- 3 - NHỮNG NGƯỜI NÔNG PHU.
« Có những sự công chính, đã giúp cho lương tâm yên ổn mà người ra sẽ không thể sáp gần lại được, một khi người ta đã không hòa nhập vào tình tự bình hòa do những sự kiện tiết tỏa ra từ con tim và từ ngôn ngữ của những sự kiện đó. Dõi theo lời lẽ của vị ẩn tu, ta cảm thấy mọi dục vọng ở trong lòng ta giảm lần lần xuống và ngay đến cả cơn giông tố ở trong vòm trời dường như cũng bị tiếng nói của ông già đẩy lui ra phía xa xa. Những đám mây tức thời bị phân tán bớt đi, nhờ vậy chúng ta đã có thể rời khỏi nơi ẩn lánh. Ra khỏi khu rừng cây, chúng ta leo lên mặt hậu của một ngọn núi cao. Con chó chạy trước, mõm ngậm theo cây gậy, một đầu gậy treo cây đèn tắt ngấm. Ta ôm giữ Atala ở trong vòng tay, tiến theo sau ông già ẩn tu. Ông vừa đi vừa quay lại để ngắm nghía, chiêm ngưỡng tình tự bất hạnh và lớp tuổi măng tơ của chúng ta với vẻ thương hại. Một cuốn sách đeo lủng lẳng ở trên cổ, thân mình tựa lên chiếc gậy màu trắng, tầm vóc ông già cao lênh khênh, gương mặt xanh sao, gầy guộc, dạng nét bình dị, thành thật. Ông không có vẻ trơ trơ, ngơ ngác của những nhân vật vô dục vọng bẩm sinh. Người ta có thể nhận thấy rằng cuộc sống của ông ta đã từng trải qua những sự khốn khổ và nếp nhăn ở trên trán ông nói lên những dấu vết đẹp của những dục vọng xa xưa, hiện đã được hàn gắn lại bởi đức hạnh và bởi tình thương yêu của Thượng Đế và của Nhân Loại. Khi ông đứng ngay ngắn, bất động để nói chuyện với chúng ta, bộ râu dài thậm thượt, cặp mắt khiêm nhượng của ông, luôn luôn hướng xuôi về phía mặt đất. Âm điệu tiếng nói của ông đầy vẻ thân thiết, tất cả con người của ông đã tiết tỏa ra một vẻ bình thản, tao nhã. Bất kỳ ai, kể cả ta, nếu như được thấy linh mục Aubry tiến bước một mình với cây gậy, với cuốn kinh nhật tụng, ở trong vùng sa mạc, thì đều sẽ nghĩ rằng đó chính là một vị hành gỉả của đạo Thiên Chúa giáo tại cõi trần hoàn này».
« Sau một chuyến đi đầy gian hiểm, vào khoảng nửa giờ trên con đường núi, chúng ta đặt chân tới phạm vi hang động của nhà truyền giáo. Chúng ta vượt qua những đám dây bìm bìm và dây bầu bí dại, ướt sũng, bởi những giòng nước tuôn xối xuống vùng đá tảng, để bước vào bên trong hang. Tại nơi đây, chỉ có một chiếc chiếu, làm bằng lá đu đủ, một chiếc bầu múc nước, vài chiếc vại, bình bằng gỗ, một chiếc mai, một chiếc sáo hình rắn gia dụng (1), và, một tảng đá dùng làm bàn, một hình thánh giá, cùng các loại kinh sách của giới Thiên chúa giáo.
