CHƯƠNG MƯỜI MỘT TRÙNG-KHÁNH LỬA ĐỎ- I-THẢNH THƠI-
Gia đình muốn tôi ở lại Trùng-Khánh cho đến khi Pao về. Tôi đã cực nhọc quá nhiều rồi, mọi người nói với tôi như vậy. Bây giờ tôi phải nghỉ ngơi và sứa, và bồi bổ sức khỏe. Mọi người đều muốn cưng chiều tôi, giúp tôi giải khuây để khỏi thấy buồn và cô đơn. Nếu họ trông mong người khác đối xử với họ sao thì họ đã đối xử với tôi như vậy. Nhưng tôi không quen để người khác chăm sóc mình quá nhiều như vậy. Dù yếu hay khỏe, tôi luôn luôn ghét việc mọi người quá chú ý đến tôi. Tôi cần có những khoảng thời gian sống riêng tư một mình. Nhưng đó lại là điều mà gia đình tôi không hiểu cho. Họ muốn rằng mọi thứ phải náo nhiệt; nghĩa đen là "thân thiết và ồn ào". Cô độc chỉ hợp với những người ẩn tu. Một vài thi sĩ, dĩ nhiên là có những ý tưởng kỳ dị, đã ca tụng nỗi hoan lạc được cảm thông với thiên nhiên trong cô đơn, nhưng những người khác có đầy đủ trí khôn, ai là người không thích tìm đến đồng loại trong các buổi hội hè? Không bao giờ họ nghĩ ra rằng buổi mã chược hôm nay, hay buổi mã chược ngày mai lại có thể trở thành buồn tẻ và các cuộc vui liên tiếp có thể làm cho tôi chán! Không bao giờ họ có thể tưởng được rằng tôi có thể chán cái nếp sống được chiều chuộng, che chở trong lòng Đại gia đình.
Khi ở Thành-Đô, tôi không đau khổ nhưng cũng chẳng sung sướng gì. Tôi sống như trong cơn nửa thức nửa ngủ.
Tôi chỉ lo đến những cái hời hợt, bên ngoài: quần áo, ăn uống. Còn về phạm vi tư tưởng, không có những thắc mắc trí thức cũng chẳng có gì hứng thú. Tôi nẩy ra cái ý tưởng là mình đang được bồi đắp trái ngược với sự sống. Tôi trở thành ít nhậy cảm đối với cái lạnh, với ánh nắng, với hương vị và mầu sắc của các thứ hoa: mỗi khi bước đi, tôi cảm thấy bước chân như xa vời mặt đất hơn. Những cảm quan thực bén nhậy đối với tôi vốn được coi là cuộc sống, bị trì độn, bị ru ngủ. Tôi bắt đầu thấy rõ là sự tử tế của gia đình đã bao lấy tôi như một lớp bông gòn vậy.
Tôi quyết định ra đi.
Chú Ba sẽ lại bay về Trùng-Khánh, công việc ngân hàng cần chú phải có mặt ở đó vài tuần lễ. Tôi theo chú để chăm nom nhà cửa.
Đã từ lâu, gia đình luôn áy náy về vấn đề nhà cửa ở Trùng-Khánh, vì không có người cai quản. Rất nhiều người đến đó rồi đi. Ngôi nhà đó giống như một quán trọ hơn là một mái nhà. Người nhà không ai có uy quyền ngoài chú tôi nhưng chú lại quá bận và thường vắng mặt. Tại Trung-Quốc, trong giới trung lưu, lẽ thường là đàn bà phải coi sóc bất động sản, sắp xếp công việc cũng như là dành dụm. Chỉ ở trong giới thượng lưu, nhàn hạ, bị đồi trụy vì của cải gia truyền, đàn bà mới bị coi là búp bê.
Ngoài việc chăm nom việc nhà, thím tôi còn phải lo thu nhận tiền nhà, thuê đất, sửa sang và tu bổ những tài sản của gia đình. Thím không thể rời Thành-Đô được.
Các bực niên trưởng trong gia đình đã cho rằng cách tốt nhất là Chú Ba lấy vợ nhỏ để bà này điều khiển ngôi nhà ở Trùng-Khánh. Và chú đã lấy. Nhưng bà nhỏ lại tỏ ra biếng nhác và vô tích sự, không đủ khả năng đảm nhiệm việc đó. Bị trác, Chú Ba liền kín đáo gởi bà về một căn nhà ở miền quê sống thảnh thơi với một đám họ hàng và bà an phận với những lần thăm viếng xã giao hiếm hoi của chú tôi. Chú không muốn làm một cuộc thí nghiệm kiểu này nữa.
Ngôi nhà của chúng tôi nằm trên một khu đồi cao, ở về phía Gia-Lâm, gần cửa sông. Dọc theo đỉnh đồi là con đường giầu thịnh nhất, đường Tô-Vũ-Khải với những cửa hàng lớn lao át cả những ngôi nhà ở chung quanh. Nó dẫn xuống một địa điểm toàn là nhà sáu bẩy tầng - với Tứ-Xuyên đây đúng là những ngôi nhà chọc trời. Trong đám đó có nhà ngân hàng của chú tôi, một kiến trúc bề thế bằng đá mầu xám.
Tôi đến Trùng-Khánh ngày một tháng năm 1939. Công việc cai quản căn nhà của chúng tôi không có gì khó nhọc cả. Đám người làm chẳng cần đến tôi cũng biết hết cái nề nếp quen thuộc của nhà. Tất cả có tám hay mười người gì đó, nhưng tôi không bao giờ nhớ được tên từng người vì họ thường được thay đổi luôn. Tuy nhiên đám "gia nhân tin cẩn" gồm có ba người thì bất di dich. Lão Sáng là quản gia, một người có tuổi, dáng gầy côm, trịnh trọng, ít nói và năng động. Hắn biết hết những điều cần phải biết, thoáng nhìn là nhận được ngay rằng chú tôi đang vui vẻ hay đang giận dữ và lo sao để mọi người hiểu mà cư xử cho hợp cách và hắn chẳng sợ ai trừ tên đầu bếp. Khi hai người này cãi nhau, luôn luôn Lão Sáng phải nhường.
Lão Lí là đầu bếp thượng thặng nếu ta tin vào câu ngạn ngữ rằng chiếc khăn quàng bẩn là biểu tượng của nghệ thuật nấu ăn và rằng tất cả đầu bếp đều mập ú là đúng. Theo ý tôi, hắn lạm dụng mỡ và ớt quá mức, nhưng đó là thói quen của vùng Tứ-Xuyên. Hắn rất ganh tỵ với những đặc quyền của hắn. Một hôm tôi đề nghị hắn nấu mì "trắng", nghĩa là không có tương ớt, không có dầu và không hạt tiêu mà để nguyên như chúng tôi vẫn thường ăn ở miền Bắc; lão Lí nhìn tôi vẻ như thương hại và lầu bầu nói với cái nồi:
- Mì luộc! Nấu với nước! Chắc là miền Bắc hẳn thiếu đầu bếp.
Vì món ăn của hắn có vẻ hợp khẩu Chú Ba và khách khứa nên tôi không đề nghị thêm gì cả.
Gia nhân tin cẩn thứ ba là Hồng-Sảo, Á-Xẩm. Hắn có chồng đang ở ngoài mặt trận và một đứa con mới mười tám tháng. Đó là một phụ nữ xinh xắn nhưng tính tình nóng nẩy và hách dịch đến nỗi hai người làm dưới quyền hắn không mấy khi ở lâu quá hai tuần và lão Sáng lại phải kiểm người khác. Đi đâu hắn cũng tha đứa con, địu sau lưng bằng một miếng vải mỏng tanh. Dù vậy hắn chẳng thấy vướng víu gì và đi lại huỳnh hụych, đến đỗi người ta phải sợ rằng cái đầu của đứa bé có thể văng ra và lăn lông lốc dưới sàn. Ấy thế mà đứa bé có vẻ khoái như vậy: nó không bao giờ khóc mà ngủ mê suốt ngày trong khi cái đầu gật gù lắc lư tứ phía.
