← Quay lại trang sách

-2- LỜI TƯỜNG THUẬT NHỮNG NGƯỜI THỢ SĂN

«Con ơi, sự kết thân giữa hai ta đúng là một định mệnh kỳ lạ. Ta đã xem con như một người văn minh tình nguyện tham dự vào cuộc sống man dã. Con thì xem ta như một người man dã đã bị Thượng đế (Ta không hiểu rõ mục đích) muốn văn minh hóa. Người này và người kia đã bước vào nghiệp dĩ của đời sống, từ hai vị thế đối nghịch nhau, con đã dừng chân ở nơi chốn của ta, còn ta thì đã ngồi ở chỗ của con. Như vậy, chúng ta đã phải có những đối tượng, qua cách nhìn hoàn toàn khác biệt nhau. Ai, con hay ta, đã thâu lượm được nhiều hơn. hoặc đã bị mất mát nhiều hơn trong sự chuyển đổi vị trí này? Đó là điều mà những người thiên tài đã từng hiểu rằng, kẻ dù chỉ có đôi minh triết cũng đã khôn ngoan hơn tất cả những con người tầm thường hội tụ lại.

«Vào tuần trăng sắp tới, của mùa hoa (1), là đã được bảy lần mười cơn mưa tuyết và ba cơn mưa tuyết nửa (2), kể từ khi mẹ ta sinh ta ra đời ở bên bờ giòng sông Meschacebé. Trước đó ít lâu, người Tây Ban Nha đã tới lập nghiệp ở vịnh Pensacola, nhưng vẫn chưa có một người da trắng nào cư ngụ tại Louisiane cả. Ta vừa mới đếm được mười bảy lần lá rụng thi đã phải cùng với cha ta, người chiến sĩ của bộ tộc Outalissi, lên đường chống lại với bộ tộc Muscogulges (3), một bộ tộc hùng mạnh tại miền Florides. Chúng ta kết hợp với người Tây Ban Nha, đồng minh của chúng ta và trận chiến diễn ra tại một giòng nhánh của con sông Maubile (4). Thần Areskoui (5) và chư vị thần linh không tạo điều kiện thuận lợi cho phe ta. Địch quân toàn thắng, cha ta tử trận, trong lúc chiến đấu bảo vệ cho người ta bị thương hai lần. Ôi trời xanh kia ơi! Cớ sao không đem ngay tôi tới xứ sở của linh hồn (6) để tôi tránh khỏi những nỗi bất hạnh đã chờ đón tôi ở trên nẻo thế gian này! Thần linh đã phán quyết khác hẳn: - Ta đã được những người bại tẩu mang tới thị trấn Saint-Augustin (7).

«Ở trong thị trấn, do người Tây Ban Nha mới lập ra đó, ta đã không may bị bắt ép phải đi tới vùng hầm mỏ tại Mexico, đúng vào lúc ấy, một ông già người xứ Castille tên là Lopez đã bị xúc động bởi trạng huống trẻ trung và tình tự hồn nhiên của ta, cho nên đã cung dưỡng cho ta một nơi ẩn trú và giới thiệu ta với cô em gái. Ông đã chung sống với cô em gái đó và không lập gia đình.

«Cả hai đều dành cho ta những tình cảm thật thân ái, trìu mến. Họ nuôi dưỡng ta một cách rất chu đáo, họ cung dưỡng cho ta một nền giáo huấn về tất cả mọi phương diện. Nhưng, sau khi trải qua ba mươi tuần trăng sinh sống tại Saint – Augustin, ta chán ngấy cuộc đời ở thành thị. Ta đã trở nên hao mòn tiều tụy trông thấy: - Có lúc, ta đứng bất động hàng giờ để ngắm nhìn những vòm lá cây rừng ờ mãi phía xa xa. Có lúc, người ta đã thấy ta ngồi tại ven bờ sông, buồn bã ngắm nhìn giòng nước tuôn chảy, để bới tìm những cánh rừng, nơi mà lớp lớp triền sóng đang bị ta trông ngắm, đã băng qua và tâm hồn ta thì hoàn toàn đơn chiếc.

«Không thể trì kháng nổi với tình tự ham muốn được quay trở về miền sa mạc hoang vu, một buổi sáng, ta đã khoác lên người bộ quần áo man dã, một tay cầm cung tên, một tay cầm những loại y phục kiểu Âu châu - tới gặp Lopez - Ta sụp xuống dưới chân con người đại lượng đã từng che chở cho ta vừa khóc như mưa, vừa trao trả tất cả những bộ y phục kiểu Âu châu của ta cho người. Ta đã tự gán cho ta những danh tự khả ố nhất, ta đã tự cáo ta là một kẻ vong ân bội nghĩa: «Nhưng, hỡi người cha của con ơi! Rốt cuộc, cha đã thấy đó, con sẽ bị chết nếu như con không được quay trở về với nếp sống của dân tộc bản xứ».

«Bị ngỡ ngàng, ông già Lopez định xoay chuyển chủ ý của ta. Ông đã trình bày cho ta thấy những nỗi nguy hiểm mà ta sẽ gặp phải, khi ta bị lọt vào tay của bộ tộc Muscogulges một lần nữa. Nhưng, khi ông nhận thấy ý chí quyết tâm bất di bất dịch của ta, thì ông vừa rơi lệ; vừa ôm chặt lấy ta vào trong vòng tay, rồi kêu lớn lên rằng: «Hãy đi đi! Hỡi con người của thiên nhiên! Hãy quay về với nếp sống tự do của nhân loại, vì Lopez này chẳng bao giờ muốn chiếm giữ lấy con cả. Và, nếu như, ta còn trẻ, ta cũng sẽ theo con vào vùng sa mạc (nơi ta đã từng có nhiều kỷ niệm êm đềm)! Ta sẽ trao trả con vào tận vòng tay của mẹ con. Một khi con đã ở trong vùng rừng cây của con, thỉnh thoảng, nếu như con có nghĩ tới tên già người Tây Ban Nha đã từng cung dưỡng cho con một nơi ẩn trú, thì con hãy nhớ đem tình thương yêu, trải mở sang phía những người đồng loại, qua kinh nghiệm tiên khởi mà con phải làm theo tim óc của con người, đó là tất cả sự kính vì của con đã dành cho ta vậy!». Lopez chấm dứt bằng lời khấn nguyện đấng tối cao của những người theo Thiên Chúa giáo, một tôn giáo mà ta đã từng phen chối từ thờ phụng và chúng ta giã biệt nhau qua những cơn thổn thức.

“Sự bội bạc của ta đã bị trừng phạt ngay tức thời. Vì thiếu kinh nghiệm, cho nên ta đã bị lạc lối ở giữa rừng cây và đã bị một toán dân hỗn hợp của hai bộ tộc Muscogulges và Siminoles (8) bắt giữ. Đúng như điều mà Loprz đã tiên đoán. Qua bộ quần áo và những chiếc lông trang sức ở trên đầu, họ lầm tưởng ta là dân Natchẻ. Họ trói ta, nhưng, lõng lẻo, vì lớp tuổi thanh xuân của ta. Simaghan chỉ huy trưởng của đám người này muốn biết tên ta, ta đáp: “Ta tên là Chactas, con trai của Outalissi, con trai của Miscou, người đã từng tước đoạt hơn trăm mái tóc của những vị anh hùng thuộc bộ tộc Muscogulges” Simaehan nói với ta rằng: “Chactas, con trai của Outalissi, con trai của Miscou, hãy vui vẻ đi, anh lên dàn hỏa thiêu tại một ngôi làng lớn”. Ta đáp: “Đó là một điều rất tốt” và ta cất tiếng hát bài ca, ca ngợi cái chết của bô tôc ta.

“Vào những ngày đầu tiên, tất cả tù nhân như ta đều không thế tự ngăn cấm mình, ngắm nhìn kẻ thù của mình được. Bộ tộc Muscogulges và nhất là phe đồng minh của họ là bộ tộc Siminoles hiện đang sống trong trạng huống vui vẻ, mê say, thỏa thích. Dáng dắp của họ nhẹ nhàng, cách đối sử của họ cơi mở thanh thản, họ nói nhiều và nói liên thoắng. Ngôn ngữ của họ thánh thót và dễ nghe. Ngay cả tuổi tác cũng không làm cho các vị kỳ lão mất đi vẽ hồn nhiên vui vẻ. Giống như những con chim già nua, sinh sống ở trong rừng cây của chúng ta, vẫn còn đang cất cao tiếng hót cằn cỗi, hòa theo với những tiếng hót tươi trẻ của bầy chim non hậu duệ.

