← Quay lại trang sách

- 7 -

Ngay khi vừa gia nhập vào bộ tộc Natchez, René đã bắt buộc phải lấy vợ, theo đúng như phong tục tập quán của dân tộc bản xứ. Nhưng René đã không chung sống với vợ. Mối sầu thảm chất chứa ở trong tâm tư anh, đã đưa dẫn anh lang thang vào những khu vực rừng sâu, núi thẳm. Anh đã sinh sống vật vờ một mình ở trong đó giống như một người man dã hơn cả các sắc dân man dã. Ngoài Chactas, người cha nuôi và linh mục Souel, nhà truyền giáo ở đồn Rosalie, một nhân vật đã lên tiếng tố cáo trước dư luận về những vụ buôn người. Hai ông già này đã chiếm được một uy thế vững mạnh ở trong tâm khảm của René: - Người thứ nhất, thì, do lòng đại lượng nhân từ đáng mến của ông. Còn người kia, thì ngược lại, là do bởi tính tình quá đơn giản của ông. Kể từ sau chuyến đi săn hải ly, thời gian mà vị kỳ lão mù loà đã kể cho René nghe biết về cuộc đời phiêu bạt của ông, tuy nhiên về phần René, thì anh chưa bao giờ có ý định nói tới cuộc đời của anh. Trong khi đó, Chactas và nhà truyền giáo đều ham muốn được biết, vì bất hạnh nào mà một người Âu Châu thuộc thành phần khá giả đã phải xuất ngoại để chôn vùi cuộc sống ở trong những vùng hoang tịch thuộc xứ Louisiane. René luôn luôn tìm cớ thoái thác, và người ta chỉ biết được một chút ít về đời sống suy tư và tình cảm của anh qua câu anh thường nói: «Đối với biến cố mà tôi đã phải đi tới quyết định sang châu Mỹ, thì tôi phải chôn vùi nó vào trong niềm lãng quên miên viển.»

Một vài năm trôi qua như vậy, và hai ông già đã không thể khai mở được một chút bí mật nào của anh ta. Thế rồi, một bức thư do anh ta nhận được từ văn phòng truyền giáo quốc ngoại, đã làm bội tăng thêm niềm thống khổ của anh ta, khiến cho anh đã phải lẩn trốn cả hai ông bạn già thân mến. Hai người cảm thấy cần phải gấp rút cởi mở con tim của anh, do đó, họ đã sử dụng mọi hiểu biết, mọi dịu dàng ; mọi quyền uy của họ ra, để khắc phục anh, cuối cùng, anh ta đã đồng ý thoả mãn ý muốn của họ. Anh đã chọn lựa một ngày, để thuật lại cho họ, không phải về cuộc phiêu lưu của đời anh, bởi vì, diển tiến đó không có gì đáng kể, nhưng mà là những tình tiết bí ẩn ở bên trong đáy tầng linh hồn của anh.

Vào ngày 21 trong tháng, ngày mà giống dân man dã gọi là tuần trăng của mùa hoa. René đã tới căn lều của Chactas, anh đưa tay ra mời vị kỳ lão, và dẫn ông tới gốc cây gie vàng, mọc ở bên bờ sông Meschacebé. Linh mục Souel cũng không quá chậm trễ trong dịp hẹn ước này. Bình minh đã dâng lên: Người ta nhận thấy ngôi làng của bộ tộc Natcheg, với những vườn dâu, và những căn lều giống y như tổ ong mật, tại một khoảng cách xa xa ở trong vùng bình nguyên. Phạm vi thuộc địa của Pháp quốc và đồn binh Rosalie trồi cao lên ở phía tay phải, bên bờ giòng trường giang.

Những căn lều vải, những ngôi nhà xây cất bán phần, những mảnh thành quách, những khu vực khẩn hoang tràn ngập sắc dân da mầu, những toán lính da trắng và bản xứ, đã hiển hiện lên trong một phạm vi nhỏ hẹp ấy, nói lên sự khắc biệt giữa phong tục của một đời sống xã hội, so với phong tục của một đời sống man dã. Xa xa ở tận cùng phương đông mặt trời đã khởi sự ló dạng, ở giữa những khu vực đỉnh cao sứt mẻ của dẫy núi Apalaches đang nổi bật lên với ánh sắc xanh ngăn ngắt, ở giữa nền trời vàng ối. Về hướng Tây, giòng sông Meschacebé cuồn cuộn tuông chảy giữa cảnh trí hùng tráng tịch mịch, tạo thành một mép viền vĩ đại kỳ diệu cho toàn thể bức họa.