Công việc độc nhất mà đám gia nhân cho phép tôi mó tới là việc cắm hoa. Nhà tôi không có vườn bởi vì không có cây cỏ nào muốn mọc trong sân cả, nhưng tất cả các thứ hoa xuân Tứ-Xuyên đều được bán ngoài đường: hoa mận, hoa mai kép mầu hồng mầu trắng; hoa lan rừng với những cánh hoa mỏng tanh với mùi thơm như quất; hoa hồng, hoa Thất-lý-hương "hương thơm bảy dậm" - những cành lớn đầy hoa hàm tiếu trắng phau; hoa mộc-qua của Nhật với những sắc xẫm, hoa khoa diên vĩ đại mầu xám nhạt, mang từ quê ra hàng gánh lớn và bán với giá vài xu. Thật là thú vị khi sắp xếp hoa, tươi và mát, khi cắm hoa vào những bình bông lớn mầu xanh, mầu huyết dụ hay những bình bằng đồng, khi hàng ngày thay hoa cũ bằng những hoa tươi hơn trong đại sảnh, trong các phòng ngủ.
Nhà chúng tôi thật là kỳ quái. Chú Ba vừa ở Trùng-Khánh vừa ở Thành-Đô. Anh Hai đôi khi về nhà, đôi khi ở nhà ngân hàng, anh có phòng riêng ở đó. Những ngày lễ hay ngày nghĩ mỗi tuần, nhà đầy thanh niên: các anh chị em của tôi, các anh em họ và bạn của họ, những sinh viện đại học Trùng-Khánh hay các vùng phụ cận. Các bạn của Chú Ba cũng thường đến luôn. Tôi không thấy một người bạn nào của Pao. Không biết có phải vì họ không biết tôi hiện có mặt nơi đây hay có lẽ, chắc họ cho việc đến thăm tôi trong khi chồng tôi vắng nhà là bất tiện.
Mùa xuân đó, nếu có một không khí lo âu vu vơ ở Trùng-Khánh, chúng tôi cũng chẳng nhận ra. Sâu trong mấy khuôn sân của nhà tôi, các ngày dài trôi qua trong bình lặng. Một đường hẻm hẹp nối liền nhà tôi với đường phố chính. Ngôi nhà nằm lẫn giữa các cửa hàng lớn, có nhiều tường cao bao quanh. Đám gia nhân sống trong sân trước. Phòng tôi nằm giữa sân trong.
Khi chú Ba và anh Hai vắng nhà, tôi sống lủi thủi một mình trong dẫy nhà trong. Nơi đây, tiếng ồn ào liên tục của thành phố chỉ còn là tiếng thì thào thoáng qua. Tôi tận hưởng sự đơn côi mà tôi đang cần. Tôi đọc, tôi viết cho Pao, dịch vài trang sách hay nếu nhàn rỗi, tôi tiêu thì giờ trong việc ngắm mấy con cá vàng trong hai hồ cá, hay leo lên nóc nhà nhìn những con tàu trên giòng Gia-Lâm và những ngọn đồi xám ngắt ở phía Nam dòng Dương-Tử. Buổi chiều có khách đến ăn cơm - người ta nói về giá sinh hoạt đắt đỏ, về những lớp người tản cư vẫn ào ào đổ vào Tứ-Xuyên không ngừng, những cuộc ném bom. Nhưng không ai lo ngại cả. Chiến tranh còn ở xa - ở sâu - bên kia dẫy núi.
Ném bom thì cũng có. Không nhiều, chỉ một vài máy bay. Nói chung, chúng chỉ nhắm các mục tiêu quân sự. Dù vậy, chúng cũng đến viếng thành phố một lần vào tháng giêng, nhưng không gây thiệt hại quan trọng. Chính phủ báo động và ra lệnh tản cư. Ít có ai nghe lời, không dễ gì mà thay đổi tính khí của người ta: miền Tứ-Xuyên luôn luôn có vẻ xa với mọi thứ, cách biệt hẳn sau dẫy núi trùng điệp. Người ta thấy Trùng-Khánh là an ninh. Dân tản cư thường kể đến cảnh nhà của họ bị tàn phá, những thành phố bị thiêu rụi. Những đám dân tản cư bị quật ngã hàng loạt bởi súng đại liên. Nhưng những điều đó đều xảy ra ở Nam-Kinh, ở Thượng-Bắc, ở Vũ-Xương - xa Tứ-Xuyên biết bao! Đối với những người dân Trùng-Khanh, một cuộc dội bom, đó là điều xảy ra cho những thành phố khác mà thôi! Làm sao họ lại phải lo sợ?
Khi mà cái sợ, cái sự thực phũ phàng chưa đập chúng tôi, mọi người chúng tôi vẫn cứ tưởng mình là đứa con cưng của định mệnh. Những điều xẩy đến cho người khác không có gì là quan trọng, không gì có thể hay lại dám xẩy ra cho chúng tôi. Bởi vì? Bởi vì chúng tôi không thể nào nghĩ rằng chúng tôi sẽ bị tan rã, trừ tiệt. Chúng tôi đã chuyển cái điều bất khả đó sang những gì ở chung quanh chúng tôi. Cái nhà này, cái nơi yên lành và quen thuộc chúng tôi thường đến hàng ngày, không có gì có thể xảy đến cho chúng được.
Trái ngược với mọi sự thật, bất kể cả lý trí, trong tâm tưởng chúng tôi, ai cũng rất tin tưởng là mình bất diệt và cả gia đình, cả tài sản của mình cũng vậy. Cho đến khi một cơn đại nạn kinh khủng thực sự rơi trên đầu chúng tôi.
Người ta đã sửa soạn sẵn các hầm trú ẩn. Chúng tôi cũng có một cái ở đầu đường, nhỏ và sơ sài. Số hầm không đủ mà lại không có tổ chức sửa chữa. Người ta muốn đi đâu thì đi. Có nhiều hầm chật ních, có nhiều hầm lại trống rỗng. Trong những cơn báo động, một sự hỗn loạn ồn ào rối rít tràn ngập các đường phố, đến nỗi có một số người trốn ở trong nhà, phó cho may rủi còn hơn. Chúng tôi cũng thuộc hạng đó. Nhớ đến hồi ở Quế-Lâm, đến cơn sợ hãi truyền nhiễm, tôi thường đến căn phòng gần giữa nhà, nhất là đại sảnh, để càng được xa với những tiếng la, tiếng ồn ào ở ngoài đường càng tốt, và say sưa đọc sách. Chú Ba luôn luôn có vẻ lạc quan rất ngây thơ. Nếu ở nhà, chú thản nhiên ngồi ở bàn làm việc, tập viết với cây bút lông. Bất kỳ một sự lên gân; một sự co thắt bất thường nào của bắp thịt đều làm hư các đường xổ. Cần phải làm chủ được bàn tay, đồng thời để cho nó được tự do tạo thành những chữ được cân xứng, những nét thật dầy và rõ. Thế có nghĩa là Chú Ba không hề bị khuấy động, vì các chữ chú viết trong thời gian báo động đều tuyệt hảo.
Khi còi dứt báo động hú lên, chú thường đến ngân hàng để kiểm soát. Đám nhân viên sống cả tại đó như là một đại gia đình với đủ cả đầu bếp, người làm để xách nước và giặt rũ do cơ sở cung cấp. Khoảng sáu mươi nam nhân viên sống chung trong các phòng ngủ lớn, mười ba nữ nhân viên sống trong những phòng nhỏ hơn ở trên nóc nhà và mấy người làm sống riêng trong các buồng khác.
Trong các cuộc báo động, tất cả mọi người đều đổ xuống dưới hầm với đồ ngủ và đồ quý giá của mình. Anh Hai có trách nhiệm coi sóc dưới hầm, một công việc khá nặng nề. Anh cao một thước sáu mà cân nặng chưa được năm chục kí. Tay và chân như tay chân con gái, tóc đen nhánh và cong, cặp mắt thật sắc. Thì giờ của anh được dùng để ký ngân phiếu, đóng mộc giấy tờ, điện thoại, la hét lệnh lạc. Nhưng trong một cuộc báo động anh thường giữ vẻ rất bình tĩnh. Khi tất cả mọi người đều xô nhau xuống hầm, anh thường leo lên mái nhà với cái ống nhòm để tìm kiếm các máy bay Nhật và xác định mục tiêu của chúng.
