những cử chỉ chừng mực và hơi mỏi mệt. Tôi chưa bao giờ thấy ông ta nổi giận. Ngay cả lời khiển trách cũng chứa vẻ nhẹ nhàng và độ lượng. Một đứa nhỏ đánh vỡ cái bình thủy hai lít, đồ vật bất khả thay thế vì giá cả các đồ vật chế biến đã tăng gấp hai mươi lần giá trị thực sự và vượt quá khả năng túi tiền của các gia đình nghèo. Viên-Sinh-Sâm không la mắng gì con. Hai bố con nhìn nhau, đứa nhỏ nước mắt lưng tròng và ông Viên nói:

- Con, vì sự vô ý của con, mười hai người sẽ không có nước uống ở trong hầm.

Mấy năm trước đây, Viên đã cùng vợ và chín đứa con lúc đó đi về miền Tây-Bắc để theo tân chế độ cộng sản. Chỉ sau khi bốn đứa con lần lượt qua đời vì thiếu thốn, ông mới chịu trở về miền Nam. Bây giờ ông là một tiểu công chức của chính phủ. Ông tin tưởng tuyệt đối vào tam dân chủ nghĩa, giữ nguyên các lý tưởng xã hội và mang ra triệt để thực hành. Tôi đã thấy một hôm ông bị hất xuống đường khi xe kéo ông lật úp trong một khúc quẹo gấp; ông đứng dậy, không chú ý gì tới cái vết bầm tím của mình mà đỡ người cu-li xe; giúp hắn dựng xe lại và buộc hắn phải ngồi nghỉ chốc lát; trong khi bất cứ ai khác cũng đã chửi mắng tên phu xe thậm tệ. Họ Viên không bao giờ tỏ thái độ khinh bỉ đối với giới lao động chân tay, như đám thượng lưu trí thức hồi đó. Ông cũng chẻ củi, xách nước với người làm. Sau một cuộc dội bom, ông leo lên nóc nhà và sửa lại mái ngói. Ông lập một cái vườn hoa, tự tay bón sới trồng tỉa cùng với mấy đứa con lớn. Đó là những đứa trẻ ngoan nhất mà tôi trông thấy: khéo dạy dỗ, rất sốt sắng và luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người.

Điều kiện để giữ một ngôi nhà ở Trùng-Khánh lúc đó là làm sao giữ cho nó còn. Mỗi khi ước lượng có trái bom nào nổ gần nhà, lúc bước ra khỏi hầm tôi luôn luôn lo lắng nhìn xem mình còn chỗ nào ở hay không? Căn nhà ọp ẹp đến cái độ bước chân nhẹ cũng làm nó rung chuyển được. Phía trên trần nhà của chúng tôi, mái nhà không còn đủ mặc dầu ông Viên và bác cu-li hàng xóm đã leo lên để sắp xếp lại số ngói còn lại cách sao cho nó chìa được ra ngoài chút đỉnh. Với cơn mưa lớn đầu tiên, căn phòng của chúng tôi bắt đầu bị rã mất một phần.

Những ngày nóng như thiêu đốt, ban ngày nhiệt độ lên tới 40 độ và ban đêm từ 25 độ đến 35 độ, rút lại thành một cơn mưa lũ. Đám trẻ con chạy cả ra ngoài mưa, trần truồng và cười đùa thích thú. Nước chảy ào ào trên tóc tai tụi nhỏ, chúng khoa chân múa tay, vùng vẫy trong các vũng nước, reo hò sảng khoái dưới dòng nước chảy ào ào như thác lũ của mấy cái máng xối. Trong phòng tôi, chiếc trần nhà bắt đầu rịn nước. Pao và tôi vội kéo giường vào một góc còn khô ráo và mang nào nồi, nào chậu, nào ly ra để hứng dột. Mỗi món vang lên một âm điệu khác nhau tạo thành một nhịp tí tách hòa lẫn với tiếng mưa ào ào và tiếng sấm chớp. Chẳng bao lâu, nước mưa bắt đầu dột cả trên giường. Chúng tôi lấy mấy sợi giây cột hai cái áo mưa ở phía trên rồi thản nhiên ngủ vùi. Sáng ra, sân nhà chỉ còn là một vũng nước. Chúng tôi quỳ gối trên giường như hai nạn nhân của cơn lụt lội. Trần nhà ngấm đầy nước và trệ xuống một cách hết sức nguy hiểm dưới sức nặng của các mảnh ngói vỡ. Nó đứng vững được suốt đêm, quả đáng ngạc nhiên thật. Chúng tôi dọn nhà ra ngoài hiên và thương lượng với các người khác, cũng chẳng hơn gì chúng tôi. Các phòng phía trên đã trở thành quá nguy hiểm và chúng tôi quyết định phá ổ khóa các căn phòng phía dưới của chủ nhà và chiếm ngụ. Chúng tôi viết một bức thư báo cho chủ nhà biết rồi dọn đồ đạc xuống dưới.