“Đám phụ nữ đi theo với đoàn chiến sĩ, đã tỏ ý thương hại trìu mến và hiếu kỳ nhã nhặn, đối với lớp tuổi thanh xuân của ta. Họ hỏi thăm về người mẹ của ta, về những ngày đầu đời của ta. Họ muốn tìm hiểu xem rằng người ta có treo chiếc nôi nệm rêu của ta lên trên những cành cây phong đầy hoa nở hay không. Rằng, những cơn gió nhẹ hiu hiu có đẩy đưa chiếc nôi của ta nằm ở kề bên tổ của lũ chim non hay không. Tiếp đó, là cả ngàn câu hỏi về tình trạng của con tim ta: - Họ hỏi rằng, ta có thấy một con nai trắng ở trong những cơn mộng mị của ta hay không. Và rằng, những đám cây ở trong vùng thung lũng thầm kín có khuyên bảo ta về tình thương yêu hay không. Ta đã đáp lời các bà mẹ, các cô gái và các người vợ của bọn đàn ông một cách thật ngây dại. Ta nói với họ rằng: “ - Các người là những ân sủng của ngày dài và màn đêm đã yêu thương các người như đám sương khuya. Nhân loại đã sinh ra từ trong lòng của các người để rồi đong đưa ở trên vú, và ở trên miệng các người. Các ngưừi đã hiểu biết hằng hà sa số những lời ảo mị có thế làm nguôi dịu mọi nỗi thương đau. Đó là những lời mà tôi nói về người đã sinh tôi ra đời. Người thường nói với tôi rằng, những trinh nữ, chính là những đóa hoa huyền bí mà người ta đã tìm thấy trong miền heo hút, cô liêu!”

“Những lời tán dương này, đã gây được nhiều tình tự vui thỏa đối với giới nữ. Thế là, ta đã được họ cung dưỡng cho đầy đủ mọi thứ tặng phẩm. Họ mang tới cho ta loại kem dừa, loại đường của cây phong, bánh bột ngô, thịt đùi gấu, da hải ly, những loại vỏ sò, vỏ hến để trang sức cho ta và những loại nệm rêu để cho ta nằm. Họ hát, họ cười với ta để rồi họ nức nở nghẹn ngào sa lệ khi nghĩ tới lúc ta sẽ bị hỏa thiêu.

“Một bữa tối, khi toán người Muscogulges cắm trại ở bên bìa một rừng cây, trong lúc ta đang ngồi gần cạnh đống lửa chiến với những tay thợ săn được giao nhiệm vụ canh giữ ta. Bất thình lình, ta nghe thấy tiếng sột soạt của áo quần va chạm vào lá cỏ và một người nữ nửa kín nửa hở tiến đến ngồi xuống ở phía bên cạnh ta. Những giọt lệ lăn đổ trên hàng mi của nàng. Trong ánh lửa chập chờn, chiếc tượng hình chuộc tội (hình đức Chúa Ki Tô chịu đóng đinh trên thập tự giá) bằng vàng óng ánh, ở trong lồng ngực nàng. Sắc đẹp của nàng vào mức trung bình, nhưng qua nét mặt nàng, ta khó thể phân biệt nổi đâu là đức độ, và đâu là vẻ đa cảm, do đó dáng dấp của nàng đã có một từ lực, khiến ta không thể chống cự nổi. Với các điều kiện trên, kết hợp với vẻ ưu nhã thật đáng mến tạo cho con người nàng có một sức nhạy cảm tuyệt mức, cộng thêm với sầu muộn trầm tư, toát ra, qua cái nhìn, qua nụ cười đầy thiên tính của nàng.

“Ta ngỡ rằng, đó là, cô gái trinh nữ dành cho những mối tình cuối, cô gái trinh nữ mà người ta đã gởi cho các tù nhân chiến tranh, giúp họ được vui vẻ vào lúc sắp gần đất xa trời. Trong tình trạng ngỡ ngàng, bối rối này, ta ấp úng nói với nàng, qua vẻ hốt hoảng, bất an, song le, tình tự đó, không phải phát xuất từ sự hãi sợ chiếc dàn hỏa thiêu mà ra: “- Hỡi nàng trinh nữ ơi! Nàng thật xứng đáng với những mối tình đầu và nàng không phải đã được sinh ra để dành cho những mối tình cuối. Những chuyển vận của một con tim sắp sửa ngưng đập sẻ trả đáp một cách sai lạc đối với những chuyển vận của con tim ở trong người nàng. Làm thế nào để có thể hòa trộn cái sống với cái chết cho được? Nàng sẽ chỉ làm cho ta thêm nuối tiếc ngày dài. Một người khác sẽ là kẻ hạnh phúc hơn ta và sẽ có biết bao nhiêu những ấp ủ, quấn quít, đã từng kết hợp dây leo với cây sồi.

“Cô gái lập tức nói với ta rằng: “ - Tôi không phải là người trinh nữ của những mối tình cuối. Anh có phải là tín đồ Thiên Chúa giáo, hay không?”. Ta đáp, ta không muốn phản bội chư vị thần linh ở mái tranh nghèo của ta. Qua những lời lẽ đó cô gái bản xứ phát họa ra một cử chỉ bất như ý. Nàng nói với ta rằng: “ - Tôi ái ngại cho anh vì anh không phải là con người ưa thích tàn độc. Mẹ tôi là một tín đồ Thiên Chúa giáo, tôi tên là Atala, con gái của Simaghan, nhân vật đeo chuổi hạt vàng chỉ huy trưởng toán chiến sĩ này, chúng tôi đang quay trở về Apalachucla, nơi anh sẽ bị thiêu sống.” Trong lúc nói những lời này Atala đứng dậy và rời ra xa”.

Tới đây, Chactas trở nên gượng gạo, tự ngưng nghĩ câu truyện lại. Những kỷ niệm xa xưa dồn nén dẫy đầy ở trong tâm hồn ông ta. Cặp mắt ông ta nhòa nhạt đi bởi những giòng nước mắt đang chứa chan, ngập đầy đôi má nhăn nheo, cằn cỗi: - Giống như hai nguồn suối đang được ẩn giấu trong mãi đáy tầng thăm thẳm của lòng đất đã tiết tỏa ra bởi chính những giòng nước, mà nó mặc nhiên thấm hút qua những khe đá.

“Con của ta ơi! Cuối cùng, ông nói tiếp, con thấy rằng Chactas mới kém minh triết biết mấy, mặc dù, hắn ta đã được nổi tiếng là kẻ khôn ngoan. Hỡi ơi! Con yêu dấu của ta ơi, con người không thể thấy xa hơn nữa, vì thế, con người vẫn còn phải than khóc hoài! Khá nhiều ngày trôi qua, cô con gái của viên tù trưởng đã đến nói chuyện với ta mỗi tối. Cơn say ngủ đã rời bỏ đôi mắt ta và Atala đã ngự trị ở trong tim óc ta chẳng khác chi kỷ niệm về nơi chôn rau cắt rốn của cha ông ta vậy.

“Đến ngày thứ mười bảy của chuyến đi, vào thời gian mà loài phù du rời khỏi những giòng nước, chúng ta tiến tới vùng đồng cỏ vĩ đại Alachua. Một vùng đồng cỏ bao gồm những dãy đồi trùng trùng điệp điệp, đồi nọ tiếp nối đồi kia, chứa chất, hàng hàng lớp lớp rừng cây sơn, cây chanh, cây mộc lan và cây sồi, vươn cao lên tận những đợt mây xanh. Viên chỉ huy trưởng thốt ra một tiếng kêu, báo hiệu “đã tới” và đoàn người dừng lại, cắm trại ở dưới chân những ngọn đồi. Họ giam giữ ta tại một khoảng cách khá xa bên cạnh những chiếc giếng nước, từng đã nổi tiếng trong miền Florides. Ta bị trói vào gốc một thân cây lớn. Người chiến sĩ có phận sự canh giữ ta tỏ vẻ bồn chồn, nóng nẩy. Ta vừa mới trải qua một khoảng thời gian ở tại địa điểm này, Atala đã xuất hiện dưới những tàng cây tô-hợp-hương kế cận giòng suối.