« Chàng trai trẻ và nhà truyền giáo đã bỏ ra đôi ba phút, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp mỹ miều của phong cảnh và để than tiếc cho vị kỳ lão đã không thể cùng chung hưởng với họ. Tiếp đó, cha Souel và Chactas đã ngồi xuống mặt thảm cỏ, bên dưới gốc cây, René giữ một vị trí ở giữa hai người, sau vài phút giây im lặng, anh ta khởi sự trình bầy với hai người bạn già:

«Con không thể khai mở câu truyện, mà không phải chống cự với mối cảm xúc hổ ngươi ở trong tâm khảm con. Tình tự an bình ở nơi tâm hồn quí vị, những bậc lão giả đáng kính và tình trạng tĩnh lặng của thiên nhiên ở quanh con, đã làm cho con phải xấu hổ, vì những bối rối và những rung cảm ở nơi tâm linh của con.

« Quí vị sẽ thương hại con đến mức độ nào! Không biết rằng, những mối ưu tư miên viễn của con, có làm cho quí vị phải khinh khi, hay không! Quí vị là những con người đã khô cạn hầu hết mọi sầu đau nhân thế, quí vị sẽ nghĩ thế nào về một thanh niên trai trẻ thiếu nghị lực và thiếu đạo hạnh, đã tìm biết được nổi băn khoăn, ray rứt của hắn, nhưng lại không thể phiền trách được là, vì sao những thương đau ấy lại chỉ nhằm vào hắn? Hỡi ơi, khỏi cần phải lên án nữa, vì hắn là kẻ đáng bị trừng trị rồi!

« Con đã bước vào đời bằng giá trị sinh mạng của mẹ con. Con đã bị những chiếc kẹp sắt lôi ra khỏi bụng mẹ. Con có một người anh được cha con rất nuông chìu, vì người đã coi anh là con trưởng của gia đình. Riêng về phần con, thì, ngay khi vừa mở mắt chào đời đã được giao phó cho những người xa lạ, và được dưỡng nuôi ở bên ngoài mái ấm của cha mẹ.

«Bản chất của con rất cuồng nhiệt, tính tình của con rất bất thường. Lúc thì ồn ào vui vẻ, lúc thì lặng lẽ sầu não. Nhiều khi, con đã mời một số đông bạn bè son trẻ tới hội họp, thế rồi, bất thần, con đã bỏ rơi họ, tìm tới một chổ ở cách xa họ, để ngồi ngắm nhìn lớp lớp mây trôi, hoặc để ngồi lắng nghe tiếng mưa rơi trên lá.

« Mỗi mùa thu tới, con lại được quay trở về nơi lâu đài của cha con, ở giữa những khu rừng cây, kế cận bên hồ nước, nằm trong một thị trấn hẻo lánh.

« Vì nhút nhát và ngượng ngập ở trước mặt cha, cho nên, con đã cảm thấy dễ chịu và thoải mái lúc sống gần bên chị Amélie. Chị hơn con một vài tuổi, nhưng vì có cùng một bản chất nhu hòa, thuận thảo, và có cùng những ý thích tương tự, do đó, hai chị em con rất hợp nhau. Hai đứa thích thú được cùng nhau trèo lên những đỉnh đồi cao, bơi thuyền trên mặt hồ gợn sóng, chạy lăng xăng trong những khu rừng cây đầy lá đổ:- Những buổi rong chơi mà giờ đây hãy còn tràn ngập đầy lạc thú ở trong trí tưởng của con. Ôi, những ảo giác của thời thơ ấu và của tổ quốc năm xưa chẳng bao giờ mất đi tình tự ngọt ngào êm ái!

«Có lúc chúng con câm nín lặng lẽ cất bước bên nhau, để cùng lắng nghe tiếng gào thét âm ỉ của trời thu, hoặc tiếng sào sạc phát ra từ đám lá vàng khô, ở dưới bước chân phiền não của chúng con. Có lúc, trong những trò chơi thơ dại, chúng con đã đuổi bắt một con chim én ở nơi đồng bãi, hay dõi theo chiếc cầu vồng ở trên những ngọn đồi phủ kín mưa bay, thỉnh thoảng, chúng con đã thầm thì ngâm nga những vần thơ, do chính chúng con cảm tác về cảnh trí của thiên nhiên. Tuổi trẻ, con đã được học hỏi khá nhiều thơ phú, nhưng con cảm thấy không có gì thi vị cho bằng, tình tự tươi mát của con tim đắm đuối thuộc lớp tuổi muời sáu. Tuổi thanh xuân giống y hệt như buổi ban mai, lúc mà, khắp đây đó, còn tràn ngập vẻ tinh khiết, các hình tượng, và sự hòa hợp.