« Ông già cựu chủ nhân vội vã lấy dây leo khô, nhóm lửa lên. Ông tán nhỏ những hạt ngô bằng hai mảnh đá, làm một chiếc bánh và nướng chín trong đống than lửa. Khi chiếc bánh bắt lửa, chín vàng, thật là đẹp mắt. Ông già dọn bữa ăn cho chúng ta, gồm chiếc bánh nóng hổi, với loại sữa dừa, đựng trong một chiếc bình gỗ cây phong. Chiều về, mang lại vẻ thanh tịnh, người nô bộc của Chúa, đã đề nghị chúng ta ra ngồi ở bên ngoài cửa hang. Chúng ta đã theo ông tới địa điểm đó, nơi mà tầm mắt có thể nhìn thấy toàn thể cảnh vật bao quát. Trận bão còn để sót lại, ở hướng trời đông, một cảnh trạng bừa bộn, những ngọn lửa của đám cháy, do sấm sét nhóm lên, ở các khu rừng cây, hiện vẫn còn đang tiếp tục chiếu sáng ở phía xa xa. Dưới chân núi, một rừng cây thông đã gục đổ gần hết xuống vùng sình lầy. Giòng sông cuồn cuộn cuốn trôi hỗn độn, những thế chất nhão nhoẹt, những thân cây, những cơ thể súc vật, những con cá chết, phơi bụng trắng xóa như màu bạc trên mặt nước.
«Giữa cảnh trạng đó, Alala đã thuật lại cho ông già thần linh của núi cao rõ biết về thân phận của chúng ta. Dường như, con tim của ông ta đã bị xúc động mạnh mẽ, vì thế, hàng ngàn giọt lệ đã tuôn rơi xuống bộ râu của ông: «Con của ta ơi, ông nói với Atala, hãy dâng hiến nỗi thương đau của chúng con lên Thượng Đế để làm vinh danh Người, Người đã đem lại cho các con biết bao nhiêu sư việc, Người sẽ giúp cho các con được an tĩnh. Con hãy nhìn xem, các rừng câv nghi ngút khói tỏa, các giòng thác khô cạn nước, các đám mây tan loãng, Có thể tin được là nhân vật có thể làm tan dịu một trận giông tố như vậy, lại không thể làm giảm bớt nổi những rối động của con tim nhân loại hay sao? Nếu như các con không có một nơi trú ẩn nào khá hơn, thì con gái thân mến của ta ơi, ta sẽ cũng hiến cho các con một chỗ ở giữa đám con chiên mà ta đã hân hạnh kêu gọi họ tới nép mình dưới chân chúa Jesus Christ, Ta sẽ khai sáng cho Chactas và sẽ trao lại cho con một người chồng khi mà hắn ta đã xứng đáng là một con người ».
«Qua những lời lẽ đó, ta vừa sụp quỳ xuống dưới gối vị ẩn tu đơn độc, vừa đổ lệ vui thỏa, nhưng Atala thì sạm mặt lại giống như một xác chết. Ông già nâns ta dậy, bằng một cử chỉ nhu hòa, chính lúc ấy ta nhận ra rằng cả hai bàn tay ông ta đều đã bị hư hoại. Atala đã hiểu ngay lập tức nỗi bất hạnh này. « Quân dã man, tàn độc! ». nàng kêu lên.