“Hỡi người thợ săn, nàng nói với vị anh hùng của bộ tộc Muscogulges, nếu như anh muốn đi đuổi loài mang, thì ta sẽ canh gác tù nhân giúp cho anh”. Người chiến sĩ đã nhảy chổm lên một cách sung sướng qua lời đề nghị của cô con gái viên tù trường. Thế rồi, anh ta phóng mình lên đỉnh ngọn đồi và bước dài về phía dải bình nguyên bát ngát.

“Lạ lùng thay, tình tự mâu thuẫn của trái tim nhân loại. Trong lòng ta thì thật là thèm muốn được nói với con người mà ta thương quý như mặt trời, những điều bí ẩn từng gói kín ở tâm khảm, thế nhưng giờ đây ta lại bối rối, ngượng ngùng, ta tin rằng ta thích bị ném ngay vào miệng lũ cá sấu tại nơi suối nước, còn hơn là phải đứng một mình với nàng trong tình trạng như vậy. Cô gái vùng sa mạc cũng bị choáng ngợp như tên tù nhân của cô. Cả hai người chúng ta cùng giữ vẻ trầm lặng. Thần ái tình đã tước đoạt hết những lời nói của chúng ta. Cuối cùng, Atala tạo được một cố gắng, nàng nói: “ - Này hỡi người chiến sĩ, anh hiện đang bị cầm giữ thật lỏng lẻo, anh có thể trốn thoát khá dễ dàng”. Với những lời lẽ đó, tình tự bạo dạn đã quay trở về với ta, ta đáp: “ - Bị cầm giữ lỏng lẻo, ôi, nàng...!”. Ta chưa biết phải chấm dứt câu đó ra sao. Atala ngập ngừng một lát, rồi nói tiếp: “ - Anh hãy mau mau tẫu thoát đi!”. Và nàng tháo gỡ ta khỏi thân cây, Ta vơ lấy chiếc dây thừng trao vào trong lòng bàn tay của người con gái thuộc bộ tộc xa lạ ấy, ép buộc cô ta dùng những ngón tay nõn nà trói cột ta lại: “Hãy trói tôi lại! Hãy trói tôi lại!”, ta kêu lên. “- Anh là một kẻ dại dột. Atala nói bằng một giọng cảm động, khốn thay, anh đã không hiểu rằng anh sẽ bị hỏa thiêu? Anh còn hy vọng điều gì nữa đây? Anh nên nghĩ rằng tôi chính là con gái của một viên tù trường đáng sợ?”. “- Có một thời gian, ta đáp lại lời nàng trong tình trạng mắt lệ chứa chan, tôi cũng đã được nằm ở trong mảnh da hải ly, đeo trên vai người mẹ. Cha tôi cũng đã từng có một căn lều đẹp đẽ và một bầy dê thường tới uống những giòng nước của vạn ngàn nguồn suối. Nhưng giờ đây tôi đang lang thang như một kẻ vô tổ quốc. Mai đây,khi tôi không còn nữa, tôi sẽ chẳng có một người bạn nào tìm tới phủ đắp vài mớ cỏ lên thân xác của tôi để che chở cho tấm thân tàn, trước bầy ruồi nhặng. Thân xác của một kẻ bất hạnh xa lạ sẽ chẳng còn được một ai lưu ý tới nữa!”.

“Những lời lẽ ấy đã làm cho Atala thương cảm, đau xót. Nước mắt nàng rơi lã chã như suối thác.” - A, ta hăng hái tiếp nối, nếu như tim của nàng đồng thanh với tim của tôi! Thì, sa mạc kia chẳng phải là một vùng tự do đó sao? Rừng rậm trùng trùng điệp điệp kia chẳng phải là một vùng ẩn trú kín đáo bí mật của chúng ta đó sao? Phải làm cách nào để tạo được hạnh phúc như biết bao nhiêu sự vật đối với trẻ thơ ở trong các ngôi lều cỏ! Hỡi cô gái đẹp xinh giống như giấc mơ đầu đời chồng vợ! Hỡi người tình yêu dấu của tôi ơi! nàng có dám theo sát bước chân của tôi hay không?”. Khi ta vừa dứt lời. Atala đã đáp lại bằng một thanh âm êm dịu: “- Hỡi người bạn trẻ của tôi ơi! Anh đã học được cách ăn nói của giòng người da trắng, những câu nói dễ bề dối gạt một thiếu nữ địa phương.” “ -Sao, ta kêu lớn lên, nàng gọi tôi là người bạn trẻ hả, chao ôi! sung sướng thay cho một tên nô lệ khốn khổ...”. “ - Vậy hả! Nàng cúi về phía ta và nói, tên nô lệ khốn khổ...”. “Ta hăng hái nói, vậy thì, hãy ban cho tôi một nụ hôn để tôi được vững tin thêm nơi tình nàng”. Atala đáp ứng lời cầu xin của ta. Thế là, giống như một chú nai con đang đeo dính ở trên những đóa hoa bìm bìm hồng tươi, những đóa hoa đong đưa ở trên sườn núi đang bị nó ngậm giữ bởi chiếc lưỡi tinh tế, ta cũng đã đeo dính lên đôi môi của người tình mà ta yêu dấu.

“Hỡi ôi, con thân mến của ta ơi! Nỗi thương đau thường luôn kèm sát với niềm vui thỏa “Có ai tin được rằng vào lúc mà Atala vừa cung dưỡng cho ta sự đoan chắc về mối tình đầu của nàng, thì chính nàng lại là người đã hủy diệt ngay tất cả niềm hy vọng của ta? Hỡi tên già tóc trắng Chactas hỡi, ngươi đã ngạc nhiên biết là chừng nào, khi mà cô con gái viên tù trưởng đã thốt ra những lời lẽ đó.” - Hỡi người tù nhân đẹp mã, em đã sẵn sàng nhượng bộ trước ham muốn của anh, nhưng mối đam mê này sẽ đưa dẫn chúng ta tới đâu? Tôn giáo của em sẽ luôn luôn là một duyên cớ tách biệt em và anh... Ôi mẹ ơi! Phải làm sao, hỡi người? Nói tới đây, bất thình linh, nàng đã tự chế và nín nhịn lại, ta không hiểu vì sao cái định mệnh bí ẩn ấy đã suýt nữa thì vượt thoát ra khỏi cặp môi của nàng”. Những lời lẽ của nàng đã dìm ta vào trong một tình trạng tuyệt vọng - Thế thì, ta kêu lên, tôi cũng sẽ tàn độc như nàng. Tôi không trốn chạy đâu. Nàng sẽ trông thấy tôi ở trong khung lửa đỏ. Nàng sẽ nghe rõ từng tiếng da thịt của tôi, cháy sèo sèo, và nàng sẽ được vui thỏa?” Atala nắm chặt hai bàn tay của ta ở trong lòng hai bàn tay của nàng. “- Hỡi thần tượng trẻ trung khốn khổ của em ơi! nàng kêu lên, anh đã làm cho em thương tâm quá mức rồi! Anh còn muốn làm cho em phải khóc hết nước mắt nữa sao? Thật đáng tiếc nếu như em không thể bỏ trốn cùng với anh! Sự bất hạnh đã đeo đuổi ngươi từ lúc ngươi còn trong bụng mẹ, ôi, Atala ơi! Vì sao ngươi không ném mình ngay vào miệng lũ cá sấu tại nơi suối nước cho rồi!”.

“Cũng đúng vào lúc ấy, mặt trời sắp ngả về Tây, những tiếng kêu của loài cá sấu khởi sự vang vọng tới. Atala nói với ta rằng: “ - Chúng mình hãy rời khỏi nơi đây cho mau!”. Ta liền dẫn cô con gái của Simaghan xuống phía chân đồi, nơi đã được hình thành như những chiếc vịnh màu xanh lục kéo dài triền đồi vào mạn đồng cỏ. Cảnh trí của miền sa mạc thật là bình lặng và hùng tráng. Bầy cò kêu la ở trên khu tổ ấm. Rừng cây vang âm, tiếng hót đơn điệu của loài cun cút, tiếng rít của lũ vẹt cái, tiếng gầm rống của đám bò rừng và những tiếng hí của bầy ngựa cái hoang dã.