«Những ngày chủ nhật và những ngày lễ trọng, con thường nghe thấy lớp lớp tiếng chuông từ mãi phía xa xa, xuyên qua các tầng cây lá, ở trong rừng sâu, vang vọng tới như để kêu mời nhắn gọi những người sinh sống tại miền đồng ruộng, hãy mau mau tụ hội về nơi điện đài thờ phụng. Tựa mình vào thân cây tiểu xích dương, con im lặng đón nghe những tiếng thầm thì sùng mộ. Mỗi một tiếng ngân nga của chuông đồng, đã reo rắc vào tâm hồn thơ dại mộc mạc của con, biết bao nhiêu phong tục của miền đồng quê, sự tĩnh lặng của vùng hoang tịch, sức quyến rũ của đạo giáo, và tình tự sầu muộn khoan khoái của những kỷ niệm trong lớp tuổi đầu đời! Có con tim yếu đuối bệnh hoạn nào lại không bị rung động bởi tiếng chuông ở nơi quê mẹ, tiếng chuông đã từng rền rĩ vui vẻ ở ngay bên cạnh chiếc nôi của họ, để báo hiệu ngày họ mới bước chân vào đời, để đánh dấu lần đạp đầu tiên của con tim, để loan truyền ra quanh vùng niềm vui thoả thánh thiện của cha họ, và nỗi niềm đau đớn và sung sướng khôn nguôi của mẹ họ! Nếu như chúng ta trầm mình vào với tiếng chuông của nơi quê mẹ, chúng ta sẽ thấy tất cả những gì mà chúng ta đã thấy ở trong một giấc mộng đẹp: Tôn giáo, gia đình, tổ quốc, cả đến chiếc nôi, cả đến nấm mộ, cả đến dĩ vãng và cả đến tương lai nữa,

« Thật vậy, Amélie và con đã thụ hưởng được hơn nhiều người khác, những ý tưởng trầm trọng và dịu dàng, lý do, cả hai người chúng con đã tự có sẳn một đôi chút u sầu ở nơi đáy từng tâm khảm, có thể rằng: Chúng con đã tiếp nhận được tình trạng đó tự nơi Trời, hay là từ nơi Mẹ của chúng con.

« Giữa thời gian ấy, cha con mắc phải một căn bệnh, căn bệnh này đã đưa dẫn ông vào nơi mộ địa vài ngày sau. Ông đã tắt thở ở trong vòng tay của con. Nhờ đó con đã tìm biết được cái chết ở trên đôi môi của người đã sinh thành ra con. Ấn tượng này quá lớn, đến nổi hiện nay nó vẫn còn tồn tại phảng phất ở trong con. Đây cũng là lần đầu tiên mà tình tự bất diệt của linh hồn đã thể hiện rõ ràng ở trước mắt con. Con tin rằng, cái thân xác vô tri vô giác ấy, đã là tác giả của suy tư ở nơi con. Con đã cảm nhận thấy rằng, thân xác đó đã đem lại cho con một nguồn suy tư mới. Và, trong tình tự đau đớn thiêng liêng, một tình tự đau đớn nằm sát với tình tự vui thoả, con tin là, con sẽ giao tiếp được với linh hồn của cha con vào một ngày nào đó.

« Một hiện tượng khác, đã khiến cho con xác định được siêu tưởng đó. Đấy là, những hình dạng của cha con khi đặt vào bên trong quan tài, đã hiện lên một vài đưòng nét siêu tuyệt. Tại sao tình trang bí ẩn kỳ diệu ấy lại không phải là bằng chứng của sự bất diệt ở nơi chúng ta được nhỉ? Tại sao cái chết là hết, lại không in khắc những bí mật của thế giới bên kia lên trên vầng trán con mồi của thần chết được nhỉ? Tại sao, ở trong phần mộ lại không có một vài ảo ảnh vĩ đại của sự bất diệt được nhỉ?

« Rã rời, ủ rũ vì đau khổ, chị Amélie đã lui vào ẩn trú tại một khu chòi tháp, dưới những vòm vọng của loại lâu đài xây dựng theo kiểu GôTích. Tại đây, chị đã nghe thấy tiếng vang vọng của các vị linh mục tháp tùng theo đám táng và âm thanh của tiếng chuông nhà thờ vào dịp tang lễ.