Tất cả mọi lời phản đối của chủ nhà đã bị định mệnh tước mất. Hai ngày sau, mặt trời lại lên cao. Hôm đó lại có báo động và chúng tôi rút cả xuống hầm trú ẩn ở dưới chân đồi. Khi chúng tôi ra khỏi hầm, căn nhà của chúng tôi đã biến mất. Trên đỉnh đồi chỉ còn một hố bom to tướng, còn ngôi nhà của chúng tôi văng ra từng mảnh vụn rải rác chung quanh.

Viên tại tại và tôi nhìn nhau sững sờ rồi chúng tôi cùng phá lên cười. Sự việc dễ sợ đến cái độ trở thành buồn cười. Cuộc oanh tạc này hình như chỉ có mục đích duy nhất là phá hủy ngôi nhà của chúng tôi và các ruộng lúa chung quanh đều lỗ chỗ hố bom.

Sau đó Pao vào sống trong sở còn tôi sống ở nhà ngân hàng trong khi chờ đợi tìm được một căn nhà khác. Phòng ngủ cho phụ nữ bị một quả bom xuyên qua ba từng nhà phá xập và người ta phải cấp phát những phòng khác. Lúc đi tránh bom tôi có mang theo ít quần áo thay đổi và vài món đồ đánh răng rửa mặt nên bây giờ khỏi phải mượn ai.

Mười ngày sau, chúng tôi tìm ra được một căn phòng tuy hơi quá túi tiền của tụi tôi, nhưng ít ra chúng tôi lại có một tổ ấm.

Chủ nhà là một góa phụ mập ú, mắc chứng u uất, chỉ cho chúng tôi thuê phòng sau khi đã chắc chắn chúng tôi không có con và không đang đợi đứa nào. Bà nhất định không cho gia đình có con cái thuê nhà.

Tiếng ồn ào có hại cho sức khỏe bà. Trong căn nhà buồn tẻ đó chỉ có thằng Mão, đứa con nuôi bốn tuổi của bà, gầy cồm và nhỏ bé, khuôn mặt nhọn như thỏ bị lột da với một nét nhăn láu lính ở mép. Mụ ta chẳng thương yêu gì đứa nhỏ. Có lẽ mụ ta nuôi nó để làm vui lòng ông chồng, bây giờ ông ta đã mất, bà cũng chán cảnh góa bụa, nên cũng đâm ra chán ghét cả thằng bé.

Tôi rất thương hại đứa bé lạc loài đó. Nó không có đồ chơi gì cả và căn nhà thì buồn thiu. Nó thường trốn nhà đi chơi với đám trẻ khác và mụ ta cấm tuyệt điều này, sợ nó bị dơ dáy. Mụ ta đánh và nó khóc. Rồi cũng chẳng sợ, nó lại lẻn đi nữa. Tôi thường nghe tiếng nó bị đòn nhiều lần trong một ngày. Nhưng mỗi khi nghe tiếng còi báo động thì dù ở đâu nó cũng phóng như bay về nhà. Nó chụp cái mũ rộng như cái ô lên đầu, lượm gói quần áo nhỏ đeo lên vai và lếch nhếch theo sau má nó đi đến hầm trú ẩn. Đôi khi quá mệt, nó khóc rấm rức, mặt mày trắng hếch và ngồi bệt xuống vệ đường cho đến khi má nó tới lôi nó dậy. Nó đứng dậy không một lời than van và tiếp tục kéo lê dưới ánh mặt trời lửa bỏng.

Chẳng bao lâu mụ chủ nhà tăng tiền nhà. Chúng tôi hoàn toàn nằm trong tay mụ. Một là trả tiền, hai là cuốn gói. Thiếu gì người muốn thuê phòng đó. Càng ngày nhà cửa ở Trùng-Khánh càng hiếm hoi vì nhà bị phá hủy nhiều hơn là xây cất. Những người nghèo kéo về quê hay vào các trại tỵ nạn hoặc dựng lấy một cái chòi lá để sống. Những người khá hơn thì đi sục sạo khắp nơi để thuê phòng. Rất nhiều khi đang nấu cơm, tôi bị một đám người lạ hoắc đang đi kiếm chỗ ở ào vào phòng. Thường họ kéo cả nhà cùng đi, luôn luôn người mẹ với một đứa con trên tay dẫn đầu, theo sau là một lũ con nít rồi đến người chồng, vẻ lì lợm cười cười và sục luôn vào phía sau. Luôn luôn chỉ có một điệp khúc: "Chúng tôi bị nạn. Chúng tôi không còn nhà cửa gì cả. Hãy nhủ lòng thương, cho chúng tôi ở tạm vài ngày".