“Chuyến du hành của chúng ta hầu như câm lặng. Ta đi ở bên cạnh Atala, nàng cầm một đầu sợi dây thừng do ta nài ép nàng nắm giữ. Một vài lần, chúng ta khóc lóc nhỏ lệ, một vài lần chúng ta đã gắng gượng tươi cười. Mắt lúc thì nhìn lên bầu trời, lúc thì nhìn xuống mặt đất. Tai chăm, chú lắng nghe tiếng chim hót ca. Chuyển vận thì hướng thắng về phía mặt trời lặn. Tay chặt trong tay, ngực lần lượt phập phồng, lần lượt binh ổn. Những danh tự Chactas và Atala đã được dịu dàng, nhắc đi nhắc lại cách khoảng đều đặn.. Ôi, chuyến du hành đầu tiên của cuộc đời tình ái! Phải chăng, kỷ niệm về ngươi đã quá mãnh liệt, đến nỗi, sau biết bao nhiêu năm dài bất hạnh, ngươi vẫn còn khuấy động ở trong tâm não của tên già Chactas.

«Kỳ lạ thay, những con người bị dấy động bởi nỗi đam mê! Ta đã buông bỏ ông già đại lượng Lopez, ta đã tự dẫn thân vào mọi nỗi hiểm nghèo để dành lấy tự do,- thế nhưng chỉ trong một khoảng khắc cái nhìn của một người đàn bà đã làm thay đổi hết ý chí của ta, quyết định của ta, suy tư của ta. Ta đã quên hết cả xứ sở của ta, mẹ ta, căn lều của ta và cái chết tàn khốc đang chờ chực ta. Ta đã thờ ơ lãnh đạm với những gì, không phải là Atala. Không còn một sức mạnh nào có thể nâng ta lên tới tầm mức suy luận của thế hệ người lớn, thình lình, ta đã bị rớt ngược về tình trạng ấu thơ và không còn thi hành nổi một hành động nào hầu tránh né khỏi nỗi thương đau đang ngóng đợi ta, dường như ta đã đòi hỏi thiên hạ lo lắng cả tới giấc ngủ của ta và miếng ăn của ta nữa.

Vậy là cuộc trốn chạy trở thành hoài công vô ích, vì sau khi chúng ta đi được một đoạn đường ở trong vùng đồng cỏ, thì một lần nữa Atala lại quỳ phục xuống dưới đầu gối của ta, nài nỉ ta hãy rời bỏ nàng. Ta đã quyết liệt cho nàng biết rằng, ta sẽ độc hành trở về khu trại của bộ tộc nàng, nếu như nàng từ chối không chịu trói ta vào gốc cây như cũ. Nàng bắt buộc phải thỏa mãn yêu sách của ta, với hi vọng là sẽ thuyết phục được ta vào một lần khác.

«Sau ngày hôm đó là ngày mà mệnh số của đời ta sẽ được định đoạt, đoàn người dừng lại ở trong một thung lũng, không xa thị trấn Cuscowilla (9), thủ đô của bộ tộc Siminoles. Bộ tộc bản xứ này kết hợp với bộ tộc Creeks. Cô gái xứ thốt nốt đã tìm đến bên bà ta vào lúc nửa đêm. Nàng dẫn ta tới một vùng rừng thông bát ngát và lại khẩn nài ta hãy dấn thân vào cuộc trốn chạy. Không trả đáp lời nàng, ta nắm chặt bàn tay nàng trong tay ta và ép buộc cô gái khát tình nhẹ dạ đó thả bước lang thang ở bên trong rừng cây ướp đầy hương vị của loại thông, pha thoang thoảng mùi hổ phách, bốc ra từ hơi thở của bầy cá sầu nằm rải rác bên dưới những rặng me mọc sát ven sông. Vầng trăng lóng lánh ở giữa nền trời xanh không gợn một chút vẩn đục, ánh sáng màu ngọc trai sàm sạm của chị hằng tỏa chiếu xuống những chòm ngọn bất ổn định nơi rừng cây. Người ta không nghe thấy được một tiếng gì khác, ngoài hòa âm thăm thẳm đang ngự trị ở trong rừng sâu, một thứ tiếng mà ta không hiểu nổi là loại tiếng gì: - Người ta bảo đó là tiếng của linh hồn tịch mịch ở khắp sa mạc hoang vu đang thở than.

«Chúng ta đă trông thấy thấp thoáng qua rặng cây một người tuối trẻ tay cầm bó đuốc, giống hệt như vị thần linh của mùa xuân, đang băng trải qua những khu rừng để làm cho tạo vật thêm phần sinh động. Đó chính là một tình nhân đang chạy đi tra vấn phần số định mệnh tại nơi căn lều của người yêu.

«Nếu như, nàng trinh nữ thổi tắt ngay ngọn đuốc sáng tức là nàng đã chuẩn nhận những lời thỉnh cầu dâng hiến. Nếu như, nàng chỉ làm oằn cong ngọn lửa, không chịu dập tắt, có nghĩa là nàng đã chối từ một người chồng.

«Trong lúc lướt mình giữa bóng đêm, người chiến sĩ cất giọng nữa vời, ngâm nga lời lẽ sau đây:

«- Ta sẽ đưa những bước chân ngày dài lên các chóp đỉnh núi cao để kiếm tìm nàng Bồ Cầu Trắng (10) đơn côi của ta ở giữa đám cây sồi trong rừng già.

«Ta đã ràng buộc lên cổ nàng một chiếc vòng Sa cừ, tại đó, có ba nhân hạt đỏ dành cho tình yêu của ta, có ba nhân hạt tím dành cho nổi lo lắng của ta, có ba nhân hạt xanh lơ dành cho mối hi vọng của ta.

«Mila (11) có cặp mắt của một con chồn trắng, có mái tóc nhẹ nhàng của một đồng lúa. Miệng nàng là một vò sa cừ hồng tươi, trang trí bởi những viên ngọc trai. Đôi vú giống như hai con dê non không đốm vết, được sinh ra cùng một ngày, bởi cùng một bà mẹ.

«Có thể rằng, Mila sẽ dập tắt cây đuốc này! Có thế là, miệng nàng sẽ rót đổ xuống đó, một vùng bóng tối đấy khoái hoạt! Ta sẽ làm cho vú của nàng nảy nở phong phú thêm lên. Hi vọng của tổ quốc quê hương sẽ đeo ở trên đôi vú dồi dào sinh lực của nàng và ta sẽ ngậm hút ống điêu hoa giải ở phía trên chiếc nôi của con ta.

«A, hãy để mặc cho ta đưa những bước chân ngày dài lên các chóp đỉnh núi cao hầu kiếm tìm nàng Bồ câu trắng đơn côi của ta ở giữa đám cây sồi trong rừng già!»

«Cứ như vậy giọng hát của chàng trai trẻ đã có những âm điệu đưa đẩy tình tự xáo động tới tận đáy tầng tâm khảm của ta và đã làm cho vẻ mặt của Atala biến đổi hẵn đi. Tay nàng và tay ta cùng run rẩy trong nhau. Nhưng chúng ta đã lãng quên ngay cảnh tượng đó, bởi một cánh tượng không kém phần nguy hiếm đối với chúng ta.

«Chúng ta đi ngang qua gần bên phần mộ một đứa trẻ được dùng làm ranh giới của hai sắc tộc. Người ta đã chôn cất nó ở bên lề đường, theo tục lệ, để cho các phụ nữ trẻ trung trong lúc tiến ra phía suối nước có thể thu nhận vào lòng dạ của họ linh hồn ngây thơ trong trắng của đứa nhỏ, để rồi, sẽ đem nó trở lại với tổ quốc quê hương. Trong lúc ấy, người ta nhìn thay ở nơi này những cặp vợ chồng mới cưới đang ao ước hương vị ngọt ngào của cuộc đời phụ mẫu, đã tới kiếm tìm, bằng cách hé mở đôi môi của họ ra, hầu tiếp nhận lấy linh hồn của chú nhỏ, mà họ đã tin rằng linh hồn ấy đang lang thang bay nhẩy ở trên những đóa hoa. Sau đó, người mẹ chính thức của chú bé đã tới, đặt một chiếc mầm ngô và những đóa hoa huệ lên nấm mộ. Bà ta dùng sữa của bà tưới lên mặt đất rồi ngồi xuống thảm cỏ ấm ướt và kể lể với đứa con của bà bằng một giọng thảm thiết:

«Hỡi đứa con sơ sinh của ta ơi! tại sao, ta lại phải khóc con ở trong tấm nôi bằng đất này? Khi con chim nhỏ đã lớn khôn, nó sẽ đi kiếm lấy mồi ăn và nó sẽ tìm được khá nhiều trái hạt đắng cay ở trong miền sa mạc. Ít ra con chưa từng biết tới những đóa hoa thơm. Ít ra trái tim của con chưa hề bị trưng bầy ra trước làn hơi thở vồ vập, ngấu nghiến của loài người. Nụ hoa đã tàn héo ngay ở trong màng bọc và mang theo tất cả hương thơm của nó, nào có khác chi con, hỡi con của ta ơi! Con đã mang theo tất cả tình tự ngây thơ của con. Sung sướng thay những kẻ được chết ngay khi còn ở trong nôi vì những kẻ ấy chỉ biết được những nụ hôn và những nụ cười của người mẹ hiền.