« Con đã đưa cha con tới nơi an nghỉ cuối cùng. Đất đã vùi lấp lên di hài của người. Vĩnh cữu và quên lãng đã chèn ép sức nặng của chúng trên thân xác của người. Ngay buổi chiều hôm đó, tình tự lạnh nhạt thờ ơ đã lướt qua vùng phần mộ của người, ngoại trừ, con gái và con trai của người, thì dường như, người đã là một nhân vật chưa hề bao giờ sinh tồn ở trên cỏi đời này.

«Chúng con phải rời xa ngôi nhà của cha mẹ, vì giờ đây, nó đã thuộc phần di sản của anh con, con và chị Amélie trở về sinh sống lại nhà các vị thân nhân tuổi tác.

« Dừng chân trước những ngã đường đầy lọc lừa của cuộc đời, con đã cân nhắc hết lối này sang lối khác, và không dám đặt chân vào một lối nào cả. Chị Amélie thường giảng giải cho con nghe về tình trạng hạnh phúc của đời sống tôn giáo. Chị bảo con rằng, con chính là mối giây ràng buộc duy nhất, đã giữ chị ở lại nơi trần thế và chị đã chăm chú nhìn con với vẻ mặt buồn thảm.

« Tim óc con bị xúc động bởi những lần đối thoại đầy sùng mộ ấy, cho nên, con thường thả bước chân qua một ngôi tu viện ở kế cận nơi con mới đến tá túc. Dường như, có một khoảng khắc, con đã toan tính vào đó, để trốn lánh cuộc đời. May mắn thay cho những kẻ đã chấm dứt chuyến lữ hành mà vẫn không hề rời khỏi bến và những kẻ không phải kéo dài những ngày tháng nhàm chán vô tích sự ở trên thế gian này, giống như con!

« Người Âu châu nào hoạt không ngừng, nhưng chính họ lại áp đặt cho họ những giây phút cô đơn tịch mịch. Trái tim của chúng ta càng náo nhiệt và âm ĩ bao nhiêu, thì, tình tự bình ổn và tĩnh lặng càng lôi cuốn chúng ta mạnh mẽ bấy nhiêu. Những cứu tế viện dành cho người nghèo khốn va yêu đuối tại xứ sở con thường thường ẩn mình ở giữa những khu thung lũng, mang theo từng lượn sóng tình cảm của nghịch cảnh và từng lượn sóng hi vọng của vùng ẩn trú. Đôi phen, người ta đã phát giác thấy những cơ sở đó ở trên một số cảnh trí cao vòi vọi, nơi mà, tâm hồn đạo hạnh giống y hệt như một ngọn cây của lớp lớp núi non đã và đang vươn mình lên phía nền trời cao để cung dưỡng và tỏa lan đợt đợt hương thơm ngào ngạt.

«Con cũng đã từng thấy sự hòa hợp uy nghi của sóng nước và rừng cây tại ngôi tu viện cổ kính, nơi mà, con đã nghỉ tới việc xóa bỏ cuộc đời con để thay đổi phần số. Vào lúc chiều tàn, con cũng đã từng đi lang thang qua những nhà tu kín âm vang và tịch mịch. Khi ánh trăng đã rọi xuyên ngang lớp cột của những chiếc của tò vò, in hằn hình bóng cột lên phía bức tường đối diện, con đã dừng chân đứng lại để chiêm ngưỡng cây thập tự giá dùng làm dấu hiệu tại nghĩa trang, và những lớp cỏ dại mọc ở giữa những viên đá tảng của phần mộ. Người ơi, người đã đang sống ở một nơi cách xa khu vực trần tục, người đã từng kinh qua tình tự câm nín của đời sống, cùng sự lạnh tanh của cái chết, nhưng, vì nỗi u sầu nào ở trên nhân thế, mà mộ phân của người đã không đong đầy nổi con tim của tôi!

« Hoặc là do tính tình bất định bấm sinh, hoạc là do thành kiẻn đối với đời sống tại tu viện, con đã thay đổi chủ định của con. Con nhất quyết lên đường du lịch. Con chào giã biệt chị con. Chị ôm chặt con vào trong vòng tay với mộr cử chỉ vui thỏa, dường như là chị rất sung sướng vì được thoát ly khỏi con. Chính vì thế con đã không thể chống đỡ nổi với ý nghi chua chát về sự bất nhnhất của tình thân hữu nhân loại.