Tháng ba rồi tháng tư. Đến tuần lễ đầu tiên của tháng năm, các cuộc báo động trở nên thường xuyên và chính phủ khẩn thiết kêu gọi tản cư. Cũng giống như ở Quế-Lâm, gần như sáng nào, sáng nào cũng đều có báo động, vào khoảng 10 giờ. Một không khí căng thẳng bắt đầu thấy rõ. Các người làm phụ trong gia đình tôi bắt đầu kiếm cớ để xin nghĩ thật lâu: về quê gặt lúa, thân nhân bị bệnh hay cưới xin. Họ xin phép về quê. Nhưng ba kẻ trung thành - Lão Sáng, Lão Lí và Hồng Sảo - đều ở lại. Họ còn không chịu rời nhà để xuống hầm núp công cộng mỗi khi có báo động. Điều đó một phần vì tính lười biếng trì trệ, nhưng cũng còn do cái tinh thần trách nhiệm đã ẩn sâu trong lòng các gia nhân trung thành. Họ tự thấy phải có bổn phận phải canh gác nhà cửa và tài sản của chủ, trộm cướp hoành hành dữ dội trong các thời gian báo động: chúng tôi không đòi hỏi họ phải làm vậy, ngược lại còn bắt họ đi xuống hầm là khác, nhưng họ bướng bỉnh không chịu đi.
Ngày một tháng năm, chú tôi lấy tàu bay đi Thành-Đô. Tôi cùng đi với chú ra phi trường, không biết rằng hình chiếc máy bay bạc trắng trên lớp cát vàng sẽ khơi dậy trong trí tôi cái kỷ niệm của bữa trước khi tôi từ giã Pao. Trở về nhà, tôi lao đầu vào công việc để dẹp tan cái cảm giác cô đơn não nề và nỗi nhớ nhung Pao. Chú Ba đã giao phó hết công việc nhà cho tôi. Tôi quyết đinh đóng thùng tất cả những gì giá trị: sách vở, tranh ảnh, các bộ da, các bộ sưu tập đồ cổ của chú tôi vì chú đi mấy tháng luôn. Với lại, dù không tự nhận, tôi vẫn có ý lo ngại các cuộc dội bom. Tôi không sợ, nhưng cẩn tắc vô áy náy. Tất cả nhưng đồ này sẽ được an toàn hơn ở nhà ngân hàng. Dĩ nhiên là các hầm sắt đều đã quá đầy, nhưng chúng tôi có đặc quyền họ sẽ phải xếp chỗ cho chúng tôi. Tôi bắt đầu xếp sách.
Hai ngày sau có cuộc oanh tạc. Tôi ở nhà một mình với mấy người làm. Theo thông lệ, chúng tôi đều không rời nhà. Máy bay đến nơi. Chúng tôi nghe thấy tiếng máy bay ì ào ngay trên đầu.
Chúng bay thật cao, bay qua luôn! Chúng tôi nghe thấy một loạt tiếng nổ và các cửa kính rung lên dữ dội. Bom! Gần ngay sát bên! Giữa thành phố! Hồng Sảo và tôi, mọi người đứng bên một kết đồ, ngó nhau kinh ngạc. Đây không thể là sự thật được. Chắc là gió đã bỡn chúng tôi, đã đưa tiếng động từ xa về. Chúng tôi lắng nghe sự yên tĩnh bất thần của thành phố, có lẽ vì cơn báo động bất thần, nhưng mỗi phút mỗi thêm nghi ngại. Nhất định cuộc dội bom phải ở xa hơn chúng tôi cảm thấy. Làm gì có mục tiêu nào ở gần nhà chúng tôi?
Một tiếng còi the thé vang lên ngoài phố. Tôi vùng chạy ra cổng với đám gia nhân, nóng lòng nghe tin tức. Một toán cứu cấp chạy qua với những băng ca. Dọc theo phố, người ta đứng đến hết các lối đi và dưới các mái hiên, họ đoán, họ dò hỏi:
- Ở đâu đấy?
- Ngay kia kìa, ở phố bên cạnh đó!
Các băng ca quay trở lại. Có người. Một người đàn bà với đám tóc dính đầy máu; một đứa trẻ con chết, bụng bi sẻ vì miểng bom và nhiều nữa! Tôi đã nhìn quá đủ. Tôi quay vào trong nhà. Chuông điện thoại reo vang. Anh Hai gọi từ ngân hàng.
- Cô có sao không?
- Phố bên cạnh!
- Gần thế à! Chúng bay cao quá nên không thấy. Anh tưởng là họ nhắm phi trường. Dội bom thành phố chẳng được cái ích gì. Phá của, đốt nhà có giúp gì cho họ? Nhất định đây là một sự lầm lẫn. Cô đã gối đồ rồi hả? Chiều nay anh sẽ cho người đến lấy những đồ quí. Cô gửi hết tất cả những gì có thể sắp xếp được. Có thể sẽ còn có tai nạn như vậy nữa.
Suốt buổi chiều, tôi và mấy người làm lo gói ghém đồ đạc và gửi rất nhiều kiện đồ quý của chúng tôi đi. Chúng tôi dọn sạch phòng đại sảnh, nhưng cũng còn lại nhiều đồ - áo lạnh, các tấm thảm, nhiều sách vở, đồ đạc của Pao và của tôi.
Đến chiều tối, tôi cảm thấy mệt lử vì nóng bức, cái oi nóng ngột ngạt của mùa hạ Trùng-Khánh. Mùa hạ đã đến quá sớm vào tháng năm. Mặt đất khô cằn và đầy bụi bặm nhưng không khí đè trên mặt sân như một chất nước nặng nề và khó chịu. Tôi trèo lên sân thượng, trên nóc nhà nhưng cũng không có một ngọn gió, tôi thấy ngột ngạt như bị nhốt trong chỗ kín, như trong một căn buồng không có cửa sổ. Mặt trời đã lặn, nhưng khí nóng còn bốc lên hừng hực trên nóc nhà. Bầu trời đỏ ửng, chụp xuống như một cái vung, bưng kín hết cả chân trời. Mặt trăng mọc thật thấp ở phương đông và bị hơi nước bao quanh thành sắc tím bầm, mặt trăng nặng nề, méo mó, cách ba ngày tròn trăng. Nhìn xuống thành phố, tôi thấy các mái nhà vẫn san sát như cũ, không bị đứt quãng.
Lão Lí ló đầu lên nơi đầu cầu thang:
- Thua cô cơm đã dọn!
Tôi xuống phòng đại sảnh. Lão Lí đã dọn bữa cơm chiều của tôi trên góc bàn tiệc lớn tướng và trống trải. Mặc dù phòng mở ra trước sân trong nhưng tôi chẳng thấy mát, chẳng thấy một ngọn gió. Ngọn đèn sáng chói không có chụp hình như tụ sức nóng lại. Căn phòng này mỗi khi thật là sang trọng, thật là dễ chịu biết bao với những cuốn tranh lụa thanh nhã, những bình hoa tươi mát, bây giờ có vẻ như hoang dại. Tường đều trống lốc, ghế được dẹp sát vào góc; các thùng đồ xếp dở nằm chình ình giữa nhà và một đống đồ ngổn ngang nằm đầy chung quanh. Chán hơn hết thảy là cái bàn lớn và trống trải với một phần ăn duy nhất cô đơn.
Sáng ra, tôi dậy thật sớm, dù đã ngủ một giấc khá đầy mà vẫn chẳng thấy bớt mệt, tôi chất một thùng toàn sách của Pao rồi đi ra ngân hàng.
Anh Hai giúp tôi xếp thùng sách vào chỗ an toàn. Chưa hề bao giờ biết sợ bom, anh nhíu mài vẻ bực tức.
- Dĩ nhiên đó chỉ là một tai nạn và ít có dịp xảy ra nữa, nhưng có lẽ cô nên về ở Đại-A-Vũ chăng?
Đó là một ngôi nhà ở vùng quê, khoảng hai mươi cây số sâu trong bán đảo, phía bên kia phủ Tô-Quan. Nhà Ngân Hàng có mấy cái kho ở đó để chứa hàng và một căn nhà nhỏ cho người gác dan. Ở đó chưa hề bị dội bom bao giờ; nó ở xa quá các mục tiêu quân sự. Chỉ là một cái vườn trên một ngọn đồi toàn thông và dưới chân đồi, các cánh đống lúa trải dài trong thung lũng. Ở đó là an toàn nhất.
Anh Hai đã nói như vậy vào khoảng tháng năm 1939... Sau này các cánh đồng chung quanh và chính ngay cái vườn cũng lỗ chỗ toàn hố bom; các cây thông bị chặt và các căn nhà đều bị đổ nghiêng.
Tôi trả lời anh là lúc này tôi chưa thấy cần phải đi khỏi thành phố.