«Con gái của ta ơi, vị linh mục già mỉm cười hiền hòa đáp, sự kiện này đâu có thể đem so sánh được với nỗi nhẫn nhục ở nơi vị thấy cao cả của ta? Nếu như, những người bản xứ đáng mến đã làm cho ta bị đau khổ, thì đó chỉ là những kẻ mù quáng, mà rồi đây Thượng Đế sẽ soi sáng cho họ. Riêng ta, ta càng yêu quí họ hơn, so với những sự đớn đau mà họ đã gây nên cho ta. Ta Không thể lưu lại nơi quê hương xứ sở của ta, nơi mà ta đã quay về, và cũng là nơi mà một vị nữ hoàng danh tiếng lẫy lừng đã hân hạnh đón tiếp ta để chiêm ngường những chứng tích, chẳng đáng kể gì trong sứ mạng tông đồ của ta. Nhưng còn tưởng thưởng nào xứng đáng vinh dự hơn, mà ta đã có thể tiếp nhận được từ những việc làm của ta, đó là ta đã được vị lãnh đạo tôn giáo chuẩn y cho ta được hành lễ dâng hiến lên sự sả thân của Đức Chúa trời, bằng đôi tay tật nguyền này? Sau những hân hạnh như vậy, ta không muốn làm hoen ố những gì đã khiến cho ta trở thành xứng đáng: Ta trở lại vùng Tân Thế Giới để sử dụng nốt chuỗi ngày tàn vào việc phụng sự cho Chúa. Ba mươi năm qua, ta sống đơn độc như vậy và ngày mai đây là vừa tròn hai mươi hai năm, ta đã làm sở hữu chủ vùng đá tảng nay. Khi ra mới đặt chân tới đây, ta chỉ gặp toàn những gia đình lang bạt, với những phong tục tập quán tàn độc và một nếp sống nghèo quẫn. Ta đã dìu dắt họ noi theo ý niệm hiền hòa, nhờ vậy phong tục của họ đã lần lần dịu nhẹ đi Giờ đây, họ đã qui tụ ở dưới chân núi. Ta hết sức cố gắng, chỉ bảo họ những cách thức hành lễ cứu rỗi, dậy dỗ họ những nghệ thuật sống, nhưng không đưa họ vượt quá xa, mà chỉ kèm giữ cho những con người lương thiện đó sống trong nếp sống bình dị, mộc mạc, vừa đủ tạo được hạnh phúc cho họ. Riêng về phần ta, vì e ngại rằng sự hiện diện của ta sẽ làm cho họ khó chịu, do đó, ta lui về ẩn cư tại hang động này, nơi mà họ thường lui tới để tham khảo, để han hỏi ta. Chính tại khu vực khuất xa loài người như vậy và trong quang cảnh tịch mịch mênh mông, vĩ đại như vậy, ta lại càng khâm phục Thượng Đế và đã đang chuẩn bị cho cái chết, do lớp tuổi già nua loan truyền đến ta.»
« Nói dứt lời, ông già cô độc sụp quì gối xuống, thế là chúng ta cũng lập tức bắt chước theo ông. Ông khởi sự, cất cao giọng, đọc một bài kinh cầu nguyện, Atala lập lại lời ông. Những làn chớp lặng câm, vẫn tiếp tục lóe sáng ở phía nền trời phương Đông và ở phía nền trời phương Tây, ba vùng mặt trời cùng đua nhau rọi chiếu (2). Một vài con cáo lạc lõng, bởi cơn giông tố, đang vươn dài những chiếc mõm đen ngòm bên những hố sâu thăm thẳm, đồng thời người ta đã nghe thấy lớp lớp tiếng rên rỉ của cây cối khô nẻ bởi cơn gió chiều và đang giơ những thân cành gẫy đổ ở khắp đó đây!
«Chúng ta quay vào trong hang, nơi ông già ẩn tu đã trải một chiếc giường bằng loại rêu của cây trắc bá dành cho Atala, Một tình tự uể oải trầm trọng hiện lên trên đôi mắt và trong những cứ chỉ của người trinh nữ ấy, Nàng nhìn cha Aubry, như có ý muốn giãi bầy một điều bí ẩn, nhưng một vài sự kiện nào đó đã chận giữ nàng lại, hoặc là do sự hiện diện của ta, hoặc là vì một vài tình tự hổ thẹn, hoặc là đã biết rằng có thú nhận cũng vô ích. Ta đã thấy nàng chỗi dậy vào lúc nửa đêm để đi tìm ông già cô độc, nhưng dường như, sau khi chuẩn bị xong giường nằm cho nàng, ông ta đã leo lên phía đỉnh núi để chiêm ngưỡng trời cao và khấn nguyện Thượng Đế. Hôm sau, ông đã cho ta biết rằng, đó là một thông lệ của ông, bởi vậy, dù là trong mùa đông tiết giá, ông vẫn ưa thích lên đó để ngắm nhìn cảnh rừng cây đu đưa, những chóp đỉnh trơ trụi, cảnh mây trắng bay lướt thướt trên trời cao cao, cũng như để lắng nghe tiếng gió và tiếng thác nước thét gào trong trạng huống đơn côi, tịch mịch. Cũng vì thế, cho nên, cô em gái ta đã bắt buộc phải quay trở lại chỗ nằm, nơi mà nàng sẽ thiu thiu giấc điệp. Hỡi ôi! Trong lúc tràn trề niềm hi vọng, ta chỉ nhận thấy được tình trạng suy nhược của Atala, qua dấu hiệu mệt mỏi, thoáng qua, nhất thời, mà thôi!».