«Đã bị chế ngự bởi chính con tim của chúng ta, cho nên chúng ta rã rời, ủ dột qua những hình ảnh về tình yêu đương và tình mẫu tử, những hỉnh ảnh ấy, dường như, đã theo đuổi, đã quấn quít vào cái đêm đắm đuối đơn côi đó. Ta đã ôm vác Atala vào tận rừng thẵm bằng đôi cánh tay của ta và đã nói với nàng những điều mà giờ đây ta vô phương thốt ra khỏi đôi môi của ta được. Con thân mến của ta ơi! Cơn gió nồm nam đã mất hết sức nóng khi vượt ngang qua những đỉnh núi băng tuyết. Những kỷ niệm về tình yêu trong con tim của một người già nua cằn cỗi giống như ánh sáng của ngày dài đã phản dội lại bởi vầng trăng êm dịu, vào lúc mà vầng dương đã lẩn khuất và tình tự câm lặng đã dàn trải lên trên những căn lều của giống dân man dã.

«Ai có thế cứu nổi Atala? Ai có thể ngăn chở cho nàng khỏi bị khuất phục trước hoá công? Còn cái gì khác, ngoài phép lạ, chính thế, phép lạ ấy đã hiện lên! Cô gái con của Simaghan đã cầu cứu tới Thượng đế của các tín đồ Thiên chúa giáo. Nàng vội vã quỳ xuống đất, và thốt ra một lời kinh cầu nguyện thành khẩn, hướng về mẹ nàng và về đức Thánh mẫu đồng trinh. Này René ơi! Chính vào thời gian ấy, ta đã cảm nhận được một ý niệm kỳ diệu về tôn giáo này, một thứ tôn giáo đã có thể đong đầy cả vạn ngàn tặng vật dành cho những kẻ bất hạnh ở ngay trong các khu rừng thẳm, ở ngay giữa mọi thiếu thốn của cuộc sống. Một thứ tôn giáo duy nhất khả dĩ có thể tranh thắng vào trường hợp phải đương đầu với sức mạnh của những cơn dục tình như thác lũ, ngay lúc mà những cơn dục tính đó có đầy đủ ưu thế: nào là sự bí ẩn của rừng cây, nào là sự thiếu vắng con người, nào là tình tự khả tín của bóng đêm. Chao ôi! đôi với ta lúc ấy, nàng cỏ vẻ dạng một linh thần, người thiếu nữ mộc mạc, man dã đó, cô bé Atala ngây thơ, dại dột đó, đã quỳ gối trước một cây thông đổ ngã, coi đó như là vị thế ở dưới chân một bàn thờ để hiến dâng lên đức Thượng đế của nàng những lời thỉnh nguyện dành cho người tình thần tượng! Đôi mắt nàng ngước nhìn lên phía vầng trăng, đôi má nàng lóng lánh bởi những giọt lệ của lòng tín mộ và của tình yêu thương thật đúng là một vẻ đẹp bất tử đời đời. Nhiều lần ta ngỡ rằng đã trông thấy trong ánh sáng của trăng khuya, đã nghe thấy ở giữa vòm lá cành chư vị thần linh do Thượng đế của những tín đồ Thiên chúa giáo đã gửi xuống vùng đá tảng hẻo lánh vào lúc mà Ngài định triệu hồi nàng trở về. Vì vậy ta đã lo âu, vì e ngại rằng nàng chỉ còn rất ít thời gian lưu ngụ ở trên trái đất này.

«Trong lúc ấy, nàng tuôn đổ biết bao nhiêu giòng lệ thảm, trông nàng thật là khốn khổ làm sao! Khiến cho ngay chính ta cũng đã có ý định chấp nhận cả sự việc rời xa nàng, khi mà, tiếng kêu của tử thần đã cất tiếng lên vang dội khắp rừng khuya. Bốn người đàn ông, vũ khí trong tay, hối hả tiến về phía ta: «Việc trốn chạy của chúng ta đã bị phát giác, người chỉ huy cuộc chiến đã ra lệnh đuổi theo chúng ta.»

«Atala, chẳng khác chi một vì vương hậu, qua dáng điệu ngạo nghễ của nàng, nàng khinh khỉnh không thèm nói một lời với toán chiến sĩ, nàng chỉ ném một cái nhìn uy nghiêm về phía họ, rồi cất bước tiến đến bên cạnh Simaghan.

«Nàng không làm gì khác được. Người ta đã gia tăng gấp đôi số người canh gác ta. Người ta đã lấy thêm dây để trói buộc ta. Người ta đã phân rẽ ta xa cách hẳn người tình. Năm đêm trôi qua và chúng ta đã nhìn thấy làng Apalachucla (12), nằm ở kế bên bờ sông Chata Uche (13). Lập tức, họ choàng kín người ta bằng những vòng hoa, họ sơn mặt ta thành mầu xanh da trời và mầu son đỏ thẳm, họ đeo ngọc trai lên mũi, lên tay ta và họ đưa cho ta một chiếc chichikoué (14)»

«Được trang điểm thành vật hiến sinn, như vậy, ta tiến vào làng, giữa những tiếng hò reo vang dậy của đám người. Thế là, mệnh số của đời ta đã đến lúc được định đoạt khi mà tiếng tù và thình lình vang vọng tới và đó chính là hiệu lệnh triệu tập họp của Mico, nhân vật lãnh đạo quốc gia.

«Chiếc lều dùng làm nghị trường đã được dựng ở trên một gò đất không cách làng Apalachucla bao xa. Ba vòng cột kiến trúc thật thanh nhã đã hình thành chiếc viên đình này. Những chiếc cột lều được làm bằng loại gỗ trắc bá đã được bào nhẵn và chạm trổ tinh vi. Những chiếc cột lần lượt gia tăng thêm tầm mức cao dầy và lần hồi bị giảm thiểu về mức độ số lượng, căn cứ theo khoảng cách đã được trồng lên ở gần kế trung tâm của căn lều, nơi có một chiếc cột khác thường nổi bật hơn cả. Ở nơi đầu chiếc cột trụ này đã phát khởi ra những giải vỏ cây, những giải này chuyển từ đỉnh cột nọ sang đỉnh cột kia, chùm phủ quanh ngôi lều, tạo thành một tấm màn che ánh sáng của ngày dài.

«Hội đồng đã quy tụ đầy đủ.Năm mươi vị kỳ lão khoác áo da hải ly ngồi theo vị trí cấp bậc, mặt quay về phía cửa lều. Nhân vât lãnh đạo quốc gia ngồi ở giữa hàng kỳ lão, tay cầm một chiếc ống điếu hòa giải (15), phân nửa ống điếu nhuộm mầu chiến. Bên phải năm mươi vị kỳ lão là năm mươi bà mệnh phụ phu nhân, ăn vận áo dài làm bằng lông chim thiên nga. Những viên chỉ huy trưởng chiến binh tay cầm rìu, đầu đội chùm lông dài, hai cánh tay và ngực sơn mầu máu, ngồi ở bên trái.

«Phía dưới chân chiếc cột trụ tại trung tâm ngôi lều, nhóm một đống lửa nghị trường. Người thuật sĩ thứ nhất, trong số tám người phụ trách giữ đền thờ, mặc quần áo dài trên đầu đội một con chim cú nhồi rơm, đang rót hương dược cô-pam-mờ vào ngọn lửa, rồi, dâng hiến một lễ cúng lên thái dương thần. Ba hàng người gồm những vị kỳ lão, những vị mệnh phụ, những viên chỉ huy trưởng chiến binh cộng với các tư tế, các đám khói hương liệu nghi ngút hành sử cúng lễ, đều nhằm tạo cho quang cảnh hội nghị thêm phần oai nghiêm.

«Ta đã bị trói đứng ở giữa nghị trường. Cuộc hành lễ chắm dứt, Mico lên tiếng trình bầy một cách đơn giản, lý do mà ông ta đã phải triệu tập hội đồng. Ông ta ném một chuỗi hạt xanh xuống mặt sàn phòng hội để minh chứng cho những gì ông nói.