« Trong lúc, lòng ngập tràn hăng say, con đã lao mình vào biển sóng của cuộc đời, không hề biết đâu là bờ bến, đâu là những chướng ngại. Trước hết, con tới thăm viếng những dân tộc không còn tồn sinh, con đã ngồi ở trên đống tàn tích của La Mã, của Hy Lạp, những quốc gia lớn lao và tinh xão, những nơi mà các điện đài đã bị vùi lấp trong cát bụi, và những lăng tẩm của các đấng quân vương đã phải nép mình giữa những bờ bụi gai góc. Nói lên sức mạnh của tạo vật và sự yếu đuối của con người. Vì chỉ cần một nhánh cỏ mỏng manh cũng đã dư sức đục khoét nổi một tảng đá hoa cương cứng rắn nhất của ngôi cổ mộ, trong khi đó, tất cả các thây ma, dù là, đã có thế lực tới đâu, cũng không bao giờ nâng lên nổi!

«Thỉnh thoảng, có một chiếc cột cao lớn đứng sừng sững một mình ở giữa vùng hoang tịch chẳng khác chi một tư tưởng vĩ đại, lâu lâu, đã hiện lên ở trong một tâm hồn, từng bị thời gian và sự bất hạnh tàn phá tan hoang.

« Con đã trầm ngâm suy nghĩ tới mọi cảnh huống diễn biến, ở giữa những công trình vĩ đại đó, với tất cả thời gian của ngày dài. Trên vùng tàn tích, trước mắt con, khi thì mặt trời đã rọi chiếu xuống vùng nền móng của khu vực thị trấn, để rồi, chìm lặn một cách uy nghi về phía trời Tây. Khi thì, mặt trăng mọc lên trên khoảng nền trời trong vắt và nằm lọt vào giữa hai chiếc hũ đựng tàn cốt, đã bị bể vỡ tới phân nửa, để chỉ cho con thấy những nấm mộ nhợt nhạt. Thường thường ánh sáng của vì tinh tú này đã bồi dưỡng cho các cơn mộng tưởng, trong đó, con ngỡ rằng đã trông thấy vị thần linh của các kỷ vật đang ngồi ở bên cạnh con.

« Tuy nhiên, con đã bỏ qua không buồn lục tìm ở bên trong các chiếc quan tài, nơi mà con thường thường đã không quá động lòng đối với một nắm cát sạn đầy tội lỗi.

« Con từng ước mong được thấy những thế hệ hiện sinh sẽ cung dưỡng cho con nhiều điều nhân đức, hay ít ra, cũng làm giảm thiểu bớt những nỗi bất hạnh của các thế hệ đã bị tàn lụi. Một hôm, con đang thả bước trong một thị trấn lớn, băng qua phía sau tòa lâu đài, nơi có chiếc sân hẻo lánh và hoang vắng, con đã nhìn thấy một bức tượng đưa ngón tay chỉ thẳng vào một khu vực nổi tiếng, bởi một cuộc hiến sinh (1) Con đã bị xúc động do sự tĩnh lặng của địa điểm này, nơi mà, chỉ còn có những trận gió gầm rít ở quanh lớp đá cẩm thạch thê lương. Những người thợ phụ nằm ngổn ngang ở dưới chân bức tượng, hoặc vừa huýt sáo vừa gọt đẽo những viên đá. Con hỏi thăm họ về ý nghĩa công trình này: Người thì nói cho con biết được đôi chút, kẻ thì chẳng rõ một chút gì về tai biến do chính họ đang ghi khắc lại. Có thể bảo rằng, không một ai có thể cung dưỡng cho con biết một cách chính xác, về những biến cố của cuộc sống và một đôi điều cỏn con nho nhỏ về tình trạng hiện hữu của chúng ta Như vậy, thì, những nhân vật cố ý làm ồn ào tai tiếng sẽ đi tới đâu? Thời gian tiến một bước, thì bộ mặt của trái đất lại đã đổi mới thêm một lần.

« Trong chuyến du hành của con, con đã đặt hết tâm trí vào việc tìm kiếm những nhân vật nghệ sĩ, những con người thần thánh đã ca ngợi Thượng Đế trên thi đàn, và đã ca ngợi cảnh toàn phúc của các dân tộc biết tuân kính luật lệ, tôn giáo và mồ mả.