Biết trả lời sao? "Vài ngày" đây có nghĩa là suốt mùa hạ, suốt năm!

Họ đi rảo khắp nơi, nhòm ngó các căn phòng.

- Đây có một phòng nữa. Hai phòng? Cho bà và chồng bà thôi. Nhưng phòng này có thể chứa được mười người, phòng kia ba - và chúng tôi có chín mạng! Tôi biết làm bếp. Ta sẽ chung tiền nhà và tiền cơm. Chỉ vài ngày thôi - trong lúc chúng tôi đi kiếm nhà.

Đôi khi, tôi may mắn được mụ chủ nhà cứu giúp. Khi nghe tiếng đồ đạc lỉnh kỉnh, tiếng trẻ con kêu réo, mụ ta thò ra khỏi phòng.

- Xin lỗi, nhưng đây là nhà tôi. Tôi là người bệnh hoạn. Bà Tăng đây có nhiều khách lắm. (Đến đây là một ánh mắt trách móc về phía tôi.) Bà ấy không thể để ông bà ở đây được. Xin lỗi, tôi không chịu được trẻ con. Con tôi, thằng Mão, sẽ là cái gương xấu cho con cái ông bà. Nó có bản tính xấu xa lắm. Ông bà thấy đấy, chúng tôi không có chỗ cho ông bà.

Trong khi đó mụ ta lùa cả bầy ra ngoài cửa, gạt ra ngoài tai mọi lời van xin giải thích.

Một hôm, có một quân nhân dáng mảnh khảnh và gầy gò, trong một bộ quân phục rách rưới đến gõ cửa. Khuôn mặt rám nắng, gò má nhô cao trông có vẻ quen quen.

- Mời anh quá bộ vào, tôi mời anh ta, cố moi trí tìm tên.

Dưới sự kinh ngạc của tôi, khách lạ phá ra cười - giọng cười con gái - và gọi ngay tên tôi. Thế là tôi nhận ra được. Đó là Liên-Xuân-Du, và tôi đã gặp nàng lần cuối cùng trên sân cỏ viện đại-học Bắc-Kinh. Nàng đã trốn khỏi Bắc-Kinh một đêm không trăng, đã lọt qua tất cả các vòng đai quân Nhật và tìm đến khu du kích kháng chiến. Nàng đã chiến đấu với quân kháng chiến. Nàng bắn súng giỏi và đánh nhau cũng khá, nàng nói với tôi thế trong khi mở miệng cười để lộ hàm răng trắng xinh xẻo. Nàng đã gia nhập quân đội ở Quảng-Tây.

Tôi hồi tưởng lại thời sinh viên... dáng mảnh dẻ trong bộ đồ thể thao ngắn, để lộ cặp chân tay dài nở nang, tóc cắt ngắn thẳng băng không uốn, điểm vài lọn lòa xòa trên trán. Nàng vẫn để tóc ngắn nhưng không cũn cỡn quá. Một lọn tóc rơi xuống che đến mí mắt. Nàng lắc mạnh đầu, hất lọn tóc ra sau. Nàng kể cho tôi nghe về Bắc-Kinh dưới gót giầy xâm lăng Nhật-Bổn.

- Trong các sách Sử-Ký, chúng đã cắt bỏ tất cả lịch sử hiện đại của chúng ta, từ 1911 đến nay! Cấm không được nói đến Tôn-Dật-Tiên cũng như về cách mạng với đám trẻ con. Họ bắt chúng tập đi biểu diễn với cờ năm gạch của Trung-Hoa đô hộ và cờ Nhật với mặt trời đỏ chói - để "kỷ niệm" ngày Thượng-Hải và Nam-Kinh bị thất thủ, ngày "giải phóng".

Giọng nàng có vẻ cay đắng, nhưng khi nói về chính nàng, giọng nói lại trở nên đều đều không xúc cảm. Nàng đã có chồng. Hắn đã có một đứa con ở miền Bắc và gởi cho cha mẹ nuôi. Chồng nàng đã bị giết sau khi lấy nhau được ba tháng.