Nếu tình hình bết bát hơn... Nhưng ở Nam-Ninh, sau cuộc dội bom đầu tiên chỉ có toàn những cuộc báo động lầm. Máy bay chẳng trở lại bao giờ. Ở Quế-Lâm cũng vậy. Tôi có thể đợi được.
Khi chúng tôi ở dưới hầm lên, người ta báo cho chúng tôi biết có Chình Páo, báo động. Lúc đó khoảng 10 giờ sáng, giờ thông thường của các cuộc báo động. Tôi nấn ná ở lại ngân hàng. Đây là một chỗ tốt nếu có dội bom. Bẩy tầng lầu trên đầu đủ để chận một quả bom trước khi nó xuống đến đất, hơn nữa căn hầm lại được đào sâu vào trong đá cứng. Tôi đợi hàng giờ. Giờ giấc thường không thể đoán được. Thông thường trong một cuộc báo động, sau khi hồi còi thứ nhất - Kung-si tấn công, có nghĩa là các máy bay Nhật đang ở trên không phận vùng và phải ít ra là một giờ sau mới có hồi còi thứ hai: "khẩn cấp" hay "hết báo động". Nhưng hôm đó, sau hồi còi Kung-si đầu tiên, nhiều giờ trôi qua mà vẫn không có lệnh gì khác. Đến hai giờ trưa, mọi thứ lại có vẻ bình thường, người ta lại đổ ra đường, các cửa hàng lại mở. Tôi nghĩ tới mớ đồ đạc phải đóng thùng và thấy thật vô lý để đợi lâu hơn nữa.
Một ngày thật ngốt người, mặt trời sáng trắng chói chang. Những chiếc xe hơi phóng qua - rất nhiều và chở đầy hành lý - tung lên hàng đám bụi mù. Đường phố có vẻ thường lệ, người ta nhộn nhịp đi lại. Nhưng một nỗi lo âu mơ hồ tiềm ẩn đâu đó. Thỉnh thoảng, đám bộ hành lại như là nhộn lên lo ngại. Tôi dừng lại trước một cửa hàng để mua xà phòng.
- Chúng ta đang có báo động hay sao vậy? Tôi hỏi người bán hàng.
Mấy cái còi chắc bị hỏng, ông ta trả lời. Cơn báo động đã đứt, rõ ràng như vậy! Bà có thấy nó kéo dài hàng giờ bao giờ chưa? Mọi người lo sợ chỉ vì vụ xảy ra hôm qua, chỉ có thế! Bà xem, vừa lúc này có một người vừa chạy vừa la: Chình Páo, thế là cả phố đua nhau chạy. Điên hết cả, làm vậy chả ích gì. Sự thực là các máy bay đến rồi lại đi rồi. Máy bay săn giặc chứ không phải máy bay thả bom. Chắc là chúng đã đụng với máy bay của ta, phía sau dẫy núi về phía nam bờ sông. Hôm nay thế là hết, bà có thể tin tôi.
Có lẽ nên bỏ qua tất cả và tiếp tục làm việc thì hơn. Về đến nhà, tôi tiếp tục công việc lọc lựa và gói đồ. Chiếc áo khoác của Pao hôi mùi mốc. Tôi máng nó lên một chiếc ghế giữa sân để phơi. Càng ngày cơn nóng bức càng tăng. Đến năm giờ, tôi chịu thua và về phòng ngủ một chút, khoảng nửa giờ sau tôi bị đánh thức vì Hồng-Sảo đang bật lên bật xuống cái công tắc đèn trong phòng.
- Bóng đèn bị cháy! Tôi nói. (Mà thực ra, cần gì phải bật đèn, trời hãy còn sáng.)
- Không phải đâu cô Ba. Tôi đã thử cả ở trong phòng tắm mà cũng không được. Tất cả nhà luôn. Hắn có vẻ sợ.
Cơn sợ sệt của hắn làm tôi bực mình, nhất là vì hắn đã khơi dậy cái khoảng chớp nhoáng trong tôi cái nỗi kinh hoàng bất thần, thiếu suy xét tràn ngập người mình trước khi óc ta kiểm soát lại được lý trí. Có khối lý do để khiến điện bị cúp, tôi nghĩ ngay đến cái nguyên nhân hiển nhiên nhất:
- Họ đang sửa các đường dây điện bị hư vì cuộc dội bom hôm qua! Mà đúng rồi! Có lẽ nhà ta cũng cùng đường dây với phố bên cạnh chứ gì! Cả hai tôi đã quên hẳn là đèn đã cháy suốt đêm qua!
Hài lòng với lời giải thích của tôi, Hồng-Sảo ra khỏi phòng. Mãi sau tôi mới nhận ra rằng lần đầu tiên hắn không địu con sau lưng. Có lẽ vì trời nóng quá?
Tôi vẫn thiu thiu ngủ trong cơn oi. Mười phút trôi qua. Rồi, văng vẳng, rất nhỏ, một hồi còi độc âm bất thần cắt ngang giấc ngủ. Cả ngày, tôi đã chờ đợi nó trong vô thức, nếu có cái gì đó trong tôi đã không ngóng đợi cái hồi còi này, tôi đã không nhận ra nó yếu và xa quá. Tôi ngừng thở, "khẩn cấp" hay "dứt báo động"? Im lặng. Một hồi còi có nghĩa là "dứt báo động". Thế là xong! Lão Lí bước vào, dáng vui vẻ, nhẹ nhõm:
- Xong! Mọi người đều rời hầm. Tôi đi dọn cơm nghe cô Ba.
Tôi ngồi dậy, búi lại mớ tóc ướt đẫm, sỏ chân vào đôi dép, lười biếng tụt khỏi giường và ra phòng đại sảnh. Buổi chiều tà che khuất nửa chiếc sân trong bóng râm. Đến lúc cất những đồ phơi phóng, cái áo khoác của Pao, hàng dẫy giầy dép. Đúng lúc tôi cúi xuống để nhặt, trên trời vang vang tiếng ù ù. Tôi đứng thẳng dậy, người cứng ngắc. Tiếng ù ù vang lên cho đến khi trở thành một tiếng gầm nặng nề, nhức tai của một động cơ quay tít. Một chiếc xe hơi hụ máy? Hay là? Tôi quay mình định đi ra cổng. Tôi muốn coi xem có phải vậy không? Tôi đi tới sân giữa. Tiếng gầm vang lên gấp bội. Trên trời chỉ còn là tiếng ầm ầm và rung động. Tôi ngước mắt nhìn lên.
Chỉ nhìn một lần - máy bay và bom bắt đầu rơi, những chấm đen trong không khí, phía sau đuổi máy bay. Bom đang rơi và tôi chạy. Tôi băng qua các phòng, sân trong, tôi vơ vội lấy cái áo khoác của Pao trùm lên đầu trong khi chạy, vào đến phòng đại sảnh, tôi lao xuống gầm bàn. Một tiếng rít nhứt tai lẫn với tiếng gầm ầm ầm, rồi một tiếng nổ, một tiếng vỡ khủng khiếp, một cuộc động đất. Bóng tối.
Giữa cơn kinh hoàng, ngay cái phút giây chớp lòa ấy, tôi cảm thấy tất cả các cảm giác của tôi đều bùng lên trong một nỗi vui sướng cực độ: "Tôi còn sống! Thế là xong, và tôi còn đây. Quả bom đã nổ, thế là hết và tôi hãy còn sống!" (Có lẽ tôi đã kêu to lên thì phải.) "Thế là xong. Tôi may mắn. Tôi còn nguyên vẹn. Tôi còn sống!"
Tôi còn nhớ lúc quả bom nổ, tôi há to miệng, không phải vì lo chấn động đến tai mà vì tôi quá kinh hoàng để đóng nó lại. Tôi ngồi chồm hổm, dưới bàn, giữa hai chân bàn và ngồi nhìn trân trân phiến gỗ trước mặt. Rồi đột nhiên, màn tối chụp xuống.
Ngay sau đó, một cơn sợ tràn ngập lòng tôi, một nỗi sợ ghê gớm. Tôi bị ngạt thở. Tôi không thể thở được nữa. Miệng và cổ tôi đầy những bụi. Nền nhà bị xập. Tôi bị vùi dưới cái bàn - bị chôn sống! Chung quanh tối đen như mực. Trần nhà và các bức tường đều đổ. Căn nhà đã xụp đổ trên bàn và bốn chung quanh. Cái bàn đã đứng vững và tôi ngồi phía dưới, bị vây bốn chung quanh.