«Sáng hôm sau, ta thức giấc giữa muôn tiếng hót líu lo của bầy chim hồng điểu và chim thằng nhại làm tổ ở trên những cây keo dại và những cây nguyệt quế, mọc vây quanh hang núi. Ta đã chạy đi hái một đóa hoa mộc lan hồng tươi ướt đẫm nước nhựa buổi ban mai, đem đặt lên đầu Atala, lúc nàng đang còn say ngủ. Theo tập tục của xứ sở ta, ta hi vọng rằng linh hồn của những đứa trẻ đã chết trong lớp tuổi măng sữa, đã hạ nhập xuống đóa hoa đó, trong một giọt sương để rồi nó sẽ đưa dẫn vào lòng người vợ tương lai của ta qua một cơn mộng đẹp. Sau đó, ta đi tim vị chủ nhân của ta. Ta gặp người đang ngồi đợi ta ở trên một thân cây thông ngã đổ vì đã quá già nua cằn cỗi, với chiếc áo dài đã sắn gọn lên hai túi, với một chuỗi tràng hạt ở nơi tay. Ông rủ ta đi theo ông tới giáo đường, và cứ để cho Atala ngơi nghỉ: Ta tiếp nhận lời đề nghị của ông, thế là chúng ta lên đường ngay tức khắc.
« Trên đoạn đường xuống núi, ta nhìn thấy ở trên các thân cây sồi, nơi mà chư vị thần linh, dường như đã vẽ lên nhiều loại chữ kỳ lạ. Nhưng ông già cho ta biết là chính ông ta đã ghi khắc lên đó những câu thơ của một thi sĩ đời cổ mang tên là Homère và một vài câu của một thi sĩ khác thuộc loại cổ kính hơn nữa được gọi là Salamon. Hồi đó ta chưa hiểu nổi sự hòa hợp bí ẩn giữa những minh triết của thời gian trên các câu thơ ăn mòn vào rêu do ông già đơn côi đã khắc vào những cây sồi già được sử dụng như những cuốn sách ghi chép.
« Tên của ông, tuổi của ông, ngày tháng thi hành sứ mạng của ông, cũng đã được đánh dấu trên thân cây loại hồ hoàng của vùng đồng cỏ nằm ở bên dưới những cây sồi nói trên. Ta đã ngạc nhiên bỡ ngỡ trước tình trạng thiếu bền vững của công trình nói sau đó: « Nó sẽ bền vững hơn ta, ông già giải đáp thắc mắc của ta, và nó sẽ luôn luôn có giá trị hơn một số thiện quả ít oi mà ta đã thực hiện! ».
« Từ chốn ấy, chúng ta đi tới lối ra vào của một khu vực thung lũng, nơi ta đã trông thấy một công trình kỳ diệu: Đó là một cây cầu thiên nhiên giống như loại cầu của Virginie mà có thể con đã từng nghe nói đến. Con ơi, con người nhất là những con người ở nơi xứ sở của con, thường hay ưa bắt chước theo thiên nhiên, nhưng những công trình tạo tác dập khuôn của họ thật quá nhỏ bé. Thiên nhiên không như vậy, một khi nhìn bề ngoài thì dường như thiên nhiên đã bắt chước công trình của loài người, nhưng thực ra, thiên nhiên mới là nguồn cội thiết lập ra các mẫu mực dành cho loài người. Chính vì vậy, thiên nhiên mới tung ra những loại cầu bắc từ một đỉnh núi này sang một đỉnh núi khác, lập ra những con đường treo lơ lửng ở giữa mây xanh, khai mở những giòng sông dùng làm lối thoát nước ; khắc chạm những ngọn núi làm thành các cây cột sừng sững và để tạo dựng bồn chứa thiên nhiên đã khơi đào thành các biển cả bát ngát, mênh mông.