Liên-Xuân-Du ở với chúng tôi mấy ngày. Chúng tôi kê cho nàng một cái ghế tràng kỷ trong phòng lớn. Khi nàng đi, khi nàng bước trên con đường dốc ngay trên đầu nhà, thỉnh thoảng lại quay lại vẫy chúng tôi - y như một chiến sĩ hơn là một cô cử hay một người mẹ - tôi muốn chạy theo giữ nàng lại, không cho nàng đi. Nhưng còn cuộc đời nào lý thú hơn cuộc đời nàng đã chọn? Đời tôi? Thế là nàng ra đi và mặc dù có hứa sẽ viết thư, tôi không bao giờ nhận được tin gì của nàng nữa.

Ít khi chúng tôi không có khách. Một tối, Pao dẫn Hồ-An-Tôn, một bạn cùng khóa ở trường Võ bị về nhà. An-Tôn ở với chúng tôi hai tháng. Chúng tôi dành cho anh chiếc trường kỷ. Rồi khi nhà Y.W.C.A., tổ chức khách sạn của hội công giáo dành riêng cho phụ nữ, bị dội bom, người ta gửi đến cho tôi hai người. Tôi dọn chiếc giường và phòng ngoài ở với hai cô gái, trong khi Pao và An-Tôn ngủ dưới đất trong phòng ngủ.

Hồ-An-Tôn có vẻ to lớn so với người Trung-Hoa, khuôn mặt vuông nghiêm nghị, đen xẫm. Anh đang nghĩ dưỡng sức sau khi bị thương ở mặt trận Tây-Bắc. Mặc dù một cánh tay đeo trước ngực, vết thương không làm mất vẻ đứng mực của anh. Lễ độ, thẳng thắn, sạch sẽ và rất thành thật nhưng hoàn toàn không có óc khôi hài. Anh ta và Pao là hai khuôn mặt điển hình cho cả một lớp sỹ quan trẻ, yêu nước hăng say và không dung thứ những quan niệm trái ngược với lý tưởng họ đang đeo đuổi. Họ tận lực trung thành với Tưởng-Giới-Thạch, con người duy nhất có thể vận dụng toàn thể Trung-Quốc với sức mạnh của niềm tin mãnh liệt. Trước mặt họ, Tưởng là niềm hy vọng đoàn kết duy nhất, người duy nhất có thể tụ họp tất cả các phe phái thành một tập hợp quốc gia trong nỗ lực kháng chiến để chiến thắng kẻ địch.

Hai người khách, một là Trương-Quế-Phan, trước kia làm việc xã hội cho tổ chức công giáo giữa đám nông dân nghèo hèn nhất, và mấy tháng vừa qua, đã sống trong một vùng đồi núi hoang dã nhất, thậm chí đến nơi không có thứ gì để mà ăn. Để hiểu rõ các vấn đề của họ hơn, cô ta đã sống như đám người nông dân, ở trong những căn lều tối tăm lụp xụp và chật ních người cùng với họ, chia sẻ những bữa ăn nghèo khổ với họ, thỉnh thoảng dạy bảo họ theo một nếp sống sạch sẽ hơn nhưng thường chưng hửng trước sự ngu dốt và tối tăm vô vọng của họ. Cô ta đã mở chiến dịch chống nạn mù chữ và chích thuốc ngừa. Cô ta đã thành công trong việc phá vỡ thái độ e dè, nghi ngờ của họ. Họ yêu mến và tin tưởng cô ta.

- Công việc căn bản đã hoàn tất, cô ta nói, chúng tôi chỉ việc tiến tới.

Nhưng sau vài tháng, cô ta đã ngã gục vì lao lực quá sức. Cô ta kiệt lực và xanh xao, ăn uống thiếu thốn và tình trạng mất vệ sinh đã khiến cô ta bị đau mắt hột.

Cô ta chỉ mang theo một gói quần áo nhỏ và một cái chăn bông cũ, rách lòi cả bông ra ngoài. Cô ta luôn luôn mặc bộ đồ xám và luôn luôn gọn ghẽ. Tôi không biết về cô ta nhiều và cô ta lại ít nói. Nhưng cô ta lại chùi sàn nhà và giúp tôi cơm nước. Cô ta rất trìu mến và hợp với Mão, nó mến cô ta lắm. Lạ là thân hình cô ta lại mập mạp và nặng nề, mặt rám nắng trông có vẻ như khỏe mạnh. Nhưng cô ta rất dễ bị mất sức. Cái vẻ thông mình như bị những nét u sầu che lấp đi, nhưng khi cô ta cười, người ta lại thấy ngay cái vẻ thông minh sáng láng.