Sau khi thở lại được, tôi xoay ra phá bức tường tù hãm, tôi lắc, tôi đẩy những thanh gỗ, những trát vôi. Bức tường cản rung rinh và vận dụng hết sức lực, tôi chui ra. Gạch đá rơi ào ào lên người tôi trong khi tôi chui ra ngoài. Những mảnh ngói đổ rào rào. Tất cả chỉ diễn ra trong vài giây đồng hồ. Tôi quờ quạng chạy lung tung, vấp cả vào những mảnh đổ vỡ chất đống. Tôi không nhìn thấy gì, không khí chỉ là một đám bụi dầy đen ngòm. Bụi bay đầy mặt làm tôi nghẹt thở. Ho sặc sụa gần ngất xỉu được; tôi quờ quạng chạy dọc theo vách tường để tìm đường, tôi chạy dọc theo hành lang đến sân giữa và tự động tránh cái hố ở ngay giữa.
- Lão Sáng! Lão Lí! Hồng-Sảo! Tôi gọi to. Mấy người có đó không? Lão Sáng! Lão Lí!
Giữa cơn lốc đen ngòm, một giọng người trả lời tôi:
- Cô Ba! Theo lối này, cặp theo bức tường!
Đó là giọng của Lão Lí. Tôi cặp quạng chạy về phía lão. Hắn nằm lấy tay hướng dẫn tôi.
- Cô có việc gì không? Cô không bị thương chứ. Lão Sáng và đứa con của Hồng Sảo bị vùi dưới này. Phải cứu họ ra. Hồng Sảo và tôi đang đứng trước cửa.
Hắn cào bới như điên. Tôi quỳ xuống cạnh hắn và bới móc đống gạch vụn. Giữa đám bụi mù mịt, Hồng Sảo đang kêu gào tên con ở gần đâu đây. Chúng tôi không ngừng gọi tên Lão Sáng và chẳng thấy trả lời. Chúng tôi cào bới điên cuồng, tuyệt vọng, biết rằng chỉ vô ích thôi.
Đám bụi bớt dần. Chúng tôi có thể lờ mờ thấy nhau. Tôi nhìn ra phía sau, phía bên kia hố bom ở giữa sân. Đám bụi đen ngòm đang tan dần sau chúng tôi để lộ ánh lửa vàng hừng hực. Bom lửa. Lão Lí cũng nhìn thấy.
- Cô Ba cô đi đi! Hắn giục tôi. Ta không thể cứu Lão Sáng và đứa bé đâu. Họ chết rồi.
Tôi lắc đầu và lại cào bới mặt đất cách điên cuồng hơn nữa, hai tay hất tung các mảnh vụn.
- Nhìn, cô coi kìa, ở gần cửa!
Những căn nhà gỗ ba tầng nằm hai bên đầu hẻm dẫn ra đường phố chỉ còn là những con lừa phừng phừng.
Hồng Sảo mặt sáng rực trước ánh lửa, tay dơ lên trời, vừa chạy vừa kêu gào. Chúng tôi không còn bao giờ gặp nó nữa. Một lần nữa, Lão Lí lại gọi Lão Sáng cách tuyệt vọng. Rồi bằng một giọng buồn rầu:
- Lão không trả lời. Thôi, chúng ta bới làm gì, vô ích. Cô Ba đi đi.
Chúng tôi chạy băng qua cửa. Lúc chúng tôi chạy ra đến đường, những ngọn lửa cao vút trùm trên đầu thành một vòm lửa. Một tiếng răng rắc rợn người. Căn nhà phía bên phải chúng tôi nghiêng đi, lảo đảo rồi gục xuống, cháy hùng hục trên cái cổng chúng tôi vừa băng qua. Tất cả phía đường bên đó chỉ còn là một biển lửa. Chúng tôi trợn mắt lên, kinh hãi. Rồi Lão Lí chạy về một phía. Tôi chạy về phía ngân hàng.
II
LO SỢ
Dọc theo các đường phố toàn là lửa dưới chân, lào xào ngói vỡ và gạch vụn. Giây điện đứt rối tung, các cột điện đứng cháy phần phật như những cây thánh giá lửa hay nằm đổ nghiêng trên mặt đường. Tiếng lửa reo hò càng ngày càng mạnh. Tiếng máy bay ù ù xa dần, sau khi đã hoàn tất nhiệm vụ. Đến bây giờ tôi mới nhận biết sự hiện diện của những người chung quanh, câm lặng, kinh hoàng. Không một ai lên tiếng. Người ta chỉ nghe thấy tiếng thì thào; từng nhóm nhỏ trên thềm nhà, mặt úp trong lòng bàn tay. Những người bị bất ngờ ở ngoài đường tụ tập dưới các mái hiên còn nguyên lành, mặt đỏ rần như cua luộc. Ở một góc phố, một nhóm khác đang nghển cổ nhìn trời. Một thầy cảnh sát, súng sáu cầm tay, canh chừng trộm cướp. Người ta nhìn tôi thản nhiên. Chắc trông tôi giống như con ma, một con quỷ với mái tóc xõa tung, quần áo rách bươm và dính đầy bụi. Khuôn mặt chỉ còn là một lớp mặt nạ xám ngoét và trơ như đá loang lổ bụi bặm.
Không ai nói với tôi một lời cho đến mãi lát sau, một thầy cảnh sát chỉ tôi đi qua hướng khác; khu Tô-Vũ-Khải không đi được nữa, một biển lửa.
Tôi phải mất một giờ mới tới được nhà ngân hàng, đi rẽ qua các đường hiểm hóc, các con đường lạ hoắc và gần như bị lạc. Mặt trời hạ dần, nền trời sáng rõ mầu trắng đục. Khắp nơi mọi thứ đều chìm trong bất động và im lặng chỉ trừ ánh lửa reo hò cháy lan tứ phía. Tại nhà ngân hàng, có hàng trăm người tụ họp trong nhà xe và trên lối vào thì thào to nhỏ làm như sợ rằng tiếng nói của họ khiến cho máy bay trở lại. Ngân hàng vốn là một kiến trúc bằng đá to lớn, gần như không bắt lửa, là một chỗ trú ẩn tốt giữa những cửa tiệm bằng gỗ ở chung quanh. Người gác cổng nhận ra tôi và mở cổng đưa tôi vào. Trong bóng tối mịt, chúng tôi đi dọc theo các hành lang, xuống các thang gác. Bàn tay quờ quạng của tôi sờ thấy một lớp vải ấm, một lớp thịt nóng, tôi ngửi thấy hơi người đang chen chúc nhau. Dưới hầm, ánh sáng mờ nhạt của ngày tàn còn le lói...
Tôi gọi anh Hai. Giọng tôi có vẻ ồn ào kinh khủng giữa sự im lặng và những tiếng thì thảo nho nhỏ. Anh rẽ đám đông đến bên tôi và kéo tôi đến bên một cửa sổ. Tôi nắm cứng lấy tay anh và bắt đầu kể nhưng không được, nước mắt ào ra và cổ họng tôi đau cứng lại. Tôi khóc nức lên với những cơn rung động hãi hùng. Người tôi run lên và tim tôi đập loạn xạ liên hồi. Cho đến lúc này tôi chưa hề khóc chút nào, ngay cả trong cơn lốc tối đen những bụi của quả bom, ngay cả lúc ở trong sân nhà lửa cháy phừng phừng trước mặt sau lưng, ngay cả lúc tôi vội vã đi ngoài đường phố yên lặng như chết, ngoại trừ tiếng lốp đốp lửa nổ. Nhưng lúc này, khi đã vững bụng với cái tay áo của Anh Hai, với những bức tường dầy của nhà ngân hàng, tôi khóc nức nở và không làm sao ngưng lại. Tôi nói:
- Ngôi nhà đã tan hoang. Lão Sáng chết.
Chúng tôi cùng khóc, người nọ an ủi người kia.
Rồi tôi hít một hơi dài, gần như bật cười, tôi đòi nước trà và phải ngồi xuống sàn nhà trên một cái chăn. Tôi mệt run người. Tôi vừa uống vừa kể lại những việc xảy ra, đám nhân viên ngồi cả chung quanh tôi, trong bóng tối lờ mờ tôi chỉ nhận ra những lòng mắt trắng. Tôi trả lời các câu hỏi của họ về các việc xảy ra trên đường phố, về các nơi có hỏa hoạn. Tất cả bọn họ đều ở dưới hầm cả. Ở đó, họ chỉ nghe thấy tiếng bom nổ cách mơ hồ và không nhìn thấy gì. Nhà ngân hàng, đã được báo động kịp thời bằng điện thoại nên họ đã xuống kịp hết dưới hầm...