«Thế là một vị kỳ lão thuộc bộ tộc Phượng Hoàng, đứng dậy và nói như sau:

«Thưa cha già Mico, thưa quí vị kỳ lão, quí vị mệnh phụ, quí vị chỉ huy các chiến binh của bốn sắc tộc Phượng Hoàng, Hải ly, rắn và rùa. Theo tôi, chúng ta không nên thay đổi phong tục tập quán của tổ tiên chúng ta, chúng ta phải hỏa thiêu tù nhân và chúng ta không thể mềm lòng kiên cường của chúng ta. Một tập tục của dân da trắng do họ đề đạt ra với chúng ta chỉ có thể là một mối nguy hại cho chúng ta mà thôi. Vậy mong quý vị hãy dành cho tôi một chuỗi hạt mầu đỏ về nội dung những lời lẽ của tôi. Tôi đã nói hết»

«Và ông ta ném một chuỗi hạt mầu đỏ xuống mặt sàn phòng hội.

«Một bà mệnh phụ đứng dậy, nói:

«Thưa cha già giòng Phượng Hoàng, ngài đã có trí khôn của một con cáo và một sự thận trọng trì trễ của một con rùa. Tôi muốn làm sáng tỏ thêm sợi dây thân hữu với ngài, để chúng ta sẽ cùng nhau vun trồng cho cây Hòa Bình. Nhưng, chúng ta hãy nên thay đổi một vài tập tục của cha ông chúng ta, những tập tục xét đã gây nên cảnh tang tóc thê lương. Chúng ta sẽ có thêm những tên nô lệ để cầy vỡ ruộng đồng của chúng ta và chúng ta sẽ không còn phải nghe thấy những tiếng kêu của những tên tù nhân, những tiếng kêu đã làm cho các bà mẹ xúc động tới tận đáy tầng tâm khảm. Tôi đã nói hết.»

«Chẳng khác chi, người ta đã nhìn thấy những đợt sóng của biển cả bị bể vỡ trong một cơn giông tố. Chẳng khác chi những chiếc lá vàng khô của mùa thu đã bị những cơn lốc cuốn mãi lên cao. Chẳng khác chi những cây sậy bên sông Meschachehé đã bị gập mình lại và ruỗi cao lên trong một cơn nước lũ bất ngờ. Chẳng khác chi một bầy nai cất tiếng kêu ở trong đáy rừng thẳm - Hội nghị đã rầm rì, đã sôi nổi, như vậy - Các vị kỳ lão, các viên chỉ huy trưởng chiến binh, các vị mệnh phụ, đã lần lượt nói hoặc đã đồng thanh nói. Những cảm xúc va chạm, chống đối nhau, những ý kiến cách biệt, phân rẽ nhau, do đó, hội nghị đã phải giải tán, nhưng, cuối cùng, phương thức cổ xưa được đem áp dụng, và ta bị tuyên xử, lên dàn hỏa thiêu.

«Một trường hợp đặc biệt đã làm trì hoãn ngày thọ hình của ta. Đó là dịp lễ cầu hồn hay là dịp làm cỗ cúng vong linh đã tới. Theo tập tục, người ta không hạ sát những người bị bắt giữ trong thời gian hành lễ. Họ giao phó ta vào tay các nhân vật nổi tiếng là những người canh gác nghiêm mật nhất và chắc chắn, các vị kỳ lão đã quyết định đưa cô gái con của Simaghan đi thật xa, cho nên ta không trông thấy nàng một lần nào nữa.

«Trong khi đó, các sắc dân ở trong phạm vi hơn ba trăm dặm vuông đang lũ lượt kéo nhau tới tham dự lễ cầu hồn. Người ta đã xây dựng những căn lều dài dằng dặt

ở trên một vùng thắng cảnh hẻo lánh. Vào ngày đã định; mỗi gia đình đều khai quật các di hài của ông cha họ từ những khu phần mộ riêng biệt đem những bộ xương khô về treo ở trên các bức vách trong căn phòng cộng đồng của tổ tiên theo thứ tự và theo tông tộc. Gió (thường là một cơn bão đã nổi lên); rừng; thác thi nhau gầm thét ở phía bên ngoài trong khi các vị bô lão; đại diện các sắc tộc khác nhau; đã cùng ký kết một bản hiệp ước hòa bình và liên kết trước những đám xương khô của ông cha họ.

«Người ta tán dương những trò chơi đầy vẻ nghi thức thi đua bắn đạn, đánh bóng; ném những đồ vật làm bằng xương. Hai cô trinh nữ tìm bẻ một chiếc gậy liễu, Những núm vú của họ giáp sát vào nhau; tay họ múa lượn ở trên cây gậy do họ nâng lên khỏi đầu. Đôi chân đẹp đẽ, trần trụi của họ quyện lại với nhau, miệng của họ chạm vào nhau, những làn hơi thở dịu dàng của họ hòa trộn với nhau, họ cúi đầu xuống, khiến cho hai mái tóc lẫn lộn vào nhau. Họ nhìn các bà mẹ của họ và mặt họ ửng đỏ lên:

Thế là người ta vỗ tay hoan hô khen ngợi. Giới thuật sĩ đã có dịp kể lại câu chuyện về cuộc chiến giữa Thỏ lớn chống lại ác thần Matchimanitou. Anh ta thuật rằng: người đàn ông đầu tiên và Atahensic, người đàn bà đầu tiên, vì quá vội vã rời bỏ thiên đình, vì thế, đã bị mất hết tình tự chất phát, hiến lành, khiến cho trái đất đã đỏ ngầu lên vì máu của huynh đệ anh em. Jouskeka bất hiếu, vô đạo đã sát hại Tahouistsaron chính trực, công minh. Cơn hồng thủy đã hạ xuống nhờ lệnh truyền của đấng tối linh thần, một mình Massou đã sống sót ở bên trong chiếc thuyền vỏ cây và loài quạ được sai xuống để khám phá ra trái đất. Anh ta còn nói rằng: người đẹp Anclaé, người đã thoát ra khỏi khu vực âm ty, nhờ tiếng hát du dương, êm ái của chồng nàng.

«Sau khi tham dự những trò chơi và lắng nghe những bản thánh ca đó, người ta liền bắt tay chuẩn bị một chuyến mai táng tập thể và vĩnh cửu cho các bậc tiên nhân đã quá cố.

«Ở ven bờ sông Chata-Uche, ngươi ta trông thấy một cây đa trơ trọi, đơn độc, nơi đã được công chúng tôn thờ kính ngưỡng. Những cô trinh nữ thường hằng tới đó để giặt giũ những chiếc áo dài bằng vỏ cây và phơi những chiếc áo ấy ở trên những cành nhánh của cây đa cổ thụ trước các đợt gió của vùng sa mạc hoang vu. Chính tại đây, người ta đã đào một phần mộ thật là vĩ đại. Người ta khởi hành từ đầu căn phòng tang tóc, thê lương, vừa đi vừa hát những bài bi ca dành cho những người đã chết. Mỗi một cá nhân trong gia đình đã mang theo một phần di thê thiêng liêng. Người ta tiến tới khu mộ phần, người ta mang di cốt xuống dưới hố, người ta xếp đặt di cốt thành từng lớp, người ta phân cách di cốt này với di cốt khác bằng những mảnh da gấu hay da hải ly, thế rồi, ụ đất của phần mộ tập thể nổi cao dần lên và người ta đã trồng lên nấm đất vĩ đại đó loại cây đổ lệ và an giấc.

«Con thân yêu của ta ơi, thật la đáng hận thay cho con người! Vì, cũng với những người bản xứ đã từng tham dự những tập tục nặng tình cảm xúc ấy, cũng là những người phụ nữ đã từng phen chứng tỏ rất mực quan hoài tới ta và rất mực trìu mến ta, thì giờ đây họ đã đòi hỏi phải đem ta ra xử khổ hình, qua những tiếng la lối ầm ỹ. Và toàn thể các sắc tộc đó đã chậm rải bước chân để có dịp khoan khoái chiêm ngưỡng một thanh niên trai tráng đang bị khổ đau bởi những nỗi dầy vò khủng khiếp.