« Những thi nhân này. đều thuộc giòng giõi thánh linh, họ đã hoàn toàn thụ đắc được một tài năng độc nhất vô nhị, mà tạo hóa đã ban phát cho thế gian. Cuộc đời của họ mộc mạc và thanh cao. Họ tôn thờ chư thần bằng tài nhả ngọc phun châu và họ đều là những người thật là giản dị. Họ chuyện trò như là những kẻ bất tử, hay là những đứa trẻ con, họ giảng giải luật lệ của vũ trụ, nhưng lại không thông hiểu nổi những sự việc tầm thường dễ dãi của cuộc sống. Họ có những tư tưởng kỳ diệu về cái chết, và họ đã chết thật dễ dàng nhanh chóng giống như cái chết của một đứa trẻ sơ sinh.

« Trên các dẫy núi tại xứ Calédonie, người thi sĩ cuối cùng chuyển sáng tác các thiên anh hùng ca, mà nhiều người ở trong khu vực hoang tịch này, từng nghe nói tới, đã ngâm cho con nghe những bài thơ của một nhân vật anh hùng thửa xưa, tự an ủi mình vào lúc tuổi già. Chúng con ngồi trên bốn tảng đá rêu phong mòn vẹt, bên dưới là một giòng thác tuôn chảy, phía trước mặt có vài con mang hoẵng la cà đi lại, ở giữa đám tàn tích của một ngọn tháp nằm cách đó không xa. Gió từ đại dương đã kéo tới và gầm réo ở trong đám cây thạch thảo trên đỉnh Cona. Ngày nay, đạo Thiên Chúa, cô trinh nữ của các vùng núi cao, đã đặt những thập tự giá lên các điện đài của chư vị anh hùng thuộc vùng Morven (2) và đã lay động tới cây thụ cầm của David (3), ngay trên bờ giòng thác, nơi mà, Ossian (4) đã than vãn cho chính bản thân. Vốn ưa bình hoà như thần tính của Selma, dù mang danh chiến sĩ, nàng (đại danh tự chỉ Thiên Chúa Giáo) vẫn canh giữ bầy chiên mà hoàng đế Fingal (5) đã từng phen trao phó chúng cho cuộc chiến, đồng thời, nàng đã trải rắc các vị thiên thần hoà bình vào lớp lớp mây cao, nơi cư trú của bầy ác quỉ sát nhân.

« Cô gái cổ hủ vui tươi Ý Đại Lợi đã cung dưỡng cho con, cả một đống tác phẩm. Con lang thang ở nơi điện đài bát ngát linh thiêng, đầy những nghệ phẩm về tôn giáo, với một vài tình tự hãi hùng tinh khiết. Biết bao nhiêu mê cung của kèo cột! Biết bao nhiêu cửa tò vò và nhịp vòng cung nối tiếp nhau! Vang âm mà người ta nghe thấy ở chung quanh những đỉnh mái, mới thật là tuyệt diệu làm sao! Ôi chẳng khác chi với tiếng ầm ì của lớp lớp sóng đại dương, với tiếng thầm thì của đợt đợt gió rừng, hoặc là, với tiếng nói của chư vị thần linh ở trong điện đài thờ phượng! Kiến trúc sư đã tạo dựng ra, với mục đích nói lên rằng, những suy tư và những việc làm của thi nhân, đều đã xúc kích tới mọi tâm tình.

« Trong khi ấy, phải chăng, cho tới bây giờ, sau khi con đã mất khá nhiều công khó mới tìm hiểu được rằng: Không có một sự chính xác nào ở trong thời xa xưa, mà cũng không có cả sự tuyệt hảo nào ở giữa buổi hiện kim. Dĩ vãng và hiện tại là hai pho tượng bất toàn: Cái này rút tỉa tất cả các bộ phận của những tàn tích ở khắp các thời đại. Cái kia thì vẫn chưa hội đủ sự toàn thiện của tương lai.

«Nhưng, hỡi quí vị bạn già của con ơi, có thể rằng, vì các vị đã thường xuyên cư ngụ tại vùng hoang tịch, cho nên chắc hẳn quí vị đã ngạc nhiên, lý do, trong câu chuyện về chuyến du hành của con, đã không một lần nào đề cập tới những công trình của tạo hóa với quí vị?