Thật khó mà có được một sự tương phản nào lớn hơn sự tương phản giữa Quế-Phan và Lí-Lệ-San.

Lí-Lệ-San đến trước cửa nhà tôi và có vẻ nghi ngờ về sự tiếp đón của tôi nên chìa tấm giấy giới thiệu của nhà YWCA ra. Khuôn mặt nhỏ và xanh tái, tóc đen, cũng buông rũ xuống vai. Cặp mắt đưa đi đưa lại đượm nét hãi sợ và buồn. Cô ta mặc một cái xường xám hoa, cắt và may khéo đến cái độ chỉ có thợ Thượng-Hải hay Hồng-Kông mới có thể làm được. Có lẽ cô ta vào khoảng mười chín.

Giấy giới thiệu nói qua về cô ta. Cô ta là đứa con ngỗ nghịch nhất của tổ chức, luôn luôn phá quấy mọi người bằng cách rêu rao những ý kiến thiên cộng. (Thư giới thiệu chỉ nói qua vài nét chính, sau này tôi bổ khuyết thêm nhờ chính Lệ-San.) Lòng nung nấu muốn làm được việc gì cho quốc gia, cô đã đến Trùng-Khánh - bằng tàu thủy đến Hồng-Kông, rồi bằng tàu bay đến đây, vì cô ta có rất nhiều tiền. Cô ta định đi về vùng Tây-Bắc, về các miền hang động ở Vân-Nam, mật khu của Cộng Sản. Cô ta những muốn cắt tóc ngắn, mặc đồ lính, ngày hai bữa kê, muốn chia sẻ mọi nỗi cực nhọc. Đến Sĩ-An, người ta không cho cô đi xa hơn. Cô ta ở đó một thời gian, sống trong nhà mấy người truyền giáo Hoa-Kỳ nhưng họ không ưa những ý kiến của cô ta. Cô ta đành quay về Trùng-Khánh; nhưng rất bực tức và không ngớt hăm he sẽ trốn đi Tây-Bắc nữa. Trong lúc đó, cô ta kiếm không ít tiền bằng cách dạy tiếng Trung-Hoa cho những người ngoại quốc.

Nhà YWCA đã tìm giúp cho cô ta công việc này với hy vọng an định được cô ta. Với tôi, cô ta có thể cộng sản đến hết mực cô ta muốn, điều đó chẳng có gì quan trọng. Nhưng với Pao và An-Tôn, hai tay Quốc-Dân-Đảng hạng nặng, tôi đoán thế nào cũng có xung đột. Ngay từ bữa cơm đầu tiên, cô ta đã kể hết tiểu sử và ý định. Cô ta kể với tất cả mọi người không e ngại giữ gìn gì cả. Đầu cô ta luôn luôn đầy những ý tưởng cao cả và những lý thuyết tuyệt vời. Khi nói về những điều đó, đôi mắt đen rực sáng và mặt cô ta đỏ lên cách hết sức cuồng nhiệt.

An-Tôn hơi nhỏm dậy và nghiêng mình cách trịnh trọng:

- Tôi khâm phục lòng yêu nước của cô. Cô đã chấp nhận từ bỏ cuộc sống dễ dãi để đến đây và cô đã quyết chọn cuộc sống cơ cực nhất là cuộc sống ở mạn Tây-Bắc. Đó là điều rất đáng khen ngợi.

Lệ-San thật ngạc nhiên, cô ta đang đợi một cuộc cãi lý. Cô ta ngần ngại trong một lúc, nghi ngờ có điều lừa lọc chăng. Nhưng ánh mắt của An-Tôn rất thành thật. Cô ta cười thật tươi. Cô đang nghiêng người về phía chàng ta để thuyết về sự bóc lột của tư bản, nhưng anh chàng lại chỉ chăm chỉ nhìn cặp mắt sáng, đôi môi hồng và mỉm cười mơ màng. Khi hăng say, Lệ-San quả là hấp dẫn.

Buổi tối, Lệ-San và tôi chia nhau chiếc giường hẹp. Quế-Phan có cái trường kỷ. Lệ-San giữ tôi thức đến khuya, thì thầm hỏi dò về An-Tôn.

- Chỉ tiếc là anh ta không phải là cộng sản, sau cùng cô ta thở dài. Em sẽ khuyến dụ anh ta.