«Chúng ta đã băng qua bên dưới nhịp duy nhất của cầy cầu loại đó và đã nhận thấy một kỳ công khác ở phía trước mặt: Đó là, địa khu nghĩa trang của dân bản xứ thuộc phạm vi giáo phận, hay là vùng ruộng vườn của người chết. Cha Aubry đã cho phép tân tín đồ được mai táng những người chết theo cách thức của họ, đồng thời được giữ cả tên tuổi man dã của họ ở nơi mộ phần, ông chỉ tạo cho nơi này thích hợp với thánh pháp bằng những cây thập tự giá. Địa khu nghĩa trang được phân chia giống như vùng đồng ruộng gặt hái, bao nhiêu gia đình thì cũng có bấy nhiêu lô đất. Mỗi lô đất đã biến thành một khu rừng cây khác biệt nhau, tùy theo ý thích của mỗi gia đình. Một lạch suối im lìm chạy ngoằn ngoèo ở giữa vùng đồng ruộng này được người ta gọi là lạch suối hòa bình. Về phương Đông khu vực ẩn náu tươi đẹp của các linh hồn đã bị đóng kín bởi cây cầu, mà chúng ta đã băng qua ở phía bên dưới. Hai ngọn đồi, một ngọn bọc tại phương Bắc và một ngọn bọc ở phương Nam. Chỉ còn một lối thoát độc nhất về phương Tây, nơi có một rừng thông vươn mình lên không phận. Những thân cây thông mang một mầu thắm đỏ pha vân xanh lục, trơ trụi không cành lá từ gốc đến tận ngọn, nom giống hệt như những chiếc cột cao và đã hình thành một hành lang viên trụ của ngôi điện đài tử vong. Khu rừng tràn ngập một thứ âm thanh tôn nghiêm chẳng khác chi những tiếng rền rĩ âm ỷ của một cây đại phong cầm vang vọng ở dưới những vòm cầu tại một ngôi thánh đường. Nhưng, một khi người ta đã lọt vào bên trong đáy tầng thâm u của rừng cây thì người ta chỉ còn nghe thấy những tiếng chim ca hót, ríu rít. giống như là muôn chim đang hành lễ kỹ niệm cho các vong linh trong một mùa hội miên viễn.
«Ra khỏi khu rừng cây, chúng ta đã trông thấy ngôi làng của giáo khu hiển hiện ra ở bên bờ một hồ nước nằm giữa vùng đồng cỏ đã được gieo trồng bởi ngàn sắc hoa tươi. Người ta tiến vào làng bởi một đại lộ nằm giữa hai hàng cây mộc lan và cây sồi xanh, loại cây thường viên bọc tại một trong những con đường xưa cũ, trên các dẫy núi, phân chia vùng Kentucky thuộc địa khu Florides. Ngay khi vừa nhận ra vị linh mục xuất hiện và di chuyển ở trong khu vực bình nguyên, những người dân địa phương đã vội vàng rời bỏ ngay công việc đang làm, chạy tới trước mặt ông. Người thì hôn lên chiếc áo dài của ông, kẻ thì giúp dập bước chân của ông. Các bà mẹ thì giơ cao những đứa con nhỏ lên để cho chúng ngấm nhìn con người của Chúa Jesus Christ, con người đang rưng rưng mắt lệ vì cảm động, Ông vừa đi vừa han hỏi xem có ai là khách lạ mới lạc bước qua làng hay không, Ông khuyên răn người này, ông nhỏ nhẹ mắng mỏ người kia, ông nói về kết quá của vụ thu hoạch trong mùa gặt hái, về sự học hỏi của bầy trẻ, về những mối lo âu, đau khổ cần được an ủi, lúc nào ông cũng pha trộn danh tự «Chúa» vào trong mỗi lời lẽ.