Đêm buông xuống. Ánh trăng soi một vệt xám trên các khung cửa sổ. Người ta thắp rải rác vài ngọn đèn dầu, không có điện. Ở dưới hầm, không khí thật ngột ngạt. Điện thoại cũng bị cắt. Chúng tôi hoàn toàn vô tin tức.
Đến khoảng mười giờ, Anh Hai và tôi leo bẩy tầng lầu lên tận trên nóc nhà, nơi đó chúng tôi có thể nhìn thấy khắp Trùng-Khánh. Cảnh tượng mang một vẻ đẹp huy hoàng. Những ngọn lửa bay lên trời như những ngọn cờ đuôi nheo hay tam giác, lung linh trong làn gió bấc hiu hiu của đêm hè. Những ngọn lửa bốc lên khỏi đám cháy, cuộn lại thành từng cột khói và lửa y như những chiếc cánh đang quạt gió.
Chúng tôi nhìn về phía Linh-Kiên-Minh, tức là hướng nhà chúng tôi: một biển lửa và mặt lửa trao động thành từng lớp sóng lửa sáng lóe. Xa hơn, về phía dòng Dương-Tử, một cột lửa vàng phừng lên từ một trăm xăng, lửa bốc cao hơn cả ngọn đồi phía bên kia bờ sông. Khắp hướng, chỗ nào cũng ngập toàn lửa. Chúng tôi có thể nghe thấy tiếng ào ào xa vời và khô khan. Không khí sặc mùi khói. Tro và tàn lửa rơi như mưa lên người chúng tôi.
Chúng tôi đứng đó yên lành - vì không có đám cháy nào đủ gần để đe dọa - trên đỉnh thành phố ngập lửa và ngắm nhìn cuộc hỏa thiêu vĩ đại. Trên đầu chúng tôi, xa vời, mặt trăng trắng toát, gần tròn hẳn, lơ lửng trên nền trời nho nhỏ mầu sữa. Người tôi khô kiệt cảm giác, không còn khả năng để thấy thương hại hay kinh hãi cho số phận của những người còn kẹt trong các đường phố đang cháy ngút trời.
Sau này, khi tôi biết tin tức của vô số thảm cảnh trong đêm đó, khi tôi thấy cảnh người ta đào bới các đống tro tàn, khi tôi nghe tiếng người ai oán - "vợ tôi", "các con tôi", "chồng tôi" - khi tôi biết rằng trong khi tôi đứng bàng quang làm khán giả ngắm nhìn cái biển lửa đó, hàng trăm, hàng ngàn người đang bị thiêu sống, tôi không thể nào hiểu được sự thản nhiên u ám của tôi trong đêm đó! Tôi không cảm thấy gì cả. Tất cả mọi cảm giác đều chìm lỉm trong cơn mệt mỏi vô bờ.
Trong khi đi xuống các thang gác, hết từng này qua từng kia, tay phải tôi phải nắm lấy thành gác để giữ người, để đỡ cho tôi khỏi khụyu xuống, tôi nhận thấy có vật gì nặng khác lạ đè trên tay trái, cái gì nằng nặng và ấm mà tôi vẫn mang từ nẫy đến giờ. Đó là cái áo của Pao.
Từ mấy giờ trước - hàng năm - tôi đã lượm nó khi chạy băng mình qua sân và một cách vô thức, tôi đã ghì lấy nó suốt thời gian qua. "Pao", tôi gọi cái tiếng ấy một cách máy móc. Đó chỉ là một cái tên, nó không có nghĩa gì cả. Tôi mệt mỏi quá chừng! Tôi cuộn tròn cái áo làm gối lót và ngả mình trên một cái ghế gỗ dài để ngủ. Lớp dạ ráp cọ vào cằm và tôi sờ mấy cái nút áo cố tưởng ra trong trí hình ảnh đôi mắt Pao, môi chàng, giọng chàng. Nhưng dưới làn mi, mắt tôi chỉ thấy một màn lửa cuồn cuộn ngút cháy che khuất tất cả các kỷ niệm. Tôi khóc rấm rức một hồi, ai oán vì chàng đã đi và vì tôi không thể nào tưởng tượng ra được hình ảnh chàng rõ ràng.
Trong văn phòng rộng, người đi kẻ lại tới lui liên tiếp: những người ngoài phố đến leo lên nóc nhà để nhìn rồi lại xuống. Tôi không ngủ được mà nằm liệt trong một cơn mệt lử, ý thức được thời gian trôi qua và mỗi phút, mỗi giây kéo dài ra như một cơn ác mộng chậm chạp. Tôi nghe thấy người ta nói với nhau: "không tốt - trăng đầy - oanh tạc đêm - các đám cháy sẽ chỉ đường cho máy bay". Bất thần, có thật nhiều người đổ vào phòng và ai cũng la bài hải: "Oanh tạc! Lại có máy bay!" Anh Hai lay tôi.
- Máy bay! Chúng ta xuống hầm thôi.
Nhưng ngay cả sự sợ hãi cũng không còn, tôi từ chối không động đậy.
Căn phòng yên lặng được một lúc. Trống rỗng. Tối om. Khi nghe tin có máy bay người ta đã thổi tắt các ngọn đèn Chiếu yêu. Cơ thể tôi đã ngủ được một lát vào lúc đó. Vào khoảng hai giờ sáng, một nhân viên đánh thức tôi dậy.
- Chúng ta đi thôi. Máy bay Nhật sẽ trở lại đây vào lúc bình minh và lần này chúng sẽ tiêu diệt cả thành phố. Hàng trăm máy bay. Đài phát thanh Đông-Kinh nói thế: họ sẽ dội bom Trùng-Khánh cho đến khi không còn viên gạch nào chồng trên viên gạch nào! Mọi người đều đi.
- Đi đâu?
- Đi về Đại-A-Vũ. Người ta đã bàn cãi và quyết định như vậy.
- Ở dưới hầm đâu có sợ gì, tôi miễn cưỡng trả lời.
- Nhưng họ đã nói là không còn một viên gạch...
Đám nhân viên tập họp cả trong phòng khách. Họ đã thu gói những đồ quý giá thành những bọc nhỏ.
- Anh đã khóa hầm. Dậy và đi thôi, anh Hai nói với tôi.
Nếu mọi người đều đi, tôi không thể ở lại. Tôi đành lượm cái áo của Pao và theo mọi người ra đường. Cửa được cài lại sau lưng chúng tôi.
Nhà ngân hàng đã bị đám nhân viên bỏ rơi. Nếu người gác cửa và hai hay ba người làm ở lại; đó là do tự ý họ. Không ai ra lệnh cho họ cả. Đối với những người có trách nhiệm thì việc chạy trốn bất thường và thiếu tính toán này có vẻ là một sự điên rồ. Sự thật đúng là như vậy, nhưng mọi người đều tin rằng Trùng-Khánh sẽ bị phá tan trước bình minh, không chừa một mái nhà, một mạng người.
Trên trời, ánh trăng, sáng loang lổ một màu ửng đỏ. Tại các ngã tư, chúng tôi nhìn miết các lò lửa hừng hực. Tất cả các khuôn mặt đều quay về một phía để ngắm nghía những ánh lửa đỏ chói với sự kinh hoàng, ghê sợ và mê hoặc. Dòng người chạy trốn đang ngập lên như một con sông được các phụ lưu đổ nước vào. Tiếng rào rào vô tận của bước chân giống như tiếng một trận mưa ở cách xa. Bụi bốc tung lên dưới ánh trăng như một màn sương mù. Hình như tất cả Trùng-Khánh đều chạy trốn.
Chúng tôi đổ ra đại lộ phía trên giòng Dương-Tử. Phía bên trái, vách đá thẳng đứng. Bây giờ chúng tôi có thể nhìn thấy rõ mặt phi trường trắng toát và bóng nhẫy ở phía dưới chúng tôi, với những ánh trăng bạc loang loáng. Bất ngờ, tiếng xì xào của đám đông đổi thành một tiếng la, một tiếng gào kinh hoàng: "Chình Páo", "Máy bay". Cơn điên loạn chụp lấy họ giữa bờ vực và bờ sông hiểm hóc. Mọi người rên rỉ.