«Trong một khu vực thung lũng ở cách phía Bắc ngôi làng vài đoạn đường, nơi có một cánh rừng trắc bá diệp và tùng bách, được gọi tên là: rừng máu. Tại nơi này người ta đã tìm thấy một ngôi điện đài đổ nát, một ngôi điện đài mà người ta không biết rõ gốc gác và cho tới bây giờ nguồn cội của dân tộc đã tạo tác ra ngôi điện đài ấy vẫn còn chưa được biết rõ. Ở giữa khoảng rừng cây có một khu phạm trường dùng làm nơi hành tội các tù nhân chiến tranh. Người ta đã vui vẻ, hăm hở dẫn ta tới đó. Tất cả mọi hành động đều nhằm vào việc chuấn bị cho cái chết của ta: Người ta đã trồng cây cột tượng trưng thần chiến tranh: Areskoui. Nhữns cây thông, những cây xích dương, những cây trắc bá, lần lượt bị đốn ngã bởi những nhát rìu. Dàn hỏa thiêu đã được dựng lên. Các khán giả đã tự tạo ra những chiếc rạp bằng cành cây và thân cây. Mỗi người lại còn sáng tác ra một loại khổ hình: Người này thì đề nghị nên lột da đầu ta, người khác thì đề nghị dùng chiếc rìu đỏ hơ lửa đốt cháy cặp mắt của ta. Ta, thì khởi sự cất tiếng hát, bài hát ca ngợi cái chết của ta.

«Ta không hề mảy may hãi sợ những nỗi băn khoăn, phiền muộn: Ta là một người dũng cám, hỡi này sắc tộc Muscogulges, ta thách đố các người đó! Ta còn khinh ghét những người phụ nữ của sắc tộc các người hơn nữa. Cha ta là Outalissi, con trai của Miscou, đã từng uống nước ở trong sọ của những chiến sĩ nổi tiếng thuộc sắc tộc của các người, các người không tước đoạt nổi một hơi thở của ta đâu!».

«Bị khích động bởi bài hát của ta, một chiến sĩ đã bắn một mũi tên xuyên thủng cánh tay ta. Ta nói:«Này bạn, ta cám ơn bạn!».

«Mặc dù, các tay đao phủ thủ đã hoạt động thật hăng hái, công việc chuấn bị cho cuộc khổ hình vẫn chưa thể hoàn tất kịp, trước lúc mặt trời lặn. Người ta liền hỏi ý kiến của giới thuật sĩ, thành phần này bảo rằng, không nên làm xáo trộn chư vị dạ thần, vì thế, cái chết của ta được dời tới ngày hôm sau. Nhưng, trong tình trạng bồn chồn, nóng nẩy vì muốn được vui hưởng cảnh trí hỏa thiêu, cũng như muốn được hiện diện sớm sủa tại chỗ, ngay vào lúc trời vừa rạng đông, đám dân bản xứ đã không có một ai rời khỏi khu rừng máu, họ nhóm lên một đống lửa lớn, và khai mào những bữa tiệc và những vũ điệu.

«Trong khi ấy, người ta đặt ta nằm ngửa mặt lên trời. Những chiếc dây trói đã phát xuất từ nơi cổ ta, từ nơi chân ta, từ nơi cánh tay ta chuyển đi và cột buộc vào những chiếc cọc cắm sâu xuống mặt đất. Các chiến sĩ canh gác nằm la liệt trên những sợi dây này. Như vậy, ta không thể làm nổi một cử động nào mà không chuyển động tới họ. Đêm về khuya: Những tiếng hát và những vũ điệu ngưng đọng và tắt lịm dần dần. Những đống lửa chỉ còn tỏa chiếu ra một loại ánh sáng màu đỏ và ở trước cảnh trí đó người ta chỉ còn thấy đôi ba người dân man dã đi đi lại lại. Toàn thể mọi người đều đã say ngủ. Lần lần, những tiếng động của loài người đã yếu ớt hẳn lại, trong khi, những tiếng động của vùng sa mạc gia tăng thêm lên, để rồi, các tiếng nói năng ồn ào, náo nhiệt, đã nhường hẳn cho những lời than oán của hơi gió trong các khu rừng cây.

«Đó cũng chính là lúc mà một cô gái trẻ người bản xứ đã trở thành mẹ, vừa sực tỉnh bất ngờ giữ canh khuya, bởi vì nàng ta ngỡ rằng, đã nghe thấy tiếng kêu của đứa con đầu lòng, đang đòi hỏi nàng cung dưỡng cho nó một bữa ăn lành mạnh. Đôi mắt dán chặt về phía trời cao, nơi mà vầng trăng đang lang thang băng trải, ở giữa những giải mây, ta nghĩ đến phần số của ta. Atala đã hiện lên, trước ta, như một quái vật bạc bẽo, vô tình. Nàng đã bỏ ta giữa lúc ta thọ cực hình, riêng ta thì ta đã cam nhận hiến mình cho ngọn lửa đỏ, hơn là phải xa cách nàng! Tuy nhiên, ta vẫn cảm thấy ta luôn luôn thương yêu nàng và ta sẵn sàng được chết với niềm vui thỏa vì nàng.

«Trong cơn tột cùng của niềm vui, thì một mũi gai nhỏ bé cũng đã khiến cho chúng ta phải tỉnh thức ngay, chẳng khác chi nó đã thông báo cho chúng ta để chúng ta có dịp khai thác, lợi dụng những giây phút phù du, mau chóng đó. Nhưng trong tình trạng đau thương mãnh liệt thì ngược lại ta không hiểu vì sao nó đã ru chúng ta vào một giấc ngủ nặng nề. Đôi mắt mệt mỏi vì lệ đổ thường chỉ tìm về với vị thế khép chặt; dường như đấng thượng đế chí tôn đã có từ tâm lưu ý tới những hoàn cảnh bất hạnh, không may; vì thế, mặc dù không muốn, nhưng ta vẫn bị khuất phục bởi một giấc ngủ mê mệt, mà thỉnh thoảng những người gập bước cùng khốn đã từng được thưởng thức. Ta mơ thấy người ta cởi mở xiềng xích cho ta, ta có cảm tưởng như vừa nhận được một tình tự khuây khỏa giống như trường hợp mà người ta đã cảm thấy vào lúc đang được một bàn tay cứu trợ tháo gỡ mọi thứ xích xiềng sau một thời gian bị ghì trói chặt chẽ.

«Cảm giác đó, mỗi lúc một thêm linh động, đến nỗi đã khiến cho ta phải nhướng mở cặp lông mày lên. Trong ánh mờ mờ, của một phiến sáng từ mặt trăng xuyên thoát qua hai đám mây, ta thoáng thấy một gương mặt trắng mịn màng đang cúi về phía ta và nhẹ nhàng tháo gỡ những đầu mối dây trói buộc thân thể ta. Ta sắp sửa thốt ra một tiếng kêu thì một bàn tay, mà ngay lúc ấy ta chưa biết rõ là bàn tay của ai đã kịp thời bịt chặt miệng ta lại. Chỉ còn có mỗi một sợi dây ràng buộc duy nhất, nhưng, có lẽ, đó cũng là sợi dây khó cắt, nếu như, không làm đụng chạm tới người chiến sĩ có thân mình nằm gọn gàng ở trên sợi dây. Atala cầm sợi dây vào lòng bàn tay, làm cho người chiến sĩ sực tỉnh giấc nồng, trong tình trạng nửa thức nửa ngủ, anh ta vùng đứng dậy, ngay tại chỗ. Atala giữ y nguyên tình trạng bất động và nhìn về phía anh ta. Anh chàng trai bản xứ ngỡ là mình đang gặp một vị linh thần của những vùng tàn tích đổ nát, cho nên, anh ta vội vã nằm ngay xuống, nhắm chặt mắt lại và khẩn cầu các vị linh thần của anh ta. Sợi dây trói bị cắt đứt. Ta đứng vùng dậy. Ta bước theo cô gái vừa giải nạn cho ta đang cầm một đầu cây cung và chìa một đầu cây cung về phía ta. Nhưng, còn biết bao nhiêu nỗi hiễm nghèo, đang vây bọc quanh chúng ta! Có lúc, chúng ta suýt nửa thì vắp phải những con người man dã nằm say ngủ la liệt ở khắp nơi. Có lúc, một nhân vật canh gác đã lên tiếng hỏi chúng ta, Atala đã phải đáp lại bằng cách thay đổi giọng nói của nàng. Những đứa trẻ bất chợt đã thốt ra các tiếng kêu la. Những con chó ngao sủa cắn inh ỏi. Ngay khi chúng ta vừa vượt thoát khỏi vùng đất rủi ro, bất hạnh, thì hàng hàng lớp lớp những tiếng hò hét, tru tréo, đã dâng trào lên làm rung chuyển khắp cả khu rừng khuya. Toàn trại đã thức tỉnh, hàng ngàn đốm lửa được nhóm lên. Người ta nhìn thấy, từng toán dân man dã, tay cầm đuốc, chạy tứ tán về các ngã đường. Chúng ta vội vã cất bước trốn lánh.