«Lũ lượt tháp tùng theo ông, chúng ta đi về phía chân một cây Thập Tự Giá thật vĩ đại nằm ở trên thông lộ. Chính tại nơi đây, con người nô bộc của Chúa đã thường tới để hiến dâng các lễ huyền bí thuộc tôn giáo của ông: « Hỡi chư vị tân tín hữu thân mến, ông vừa quay đầu về phía đám đông vừa nói, chúng ta mới có một người anh em và một người chị em tìm đến với chúng ta để gia tăng thêm nguồn hạnh phúc cho chúng ta, tôi cũng nhận thấy rằng, gần đây đấng Thượng Đế Chí Tôn đã dành cho chúng ta một mùa màng tốt đẹp: Đó là hai lý do để chúng ta phải tri ân Người. Vậy thì, chúng ta hãy hiến dâng lên Người một thánh lễ Mi-xa, đồng thời mỗi người trong chúng ta hãy tự mang tới cho Người một sự mặc niệm trang trọng, một niềm tin tưởng mãnh liệt, một tình thần tri ân nồng nhiệt và một con tim nhu thuận. »
« Dứt lời, vị linh mục cao cả đó lập tức khoác ngay lên mình chiếc áo lễ mầu trắng, dệt bằng loại vỏ cây dâu. Những bình vại lễ được mang từ trong một chiếc tủ đựng thánh tích đặt ở bên dưới cây thập tự giá ra, một tảng đá đã được sắp xếp thành bàn thờ. Nước lễ đã được múc từ một giòng thác ở kế cận. Và một chùm nho đã được làm thành rượu lễ. Tất cả chúng ta sụp quỳ gối xuống vùng cỏ cao, thế là buổi thánh lễ Mi-xa bắt đầu.
« Bình minh dần dần ló dạng từ phía sau ngọn núi, đỏ rực ở phương trời Đông. Muôn vật ở trong miền sa mạc cô liêu, tịch mịch, đã bị nhuốm thành một mầu vàng sẫm hoặc màu hồng tươi. Vừng thái dương đã được thông báo trước qua vạn ngàn tia sáng rực rỡ, lộng lẫy, để rồi hiện dần lên tại một vùng vực sáng cực độ, Thế là, những phiến sáng đầu tiên của mặt trời đã rọi chiếu vào đúng lúc hành lễ rước mình thánh, cũng vì thế giữa thời gian này vị linh mục dường như đã được nâng lên phạm vi không phận, Ôi, thật là một thứ đạo giáo kỳ diệu thay! Ôi, Thiên Chúa giáo mới huy hoàng, tráng lệ thay! Chỉ cần một vị tư tế là một vị ẩn tu già nua tuổi tác. Chỉ cần một bàn thờ bằng một hòn đá tảng mộc mạc. Chỉ cần một ngôi thánh đường là một miền sa mạc hoang vu. Chỉ cần có sự hiện diện của một số những con người man dã bình dị! Ấy thế mà, không, ta không hề ngờ vực rằng vào thời gian mà chúng ta sụp quỳ bái lễ ấy thì cuộc hành lễ đã không được thực hiện. Chúa đã không giáng hạ xuống phàm trần này, bởi vì, chính ta, ta đã cảm nhận thấy Ngài hạ nhập vào ngay tận đáy tầng tâm khảm của ta.