Sáng hôm sau, khi Lệ-San đi làm, An-Tôn tuyên bố với tôi:

- Cô ta còn trẻ quá, tôi sẽ làm cô ta hồi tâm!

Tôi than thầm:

"Thế nào rồi cũng khối chuyện om xòm!"

Mấy ngày sau mụ chủ nhà bằng lòng nhường cho Lệ-San một cái phòng nhỏ, đúng hơn là kho chứa củi. Chúng tôi cũng kiếm được cho Quế-Phan một cái gác xép ở nhà bên cạnh. Pao và tôi lại có được một phòng riêng và An-Tôn lại trở ra cái trường kỷ. Chúng tôi cùng ăn chung với nhau. Đó là cách duy nhất để giảm thiểu chi tiêu trong cái ngân sách eo hẹp của chúng tôi. Hết sức tiện tặn, cắt đầu này xén đầu kia, chúng tôi mới dành đủ tiền để thuê một á-xẩm để làm bếp tuy rằng tôi và Quế-Phân vẫn giúp nấu nướng.

Pao không hiểu tí gì về vấn đề chi tiêu cả. Một lần đầu tháng, chàng đưa nguyên cả tháng lương cho người bạn có nhà bị dội bom. Dĩ nhiên đó chỉ là cho mượn, nhưng việc vay mượn bè bạn như vậy có nghĩa là cho luôn. Đáp lại, Pao và tôi chỉ hy vọng được mời ăn một bữa cơm thịnh soạn để trả ơn một khi mà người bạn đã khá. Chúng tôi giải quyết bằng cách viết một bài về cuộc chiến cho các báo chí Âu-Châu. Pao rất sáng ý về vấn đề chiến lược và kinh nghiệm bản thân của chàng về tình hình Âu-Châu trước thế chiến đã cho chàng khả năng phân tích rất xác thực. Chàng chỉ định viết để lấy tiếng nhưng tôi chìa cho chàng coi tờ giấy năm quan kim duy nhất còn lại và thuyết phục được chàng rằng bây giờ không phải là thời buổi để hào sảng như vậy. Thế là nó đã giúp chúng tôi qua được lúc khốn đốn mà khỏi phải vay mượn.

Á-Xẩm không ở được lâu. Trái ngược với tất cả những nguyên tắc công bằng của cô ta, Lệ-San vẫn đối xử với người hầu và kẻ dưới y như bất cứ cô con gái nhà giàu hư hỏng nào khác. Cô ta không có chút kính trọng nào đối với họ và coi họ như thể họ không phải là con người. Tiền thì thường cho nhiều nhưng cô ta lại không chịu được một chút sai lầm nhỏ nào của người hầu và lập tức giận điên lên. Cô ta thường kết tội Á-Xẩm ăn cắp nhưng không có bằng cớ. Không bao giờ Lệ-San biết được cô ta có bao nhiêu tiền. Cô ta nhét tiền vào các ngăn kéo mở toang, hay vứt bừa bãi trên bàn rất dễ bị gió thổi đi mất. Cô ta lại không bao giờ khóa cửa.

Á-Xẩm bỏ đi và chúng tôi, Quế-Phan và tôi, lại phải làm hết cả mọi việc. Khoảng hai tuần sau, chúng tôi tìm được một người đàn bà để quét dọn nhưng hắn lại không biết thổi cơm, vả lại chúng tôi thích nấu cơm lấy. An-Tôn và Pao ăn đồ ăn của chúng tôi chẳng phê bình tuy nó chẳng ngon lành gì. Chúng tôi chỉ luộc chín hay rán thức ăn rồi dọn ra. Đồ ăn không bị sống, đó là điều duy nhất tôi có thể nói. Lệ-San ghét lắm. Đồ ăn không đủ ngon để làm vừa miệng cô ta, nhưng cũng không quá dỡ để khiến cô ta có cảm tưởng thiệt thòi. Sau nhiều ngày không có thịt (rất đắt lại khó kiếm), chúng tôi dọn lên bàn món đậu và cải luộc quen thuộc, Lệ-San không chịu được nữa. Cô ta kêu Á-Xẩm chạy ra tiệm mua thịt gà và cá để gia tăng ẩm thực. Mặc dù không bao giờ cô ta nhúng tay giúp đỡ chúng tôi trong công việc nhưng được cái không eo hẹp về vấn đề tiền bạc và tất cả mọi người đều khoái chí với cơn bốc đồng bất thường của cô ta.