« Một hôm, con trèo lên trên đỉnh ngọn núi Etna, ngọn núi lửa đang hừng hực thiêu đốt một vùng hải đáo. Con đã nhìn thấy mặt trời đang mọc ở phía chân trời rộng bát ngát, nằm tại một vị thế thấp hơn nơi con đang đứng, đảo Sicile thu nhỏ lại như một cái chấm, ở phía dưới bước chân của con, còn đại dương thì trải dài ra mãi khoảng xa xa. Qua lối nhìn cảnh trí theo chiều thẳng đứng, những con sông đã nom giống y hệt như các đường vạch địa lý vẽ trên một bản họa đồ. Tuy nhiên, trong khi một mặt, con dõi theo những hình ảnh đó, thì mặt khác, con đã ném tầm mắt về phía miệng núi Etna, nơi con đã phát giác ra những lớp dung nhan nóng bỏng, nằm ở giữa đám khói của một làn hơi nước đen ngòm.

« Một thanh niên trai trẻ tràn đầy đam mê, ngồi ở trên miệng một núi lửa, và đang khóc cho những người đã khuất, mà trước đó một lúc, hắn đã nhìn thấy những vùng cư trú ở phía dưới chân, phải chăng, hỡi quí vị lão trượng, chắc chắn rằng hình ảnh đó rất xứng đáng cho quí vị rủ lòng thương xót. Nhưng, nếu quí vị nghĩ tới René, thì, hình ảnh đó sẽ cung hiến cho quí vị rõ biết, về tính tình và về cuộc sống của hắn: Chính vì thế mà suốt cuộc đời của hắn, hắn đã đặt để ở trước mặt hắn, một sự sáng tạo vĩ đại, không cảm nhận được và một vực thẳm mở toác hoác ở bên cạnh hắn! »

« Nói tới những tiếng cuối cùng, René ngưng lại, và rơi ngay vào một cơn mộng ảo. Cha Souel nhìn hắn ta với vẻ ngạc nhiên, về phần vị kỳ lão mù lòa, khi không còn nghe thấy tiếng nói của chàng trai trẻ, thì, chỉ còn biết im lặng suy tư.

« René rán mắt nhìn về phía một nhóm dân bản xứ, đang vui vẻ di chuyển trong vùng bình nguyên. Bất thần, diện mạo anh ta trở nên xúc động, mắt anh ta đổ lệ ròng ròng, và kêu lớn lên: «Sung sướng thay cho những người man dã! Hỡi ôi, vì sao tôi đã không có thể thụ hưởng được tình tự an bình luôn luôn cặp kè ở bên các bạn! Trong khi chỉ vì một đôi chút hiệu quả nhỏ bé của tình tự đó, mà tôi đã phải chạy đôn chạy đáo qua biết bao nhiêu khu vực, về phần các bạn, các bạn chỉ cần ngồi bình thản, ở dưới gốc cây sồi của các bạn, là các bạn đã có thể mặc cho tháng ngày trôi chảy chẳng cần phải lý tới nữa. Lý lẻ của các bạn chỉ là vấn đề nhu cầu thường ngày và các bạn đã đạt tới trình độ minh triết thật là mau lẹ hơn tôi, chẳng khác chi, trường hợp của bầy trẻ thơ đã chuyển đổi từ những cuộc giỡn đùa sang một cơn say ngủ. Một đôi lần, nếu như, tình tự ưu uất chồng chất quá mức độ của hạnh phúc mà các bạn đã đạt được, thì các bạn đã có thể vượt thoát khỏi nỗi buồn qua đường ấy ngay lập tức, và tầm mắt của các bạn liền hướng về phía trời cao với vẻ thảm đạm kiếm tìm một vật vô hình vô sắc, mà tôi không thể biết rõ được, nhưng chính vật đó đã nắm giữ niềm thương xót đối với đám dân man dã khốn khổ. »

« Tới đây tiếng nói của René lại ngưng đọng lại một lần nữa, đầu anh ta gục xuống phía lồng ngực. Chactas đưa tay vào khoảng không gian tối ám, nắm lấy cánh tay của người con nuôi, kêu lên, qua một giọng thật là cảm động: «Con trai của ta ơi, con trai thân mến của ta ơi! Những tiếng nhấn giọng đó, đã làm cho cậu em trai của Amélie sực tỉnh, mặt anh ta đỏ au lên vì bối rối, để rồi, cất tiếng khẩn cầu người cha nuôi tha lỗi cho anh.