« Sau buổi lễ, về phần ta, ta chỉ còn thấy thiếu vắng có một mình cô gái của Lopez mà thôi! Chúng ta rời bước khỏi địa điểm hành lễ tiến vào bên trong ngôi làng. Nơi đây tràn ngập một bầu không khí hòa hợp thật là xúc động giữa đời sống tập đoàn xây dựng với đời sống thiên nhiên bình dị: - Ở một góc rừng cây trắc bá thuộc vùng sa mạc cổ kích, người ta đã thấy phát hiện ra một khu vực trồng trọt vừa khởi sinh. Những ngọn bông lúa mì cuốn cuộn, gờn gợn thành lớp lớp sóng vàng ở trên các thân cây sồi bị đốn hạ. Những bó lượm của mùa hạ đã thay thế cho các thân cây già nua từ ba thế kỷ qua. Người ta nhìn thấy ở khắp đây đó, các khu rừng cây bị thiêu đốt đang phun tỏa từng đợt, cột khói đen lên phía trời cao. Những chiếc lưỡi cày chậm chạp len lỏi ở giữa vùng tàn tích của gốc rễ. Những trắc địa viên đang đo đạc đất đai bằng các sợi dây dài dằng dặc. Những trọng tài viên đang thiết lập các tài sản tư hữu tiên khởi cho đám dân làng. Chim chóc đã phải nhượng lại cac chiếc tổ ấm của chúng cho loài người. Những vùng sào huyệt của thú dữ đã được chuyển hóa thành các ngôi lều. Ngươi ta đã nghe thấy hàng hàng lớp lớp tiếng nện chát chúa của những lò rèn và những nhát rìu cuối cùng vang lên kèm theo với tiếng cây đổ ngã rào rào, những loại cây mà cư dân đã đốn xuống để dùng vào việc xây dựng lều trại
« Ta say mê cất bước giữa khung cảnh đó, tâm hồn tràn ngập một tình tự êm ái, qua hình ảnh của Atala và qua cơn mộng mị đang ru êm con tim của ta. Ta chiêm ngưỡng sự thành công vẻ vang của Thiên Chúa giáo trong cuộc tranh thắng với đời sống man dã. Ta ngắm nhìn những con người bản xứ đã được văn minh hóa, theo tiếng gọi của tôn giáo. Ta đã được chứng kiến một cuộc hôn phối sơ thủy giữa người và đất: - Qua kết ước vĩ đại đó, con người đã buông rơi xuống lòng đất di sản của họ, từng giọt, từng giọt mồ hôi. Đáp lại, đất đã tình nguyện chung thủy ôm giữ mùa màng, con cái và hài cốt của con người.
« Trong lúc người ta mang những đứa trẻ sơ sinh tới trình diện với nhà truyền giáo để nhờ ông làm lễ rửa tội cho chúng ở giữa một khu vực tràn ngập những đóa hoa lài, thì ngược lại, một chiếc quan tài lại được họ tiến hành theo nghi thức và sinh hoạt của họ, trước khi đem tới vùng đồng ruộng của người chết. Hai vợ chồng mới cưới đã nhận được ơn đức hôn lễ dưới bóng một cây sồi, sau đó, chúng ta đã đưa dẫn họ về một địa điểm tại đầu góc của vùng sa mạc. Nhà truyền giáo đi ở phía trước chúng ta ban phép lành khắp đó đây từ một viên đá từ một gốc cây, từ một giòng suối, giống như thuở xưa, Chúa đã ban phép lành cho mảnh đất bỏ hoang để cung dưỡng cho ông Adam, theo như sách của các tín đồ Thiên Chúa giáo đã ghi chép. Với số con chiên lộn xộn đó, đám rước tiến theo sau vị lãnh đạo tôn giáo đáng kính, di chuyển từ viên đá tảng này, sang viên đá tảng khác. Hình ảnh này đã làm cho ta động lòng, liên tưởng tới cảnh thiên di của những gia đình đầu tiên, khi mà Ông SEM (3), cùng với con cái ông ta lầm lũi tiến bước theo mặt trời ở phía trước mặt để vượt qua một thế giới xa lạ.