Trầm trọng nhất đối với chúng tôi là nước, vấn đề kéo dài suốt mùa Hạ. Nhà không có ống dẫn nước. Chỉ có những nhà thực giàu có ở Trùng-Khánh mới biết đến nước máy. Trên đỉnh đồi, cách nhà hai trăm bực thềm, có một chỗ hứng nước công cộng và chúng tôi phải trả bốn mươi xu một đôi nước gánh đến nhà. Nhưng các cuộc oanh kích liên tục làm ngưng các kinh dẫn nước hay phá hỏng các máy bơm. Thế là, người gánh nước mướn của chúng tôi chỉ gánh cho chút nước giếng múc từ một cái giếng nông ở dưới ruộng dưới đồi.

Chỉ hai ba ngày sau, giếng cạn hết nước vì có quá nhiều gia đình đến lấy. Phải lấy nước sông, xa hơn, quãng đường đi và về dài hơn và số nước của chúng tôi cũng vơi bớt đi. Nước sông thường xẩm màu hay nâu đục và giá một đôi nước lên đến ba, bốn hay năm quan kim. Các người gánh nước kiếm được khá tiền công và trở nên khó chịu. Chúng tôi hoàn toàn tùy thuộc họ mà. Nhiều sáng tôi phải đi xuống đường để níu một người gánh nước năn nỉ với những lời nói lịch sự và với nụ cười tươi để hắn mang cho ít nước, dù chỉ nửa thùng để lau rửa mặt mày.

Nhưng đúng theo luật cung cầu, nước càng hiếm thì càng mắc và càng trở thành khó kiếm. Những người gánh nước kiếm trong nửa ngày hơn cả số tiền trước kia họ phải làm trong cả ngày. Thế thì cần gì phải làm nhiều.

Khi khạp nước ở nhà chúng tôi khô ran, chúng tôi phải đi mua lại từng hồi nước trong các quán nước để nấu nướng và uống. Mọi người chỉ được hai ba tách nước để lau rửa từ đầu đến chân sau đó lại lấy nước này đi chùi nhà. Chúng tôi phải bóp chắt lắm mới dám rửa bát đĩa. Hàng núi quần áo nồng nặc mùi hôi chất đống cho hết mùa kiếm nước.

Đến khi nước công cộng lại chảy ào ào và gánh nước thuê quen lại đến, tươi cười và chở đầy hai thùng nước trong vắt, thật sung sướng biết mấy. Chúng tôi thọc tay vào trong thùng, vỗ nước lên mặt, vốc lên tay để cho nước chẩy thành dòng lấp lánh qua kẽ tay. Tôi chưa bao giờ biết được rằng nước lại quý giá đến thế.

Lệ-San và An-Tôn cãi nhau luôn. Cả hai đều giống nhau mà cũng lại đối nghịch nhau, cả hai cùng trẻ, cùng tin tưởng mãnh liệt! Họ cùng thấy bị nhau lôi cuốn bởi chính những đức tính đã khiến họ đụng chạm nhau. Họ sóng đôi nhau đi đến hầm trú ẩn, say sưa bàn cãi, cùng ngồi trên một chiếc ghế và chìm trong một cuộc cãi lý không ngừng. Nhưng sau một tuần lễ liền bị oanh tạc ngày đêm, sáng sớm khi về đến nhà, tôi lập tức đi ngủ ngay, nhưng rồi giọng cãi và giận dữ từ phòng bên đánh thức tôi dậy.

- Cô mà là cộng-sản, An-Tôn nói giọng mỉa mai. Cô từ Thượng-Hải đến như đi du lịch, sang trọng, bằng tầu thủy, bằng máy bay. Cô nói sẽ đi Vân-Nam theo bọn Đỏ. Cô chỉ nói mà không làm.

- Chính anh, chính cái Quốc-Dân-Đảng của các anh không cho tôi đi, Lệ-San quạt lại.

Tôi đứng ngay cửa nhưng chẳng ai chú ý đến tôi. Cả hai đều đúng, mọi người một bên bàn và nhìn nhau tóe lửa.

- Cô không biết thế nào là thiếu thốn. Cô không thể ăn được cả đồ ăn thông thường. Ở Tây-Bắc, cô sẽ chết đói. Khi các món ăn không vừa miệng, cô sai ra tiệm mua thêm. Cô kiếm tiền của các tên tư bản ngoại quốc và cô may thêm áo quần mới tinh.

Lệ-San tức tối:

- Thế anh thì hiểu gì? Với anh, Cộng-Sản là phải ăn mặc rách như tương và chỉ biết đi liệng bom thôi hẳn?