"Chình Páo". Họ vứt ba lô, hành lý trên đường. Họ trốn, họ giống như những con vật, như một đàn thú vỡ đàn chạy loạn vì khiếp sợ, không trật tự không thứ tự... Tôi bị kéo bật ra khỏi Anh Hai, và cuộn vào giữa đám lốc toàn người là người, bị xô đẩy, chen lấn, bị cuốn theo những đợt sóng nhấp nhô. Không phải cái tin máy bay làm tôi hoảng sợ mà chính vì sự điên loạn và sự kinh hoàng chung quanh tôi. Đôi giày văng ra khỏi chân. Tôi không dám cúi xuống lượm. Tôi tiếp tục đi tới, chân đất. Lúc này còn tệ hại hơn kỳ ở Quế-Lâm cả ngàn lần - Cơn sợ hãi cao độ hơn và Pao không ở cạnh để nâng đỡ tôi. Tôi la lên:
- Anh Hai! Anh ở đâu?
Nhưng không tìm thấy anh trong đám đông và giữa tiếng ầm ầm. Tôi tiếp tục đi tới. Không thể nào đứng lại. "Chình Páo". Cái tiếng đó làm cho thần kinh chúng tôi căng thẳng. Nếu thực có còi báo hay có tiếng máy bay, chúng tôi cũng khó mà nghe thấy giữa cái đám ầm ĩ nhốn nháo đó. Anh Hai đợi tôi cách đó một cây số, chỗ mà con đường tách khỏi dòng sông, uốn mình về phía các ngọn đồi. Chúng tôi nắm lấy tay nhau và bỏ lộ chính, chạy trên các đường nhỏ trên đồi.
Đến bảy giờ sáng, lúc trời đã sáng hẳn báo hiệu cho một ngày nóng nực sắp đến, chúng tôi tới làng Đại-Á-Vũ. Một nhà bán hàng nước mở cửa và đang đắt hàng như tôm tươi. Toàn thân tôi đều thấy khát. Tôi không nhớ gì ngoài điều tôi đang khát và mệt.
Chúng tôi leo thêm một ngọn đồi và đến được căn trại của nhà ngân hàng. Ngoài các kho hàng ra, trại còn có một căn nhà gạch nhỏ mà người gác dan chiếm một phần. Khi họp lại, chúng tôi đếm vừa đúng mười bốn phụ nữ và ba mươi chín đàn ông, những người khác đã tản mát về nhà họ hay nhà các người quen.
Chỉ có một cái giường trống trong một căn phòng ở trên lầu. Người ta dành căn phòng đó cho đám phụ nữ. Bà vợ người gác dan bưng cho chúng tôi một ít nước nóng. Tôi đợi đến lượt tôi để lau mặt mày với vài giọt nước và nắn bóp hai bàn chân sưng và tím bầm. Rồi chúng tôi lăn ra ngủ: bảy trên giường và đám còn lại nằm một hàng dưới đất. Tôi cuộn lấy cái áo của Pao, vùi mặt tôi trên lớp vải rậm và ngủ như chết trên sàn gỗ cứng ngắc.
Mặt trời rọi những tia nắng xuống thung lũng, trên con đường ngoằn ngoèo giữa các ngọn đồi. Tôi ngồi như cô hồn trên bực thềm ngoài hành lang và nhìn xuống con đường. Hai giờ ngủ đã làm dịu bớt cơn mệt và hơi nóng nung đốt mái ngói đã khiến tôi phải bỏ căn phòng đầy người và ngạt thở. Phía dưới, một chuỗi người trong lớp áo xẩm đang lầm lũi đi trên đường. Chẳng khác chi một cuộc di cư vĩ đại của loài kiến; liên tục, nhất quyết và bất li cục kịch. Trên một nhánh đường dẫn vào đồi, tôi thấy dòng người chẩy miết không ngừng. Nó đó, nó lại hiện ra đúng như hình ảnh mà tôi đã từng thấy, cái đám người tản cư quen thuộc: những người đàn bà dắt díu hay kéo đám trẻ nhỏ lếch thếch theo sau; những bị cùng bọc; những cái đòn gánh, những cái lưng còng xuống dưới sức nặng của gánh đồ.
"Ôi những con đường Trung-Quốc, tôi lẩm bẩm trong lòng, mi không còn gì khác hơn là những đám bụi mù dưới gót chân những kẻ trốn chạy, những kẻ bị săn đuổi, những kẻ yếu hèn, những kẻ khiếp sợ hay sao? Ôi những con đường tàn khốc dưới ánh nắng chói chang!"
Chiếc áo của Pao nằm bên cạnh tôi, trên bực thềm. Tay tôi nhè nhẹ vuốt ve nó một cách vô ý thức. Rồi đột nhiên Pao ở ngay bên tôi - tôi đã thấy chàng thật rõ ràng, tôi nghe giọng chàng nói, tôi thấy đôi môi chàng cử động, Pao lại trở thành một hình ảnh sống động trong trí tôi. "Tú-Anh", tôi nghe thấy chàng gọi! Thế là một cái chớp lóe lên qua đầu óc trì độn của tôi. Cái nỗi lo sợ mơ hồ ám ảnh tôi giờ hiện ra rõ rệt: Pao sẽ biết hết những tin tức này!
Chàng sẽ nghe nói Trùng-Khánh bị dội bom. Chàng sẽ lo sợ thất kinh cho số phận tôi. Tôi cần phải gởi điện tín cho chàng rõ. Chàng sẽ cố gọi điện thoại đến nhà - nhưng làm gì con nhà nữa. Chàng sẽ gọi đến nhà ngân hàng, và chuông sẽ đổ liên hồi trong văn phòng trống rỗng, khóa kín không có ai trả lời. Cần phải báo cho chàng rõ là tôi vẫn yên lành vô sự. Không ai - không có người bạn nào của Pao - biết tôi ở đâu. Nếu không nhận được tin của tôi, chàng sẽ chỉ biết là ngôi nhà đã bị hủy diệt vì nguyên một trái bom, chàng sẽ nghĩ là... chàng sẽ làm một hành động liều lĩnh. Trí óc tôi quay cuồng với những ý tưởng: Pao sẽ bỏ nhiệm vụ ngoài tiền tuyến, bất kể đến kỷ luật, lo sợ tột cùng, chàng sẽ bỏ đi tìm tôi dù có phép hay không, hay có thể, mất hết hy vọng chàng sẽ...
Tôi không chần chừ gì cả. Tôi cần phải quay về Trùng-Khánh, để gửi cho chàng một bức điện tín.
III
ĐIỆN TÍN
Lập tức, tôi đi tìm anh Hai và thấy anh đang thiu ngủ dưới bóng cây, vừa gãi vừa đập muỗi. Tôi báo cho anh biết tôi quay về tỉnh, không đâu có điện thoại, điện tín ở gần đây.
- Nhưng cả Trùng-Khánh đều đang chạy, anh phản đối, hết sức kinh ngạc về cái dự định của tôi. Phòng điện thoại có lẽ cũng đã bị phá hủy. Các đường dây đều đã bị cắt đứt.
- Còn điện báo nữa, tôi trả lời.
- Nhưng cô tính về cách nào? Không có xe đò, cũng chẳng tìm đâu ra được xe kéo. Họ đều đến đây cả.
- Em sẽ đi bộ.
- Ba mươi dặm.
- Có thể đi được.
- Ngân hàng sẽ chẳng có ai. Mọi người đều đã chạy trốn. Trời nắng và trăng lại đầy thế này, máy bay sẽ trở lại hàng trăm chiếc. Chúng sẽ trở lại hết đợt này qua đợt khác suốt đêm đến khi thành phố thành bình địa, tất cả nhà cửa đều tan hoàng và không còn một người sống.
- Em phải gửi một bức điện tín, tôi vẫn bướng bỉnh. Chắc là Pao đã được tin về cuộc oanh tạc rồi. Em cần trấn an anh ấy.
Anh Hai cãi lý với tôi, nài nỉ và sau cùng phát cáu vì sự bướng bỉnh của tôi.
- Ích lợi gì mà báo tin cho Pao biết là cô còn sống trong lúc cô sẽ chết khi đi gửi điện tín cho Pao.
Sau cùng, không thể lay chuyện nổi tôi, anh Hai cho tôi đôi giầy phòng hờ độc nhất của anh - tôi phải cột quanh mắt cá mới đi được - bốn chục quan kim sau khi uống trà và ăn một bát cơm. Mọi người đều nhìn tôi lắc đầu trong khi tôi xuống dốc đồi dưới ánh nắng gắt như thiêu.