«Ta muốn tìm hiểu xem vị ẩn tu thanh khiết đó đã dẫn dắt đám con chiên của ông ta ra sao! Ông vui vẻ đáp lại lời ta: «Ta không cưỡng ép họ phải tuân theo một luật tắc nào cả. Ta chỉ dây cho họ biết thương yêu lẫn nhau, biết cầu nguyện Thượng Đế. biết hi vọng vào một đời sống tươi sáng: Tất cả các luật lệ ở trên thế gian này đều nằm trong phạm vi đó. Như con đã thấy ở giữa làng có một ngôi nhà to lớn hơn tất cả các ngôi nhà khác: Đó là ngôi nhà nguyện trong mùa mưa. Mỗi sáng, mỗi chiều, người ta đã tập hợp tại đây để tạ ơn Thượng Đế khi nào ta không có mặt, thì một phụ lão sẽ thay ta khấn nguyện, bởi chưng, tuổi tác cũng như tình mẫu tử, chính là một loại ông đạo. Sau đó, họ mới ra đồng ruộng cấy cầy, trồng trọt. Sở dĩ, đất đai đã được phân chia thành từng lô, từng phần, là để tự tập cho mỗi người tự học hỏi về phương diện kinh tế xã hội. Trên thực tế mùa màng vẫn được chung góp vào trong kho lẫm của làng, hầu có thể gìn giữ được tình trạng từ ái huynh đệ. Bốn vị bô lão giữ nhiệm vụ phân chia đồng đều sản vật do công lao cầy sâu cuốc bẩm của mọi người. Thêm vào đó, các buổi lễ huyền bí của tôn giáo, những bài thánh ca, cây thánh giá mà ta đã từng làm lễ Mi Xa ở dưới cây tiểu xích du mà ta đã từng thuyết pháp vào những ngày đẹp trời. Những ngôi mộ nằm ở kế cận cánh đồng lúa mì, những con sông nơi ta đã tắm gội cho bầy trẻ nhỏ, những vị thánh Jean của vùng tân Béthanie này (4) đều là những sự kiện giúp cho con có đầy đủ ý niệm về miền đất của đức chúa Jesus Christ. »
« Những lời nói của ông già cô độc đã làm cho ta say mê. Ta cảm thấy đời sống cố định và bận bịu đã vượt hẳn lên trên đời sống lang bạt và biếng lười của những con người man dã.
«René ơi! Ta không hề dám cằn nhằn oán trách Thượng Đế, nhưng ta phải thú nhận rằng, không bao giờ ta nhớ tới cái xã hội đạo hạnh đó, mà ta không cảm nhận thấy một nỗi niềm cay đắng, hối tiếc. Giá như được sống trong một căn lều tranh với Atala, ở bên lề vùng đất đó thì cũng đã đủ làm cho ta sung sướng biết bao! Nơi đó sẽ giúp ta rời bỏ được tất cả những chuyến bay nhảy. Nơi đó, với một người vợ hiền, xa lánh hẳn mọi ảnh hưởng nhân thế, sẽ che dấu được trạng huống hạnh phúc của ta, tại phạm vi tận cùng của rừng thẵm. Ta sẽ giống như những con sông không có tên gọi thuộc vùng sa mạc hoang liêu. Giữa nếp sống thanh bình như thế, ta đâu còn dám lao mình vào những biến động đã làm chìm ngập chuỗi ngày dài của ta. Trò bỡn cợt liên tục của phần số đã làm vụn vỡ tất cả các khu vực bên bờ trong suốt thời gian ta bị lưu đầy khỏi xứ sở của ta. Do đó, lúc quay về thì ta chỉ còn trông thấy một căn lều đổ nát và những nằm mộ của bạn hữu: - Phải chăng, đó là định mạng của con người mang tên là Chactas! »
Chú thích:
1) Một loại sáo có chín lỗ, làm bằng gỗ bọc đồng, có hình thù giống như con rắn.
2) Đây chì là một hiện tượng Ảo Nhật.
3) SEM là con cả của Ông Noé. Theo thánh kinh, SEM là thủy tổ của giống dân Sémite.
4) Béthanie là thị trấn của Judéa, gần dẫy núi Oliviers và Jerusalem (nay gọi là El-Azariyeh).