- Không phải vậy, nhưng thằng bạn thân nhất của tôi là cộng-sản. Một tên cộng sản thật. Nó thuộc gia đình khá giả, nhưng từ bỏ hết và đi theo tụi Đỏ.

- Nếu anh phục họ vậy, sao anh không theo họ? Bởi vì anh muốn nhân dân có một lá cờ, một cái tên, một bản đồ. Các anh chỉ muốn hò hét và lên án tử tất cả những ai yêu nước hơn các anh.

Tức giận điên người, An-Tôn bỏ ra ngoài. Lệ-San bật khóc:

- Tôi ghét anh! Tôi ghét anh! Cô ta chạy vụt ra khỏi phòng.

Khi An-Tôn trở lại (hoàn toàn giống hệt như Pao với khuôn mặt xung, đau khổ mà cố không để lộ ra), tôi nói với anh:

- An-Tôn, đừng quá nóng giận như thế. Cô ta cũng thương anh nhiều lắm.

- Tôi yêu cô ta. Nhưng tôi không thể thay đổi lý tưởng theo cô ta. Sự thật rất là quý và nó lại quý giá hơn tình yêu chị ạ!

- Có nhiều sự thật, tôi trả lời. Sự thật không giống nhau đối với mọi người. Lệ-San cũng có lý tưởng tuy rằng đôi lúc cô ta không hành động đúng theo lòng tin.

- Chị ơi, tôi không thể bỏ lý tưởng cũng không thể bỏ nhiệm vụ vì một người đàn bà. Đàn bà phải theo chồng, anh ta kết luận.

Tôi thở dài. Với mọi người, sự thật là sự tự chứng nghiệm lấy mình. Chính vì lý do đó mà tôi để Pao đi thi hành nhiệm vụ của chàng, có thể đi đến cái chết không chừng. Nếu tôi mà giữ chàng lại, thế nào rồi chúng tôi cũng thù hận nhau. Bởi vì cái chết lớn nhất chính là từ khước hoàn thành nhiệm vụ. Ấy vậy mà người ta luôn luôn đòi hỏi đàn bà phải làm như vậy và coi đó như là một bổn phận tự nhiên.

Tháng chín rồi tháng mười. Các cuộc oanh tạc thưa dần. Trời thường mưa luôn. Nhà chúng tôi thoát nạn dội bom, cả mấy khung cửa kính cũng vậy, vì tôi luôn luôn để cửa sổ mở trong các cuộc oanh tạc. Pao và An-Tôn quét vôi lại mấy bức tường loang lổ. Chúng tôi có một tấm thảm mầu rượu vang trên sàn nhà, một ít sách trên cái kệ tre, ít quần áo trong tủ và vài cái màn che trên cửa sổ. Một chiếc bát sứ xanh lớn dựng vài bông hoa lan mầu xanh nhạt và mấy bông hải đường mầu hồng tươi. Tôi rất kiểu hãnh với mấy món này. Chúng chẳng có chút giá trị gì. Chỉ là những món đồ xấu, nhưng tôi đã thu nhặt chúng suốt cả mùa hè, tôi đã lau chùi, đã tốn công với chúng. Tôi đã biến chúng thành vật trang hoàng cho một tổ ấm. Chúng trở thành tư hữu của tôi và vô cùng quý giá. Mỗi khi đi trú bom tôi đều mở cửa sổ. Tôi liếc mắt giã từ. Mỗi khi chúng tôi về nhà và nếu mọi vật còn y nguyên như lúc ra đi, tất cả như thể tôi lại vừa được chúng, mới nguyên.

Tôi yêu mến những vật ấy và thấy chúng mỗi ngày một đẹp thêm vì tôi sẽ có thể mất chúng.

Đến cuối mùa Hạ, Trùng-Khánh trông giống y như thành phố Pompei. Không phải là một Pompei huy hoàng khởi sắc mà là một Pompei xám ngắt, tan hoang, bụi bậm, đổ nát và ngập mùi tro tàn và chết chóc. Nhưng người đã khai thông các đại lộ và khắp nơi đã mọc lên các cửa hàng mới, các căn nhà gỗ mỏng manh với các lớp vôi vữa sơn xanh, đỏ: thêm nhiều tiệm ăn, nhiều hàng tạp hóa. Các rạp hát và chớp bóng đều đông nghẹt.

Buổi sáng, hơi sương đọng lại trên cỏ lâu hơn. Ngày lên muộn hơn và thường bao phủ trong một lớp s