Suốt con đường, tôi đã đi ngược dòng người. Không có ai ngoài tôi đi về Trùng-Khánh cả. Trên đường, mọi người nhìn tôi kỳ dị, tôi, kẻ đang trở lại thành phố bị kết án tử với chiếc áo của Pao trên tay. Tôi bắt đầu nghi ngờ và tự hỏi liệu có đúng như lời anh Hai nói, liệu tôi sẽ chỉ thấy một thành phố trống lổng? Tôi hơi sợ, nhưng chỉ vì bướng bỉnh, tôi nhất định không chịu quay lại.
Thành phố hiện ra dưới mắt tôi, trùm dưới màn khói. Tôi tiếp tục đi. Lúc đó là buổi trưa. Càng ngày sức nóng và bụi càng trở nên khủng khiếp! Tôi khát khô cổ. Chẳng bao lâu, đi đến các khu ngoại ô, tôi bắt đầu thấy các đống gạch vụn và tro tàn tại những nơi bom nổ, và bom lửa đã rơi xuống... Tôi vẫn tiếp tục đi. Đến ba giờ trưa, tôi đến trụ sở của Y.W.C.A. (*). Tôi có một cô bạn ở đó. Nơi đây hoàn toàn trống vắng. Cửa mở ra khi tôi vặn nắm cửa. Tôi gọi lớn trong phòng khách, nhưng không ai trả lời.
(*) Nhà trọ dành riêng cho phụ nữ của tổ chức xã hội công giáo.
Tôi đi rảo qua các phòng và tìm thấy ít nước trong cái bình thủy, uống mà chẳng thấy đỡ khát. Trong một phòng tắm, tôi thấy một khạp nước, không uống được vì chưa đun sôi, nhưng tôi chùi hết lớp mồ hôi và bụi bẩn trên mặt. Mặc dù đã lục lạo khắp nơi, tôi chẳng tìm được gì ăn. Khi đi ra, tôi gặp một người giữ cửa ngủ gà ngủ gật và nhăn nhó từ trong phòng hắn bước ra nhìn tôi vẻ nghi ngờ. Tôi hỏi xin nước nhưng hắn chỉ lắc đầu với vẻ rầu rầu và không trả lời.
Tôi lại đi. Tôi đã đi mấy giờ liền. Chiếc áo của Pao trĩu nặng trên tay. Cổ họng tôi như bị xé, đau rát vì khói, tro và bụi. Mắt tôi nhức nhối. Hãy còn các đám cháy. Tôi gặp các toán cấp cứu với miếng vải quàng che trên lớp quân phục, mồm và mũi bịt kín bằng một miếng vải trắng. Tôi bước qua các cột đèn đổ ngổn ngang, dẫm trên dám ngói vỡ, băng qua những đường phố lặng như tờ với các cửa hàng đóng kín mít, các đường phố nguyên lành nhưng vắng hoe và cuối cùng đến nhà ngân hàng, mở cửa vào với chiếc chìa khóa của anh Hai.
Phía trong, không khí mát hơn, lắng động như khí đêm, như trong phòng kín. Căn phòng rộng và trống.
Tôi đi rón rén trên nền đá nhẵn bóng, gần như sợ cả tiếng chân mình. Tôi là người đầu tiên trở lại. Tôi đi lang thang qua các phòng giấy. Trong một phòng tắm riêng, kế cận văn phòng giám đốc mỹ lệ, tôi khám phá ra là còn nước trong các ống dẫn, vòi nước vẫn chảy. Tôi cởi quần áo và tắm rửa sạch sẽ từ đầu tới chân. Tuyệt vời! Từ cái buổi tắm như ăn cướp ở Quế-Lâm tôi chưa từng được nếm qua thứ gì khoan khoái dễ chịu hơn. Tôi rũ bụi trên cái xường sám của tôi. Tôi nhúng đồ lót vào trong chậu, vò, vắt khô và rũ cho đến khi ráo nước và mặc lại. Mặc áo quần và chải tóc xong, tôi thấy người khỏe lại và sẵn sàng để đi làm trọn công việc dự tính của tôi.
Phòng điện tín cách đây hai xóm nhà, chưa bị dội bom và không có cách nào đến sát cửa được vì dẫy người chen chúc nhau xin gửi tin báo cho cha mẹ, họ hàng. Tôi đứng đợi một lát ở ngoài lề của đám đông chen chúc. Phải hàng giờ để thỏa mãn tất cả mọi người. Hoàng hôn đã đổ xuống. Chẳng bao lâu, người ta thượng một cái thông cáo trên cửa sổ: "Hôm nay không nhận điện tín nữa. Ngày mai xin mời đến đường Hùng-Chí-A-Kiều. Phòng rời chỗ".
Thôi cũng đành với số phận.
Thoáng một lát, tôi thấy có một mình trong ánh tối sắc lửa lung linh mờ khói.
Ngoài phố không có đèn, tôi vội vã trở về nhà ngân hàng. Tôi nghĩ đến cơm chiều nhưng chẳng có chỗ nào để mà ăn. Điều đó cũng không quan trọng bao nhiêu vì tôi không đói lắm. Dù vậy bước chân tôi lảo đảo, mệt lả người và không thể đi ngay thẳng được. Ăn cái gì có thể giúp tôi qua cơn chóng mặt được. Đến gần nhà ngân hàng, tôi tưởng là mình mê khi thấy có một ánh đèn mờ sau khung cửa; nhưng khi đi vào tôi thấy người gác cửa và hai người làm đã trở lại.
Tôi đã thấy ngọn đèn Chiếu yêu của họ. Họ đã ăn cả rồi mà không còn gì cả, nhưng họ mang cho tôi một bình trà. Họ trải mền của họ trên sàn nhà. Tôi sờ soạng đi về phía phòng đợi và nằm dài trên ghế dựa dài bọc nệm da. Nó thật rộng, thật êm nhưng lại đầy rệp. Tôi thấy là đã quá muộn để có thể làm gì và quá mệt để có thể đi kiếm một chỗ ngủ khác.
Tôi đắp người bằng chiếc áo của Pao. Nó toàn mùi bụi và thoang thoảng mùi băng phiến nhưng vẫn còn giữ nguyên mùi vị khó tả của Pao. Tôi hít hà như một chú khuyển và thấy dễ chịu. Tôi lấy tay xoa nhẹ làn dạ rậm. Thế cũng gần như vuốt ve Pao và tôi bật khóc tấm tức. Tôi chẳng chạy được món gì ngoài cái áo này. Tôi rất buồn khi nghĩ đến bản chứng thư hôn phối của chúng tôi, đến chiếc đồng hồ mà Pao đã cho tôi, đến cuốn thánh kinh nhỏ có mang tên tôi với ngày cưới của chúng tôi trên trang đầu. Rồi, giữa hai cơn xúc động, tôi tự nhủ là mình thật ngu xuẩn nếu khóc vì bất cứ vật gì, bởi vì tôi còn có cái hạnh phúc tối thượng là còn sống. Tự nhủ thế rồi tôi ngủ thiếp đi.
Đến sáng, cơn đói đánh thức tôi dậy. Hai người làm còn ngủ. Người gác cổng đã đi. Trời hãy còn quá sớm để nhà giây thép mở cửa, nhưng tôi đi bộ ra phố với hy vọng kiếm ra được thứ gì ăn sáng trước khi đi.
Ngoài phố không thấy ai khác ngoài các toán nhân công đang lo dọn dẹp các đống gạch vỡ, không có tiệm nào mở cửa. Tôi trèo qua các đống gạch vụn, tránh né các hố bom và các vũng nước còn đọng lại rải rác, với những xác chuột chết nổi lều bều phía trên.
Trên một đường phố với những căn nhà có rào cản và tối om, tôi bất thần gặp một ông già đang ngồi nơi vỉa hè trước những cái kệ cao, như thể mấy cái kệ bầy đồ ăn của những tiệm ăn rẻ tiền. Ông lão vừa hút một cái tẩu bằng tre nhỏ nhưng rất dài, vừa nhấm nháp nước trà và ăn bánh kô-quế, một thứ bánh lạt nướng, tròn, không có nhân. Phía sau, người ta kê một hai miếng ván và tôi thấy hai người đàn ông trẻ hơn cùng rất nhiều trẻ con và nước trà với bánh. Họ ngồi xuống và bắt đầu ăn. Tôi ngần n