«Khi ánh bình minh ló dạng, tại miền Apalaches (16) thì chúng ta đã ở khá xa. Thật là một cảnh đại hạnh phúc đối với ta, khi mà ta lại được sống một lần nữa trong tình trạng cô quạnh, vắng vẻ với Atala, với một nàng Atala vừa giải phóng cho ta, với một nàng Atala đã tự hiến dâng cho ta mãi mãi!

Lời lẽ đã thiếu vắng ở nơi miệng lưỡi của ta, ta quì gối xuống và nói với cô gái con của Simaghan rằng: «Đàn ông vốn dĩ không có một vật gì cả, vì thế mỗi khi chư vị linh thần tới thăm viếng họ tất nhiên họ chẳng là gì hết. Em chính là một vị thần linh, em đã tới thăm viếng tôi và tôi đã không thể nói nổi một lời ở trước mặt em. Atala mỉm cười đưa tay về phía ta: «Chắc hẳn là, nàng nói, em sẽ phải đi theo anh vì anh đã không muốn trốn chạy, một khi không có em đi theo. Đêm qua, em đã dùng đến nhiều quà tặng để dụ hoặc tên thuật sĩ, em đã dùng rượu mạnh để làm cho các tên đao phủ thủ say sưa và em đã liều mạng sống của em cho anh, bởi chưng, chính anh đã hi sinh mạng sống của anh cho em. Đúng vậy, thần tượng trẻ trung của em ơi, nàng tiếp bằng một giọng nhấn mạnh, một giọng làm cho ta hãi sợ, sự hy sinh sẽ có đi có lại».

«Atala trao lại cho ta những thứ vũ khí mà nàng đã cẩn thận mang theo, cuối cùng nàng băng bó vết thương cho ta. Nàng chùi vết thương bằng một chiếc lá đu đủ đã được nàng thấm ướt bằng chính những giọt nước mắt của nằng. «Đó là một nguồn an ủi, mà em đã lan trải lên vết thương của tôi, ta nói với nàng» - «Thực ra. em đã e ngại rằng, đó là một mũi tên độc», nàng đáp và xé một mảnh vải áo che ngực ra dùng làm vải ép, trước khi lấy một lọn tóc của nàng cột chặt lại.

«Đám người man dã đã bị say sưa khá lâu và đối với họ thì tình trạng đó giống

như một căn bệnh và chắc chắn là căn bệnh đó đã ngăn cản họ theo đuổi chúng ta suốt trong những ngày đầu. Nếu như sau đó họ có săn lùng chúng ta thì có lẽ họ sẽ đi về phía mặt trời lặn vì tin rằng chúng ta sẽ cố gắng tiến tới sông Meschacebé. Nhưng thật ra chúng ta đang cất bước trên con đường đi về hướng ngôi sao bất động (17), bằng cách dựa theo loài rêu bám ở trên các thân cây để điều hướng.

«Vì nhận thấy rằng ta có rất ít hi vọng chạy thoát khỏi, cho nên, chúng ta không dám trì hoãn, trễ nải. Giờ đây, sa mạc đang trải giải ở phía trước mặc chúng ta, những cảnh tình cô liêu tịch mịch, man mác, bao la. Bởi thiếu kinh nghiệm sống ở trong rừng cho nên chúng ta đã bị luẩn quẩn ở trên chính con đường, mà chúng ta đi và đã cất bước một cách phiêu lưu vô định, như vậy không biết là chúng ta sẽ tiến tới đâu? Thường thường, khi nhìn Atala, ta đã gợi nhớ đến câu truyện cổ tích về nàng Agar (18) do Lopez đã từng đọc cho ta nghe vào lúc nhân vật này tiến vào vùng sa mạc Bersabée trong thời đại xa xưa khi loài người đã sống lâu bằng ba đợt tuối của cây sồi.

«Atala đan cho ta một chiếc áo khoác bằng lớp vỏ thứ hai của cây tần bì, vì lúc đó ta hầu như đã trần truồng. Nàng còn dùng lông nhím khâu cho ta một chiếc giầy bằng da chuột xạ. Về phần ta, ta lo chăm sóc tới những món trang sức của nàng. Có lúc, ta đặt lên đầu nàng một vòng hoa cẩm quì màu tím xanh do ta tìm hái ở dọc đường chúng ta đi và ở trong các nghĩa trang bỏ hoang của thổ dân. Có lúc, ta đã làm cho nàng những sâu chuỗi bằng loại hạt đổ quyên đỏ thắm, để rồi ta mỉm cười, chiêm ngưỡng sắc đẹp kỳ diệu của nàng.

«Khi chúng ta gặp một giòng sông chúng ta đã vượt qua bằng một chiếc bè hoặc bằng tài bơi lội. Atala vịn một tay lên vai ta và giống như cặp thiên nga trên đường du hành, chúng ta cùng nhau băng qua những lượn sóng cô tịch.

«Thường thường giữ sức nóng nung người của ngày dài, chúng ta đã tìm một chỗ ẩn trú ở bên dưới những đám rêu của cây bách hương. Hầu như, tất cả các loại cây ở Florides, đặc biệt là, cây bách hương và cây sồi xanh đều đã bị che phủ bởi một loại rêu màu trắng toát, chạy dài từ cành nhánh tới sát tận đất. Về đêm, dưới ánh sáng trăng, khi con có dịp nhìn thấy ở trong vùng đồng cỏ mộc mạc không bị cảnh vật gì che đậy - một cây dẻ xanh đơn độc - bao phủ bởi lớp rêu trắng toát thì con có thể ngỡ là con đã nhìn thấy - một loại ma cỏ kéo theo ở phía sau lưng nó, một chiếc màn mỏng dài dằng dặc - Về ban ngày, cảnh trí đó cũng không kém phần đặc sắc, nhờ vào từng bầy bươm bướm sặc sỡ, từng bầy ruồi óng ả, từng bầy chim sâu, chim vẹt mái màu xanh lục, từng bầy sáo sậu màu xanh da trời bay tới đậu ở trên những cành nhánh đầy rêu, nom giống như một bức thảm len trắng đã được người thợ tại Âu châu thêu lên trên đó những hình ảnh sâu bọ, chim chóc, màu sắc lộng lẫy.

«Chúng ta đã dừng chân ngơi nghỉ ở bên dưới vùng bóng mát, của những lữ quán đẹp mắt do Thượng đế an bài ra. Mỗi khi có những cơn gió từ phía trời cao buông xuống lắc đầy cây bách hương vĩ đại và làm cho chiếc lâu đài không gian xây dựng ở trên những cành nhánh bị đong đưa, lay chuyển cùng với bầy chim chóc và những du khách say ngủ ở dưới vùng bóng mát, thì lúc ấy, từ những giẫy hành lang và từ những khuôn cửa tò vò của chiếc lâu đài di động đã pnát xuất ra ngàn vạn tiếng thở dài. Và những cảnh diệu kỳ thuộc về một thế giới cổ kính xa xưa ấy bao giờ cũng gắn liền vào với loại điện đài của vùng sa mạc hoang sơ này.

«Chiều chiều, chúng ta nhóm một đống lửa lớn và tạo dựng một căn lều tạm thời cho cuộc lữ hành bằng những mảnh vỏ cây đặt lên phía trên bốn chiếc cọc. Nếu như, ta đã hạ được một chị gà mái, một chú chim gầm ghì, hay một con trĩ rừng thì chúng ta sâu những con vật ấy vào một chiếc que dài rồi cắm xuống đất và cho ngọn gió xoay chuyển con mồi của người thợ săn treo lủng lẳng ở phía trước ngọn lửa của đống củi sồi cháy đỏ rực. Chúng ta đã ăn những loại rêu được gọi là ruột đá, những loại vỏ ngọt của cây phong, những trái táo tháng năm có hương vị vừa giống trái đào, vừa giống trái phúc bồn tử. Cây hồ đào đen, cây phong, cây thù du, đã cung dưỡng cho chúng ta loại rượu uống. Thỉnh thoảng, ta đi lùng kiếm ở giữa đám lau sậy một thứ hoa dài hình loa kèn chứa đựng một thứ sương tinh khiết trong như thủy tinh. Chúng ta tạ ơn Thượng đế vì Ngài đã