Thế là ông già man dã liền nói: « Hỡi người bạn trẻ của ta ơi, những cơn biến động của con tim như loại con tim của bạn khó mà cân xứng với nhau cho được. Vậy chỉ có cách hòa hoãn bớt tính tình, đã làm cho bạn bị thống khổ lại một đôi phần. Nếu như, bạn đã khổ đau hơn người khác, thì bạn đừng có lấy làm ngạc nhiên, bởi vì một tâm hồn cao thượng đều phải chịu đựng nhiều thương đau hơn, so với một tâm hồn ti tiện. Hãy tiếp tục câu truyện của bạn đi. Bạn đã dẫn chúng ta đi vào một phần đất của Châu Âu, bạn đã cho chúng ta biết về tổ quốc của bạn. Bạn biết rằng, ta đã từng nhìn thấy Pháp quốc, và đã có một vài mối giây liên hệ ràng buộc tại đó. Ta ưa thích được nghe nói tới vị quốc trưởng (6) của đất nước ấy, ông không còn nữa, nhưng ta đã được tới thăm viếng ngôi lều lộng lẫy của ông ta. Bạn ơi, giờ đây, ta chỉ còn trông nhìn bằng ký ức. Một người già nua tuổi tác chỉ còn sống với kỷ niệm của mình, giống y hệt như một cây sồi cằn cỗi ở trong rừng cây của chúng ta: Cây sồi đó không còn trang điểm bằng tầng lá nữa, nhưng thỉnh thoảng, nó đã che phủ được cho các loài cây nhỏ bé xa lạ, đâm chồi bắt rễ ở trên đám cành nhánh khẳng khiu cổ kính của nó. »

Sau những lời lẽ ấy, cậu em trai của Amélie, đã dịu lại, và kể tiếp câu chuyện lòng của cậu ta:

« Hỡi ôi, cha ơi, con không thể thuật lại cho cha biết về diễn biến của thế kỷ vĩ đại, mà con chỉ được nhìn thấy đoạn cuối trong lớp tuổi ấu thơ và nó đã tan biến vào lúc con khởi sự gia nhập theo đời sống của tổ quổc. Một biến cố quá bất ngờ, quá dị thường bao giờ cũng xé nát cả một dân tộc dung chứa biến chuyển đó. Tất cả thượng tầng cơ sở về thần linh, về sự kính ngưỡng tôn giáo, về gánh nặng của phong tục tập quán, đã bất thần bị nhào lật bởi tài uốn éo của suy tư, của tình trạng vô luân, và của tinh thần đồi trụy.

“Thật là, hoàn toàn vô ích khi con hy vọng tìm lại được ở trong xứ sở con, một sự kiện có thể xoa dịu những mối ưu tư lo lắng, lòng ao ước hăng say ấy, đã dõi theo con ở khắp các nơi chốn. Công trình khảo sát địa cầu không đem đến cho con một chút lợi ích nào, trong khi, con lại không có được một tâm tình hiền hòa của lớp người vô học.

“Chị con, với một thái độ dị kỳ, dường như đã chỉ thích làm gia tăng thêm nỗi sầu muộn của con. Chị đã rời khỏi Paris vài ngày trước khi con về tới. Con viết thư hẹn sẽ tìm gặp chị. Chị vội vã trả lời con, với mục đích làm cho con chuyển đổi ý định, lấy cớ rằng, chị không chắc đã lưu lại ở nơi mà chị đã được gọi tới, vì những công việc riêng tư của chị. Thật là một phản ứng buồn nản, mà con không hề nghĩ tới, về mối tình thân hữu - Gần nhau thì lạnh nhạt, xa mặt thì cách lòng. Tình thân hữu không thể chống kháng nổi với những điều bất hạnh, mà còn làm suy giảm cả sự may mắn, hanh thông!

“Thế là, ngay khi ở trong đất nước của mình, con đã cảm nhận thấy mình bị lẻ loi cô độc hơn cả lúc còn ở nơi xứ lạ quê người. Con chỉ muốn được lao mình vào một thế giới, mà ở đó, không có một ai thèm nói với con một lời nào, và không có một ai thèm nghe con nói một tiếng nào, trong một vài giây phút. Tâm hồn con, một tâm hồn chưa từng bị dục vọng làm hư hỏng; đã phải kiếm tìm một đối tượng, hầu có thể trói buộc mình vào đó. Nhưng con đã nhận thấy rằng, mình cho ra thì nhiều, và tiếp nhận lại chẳng được bao nhiêu. Không những đã chẳng có một ngôn ngữ xây dựng nào, mà còn chẳng có một tâm tình thâm trọng nào lưu ý đòi hỏi ở con. Con chỉ còn biết tiêu phí hết mọi thời giờ để thu hẹp đời sống của con lại, và cũng để đặt đời sống của mình ngang hàng với tầm mức của xã hội. Ở khắp nơi, con đã đối xử với mọi người theo một thái độ cuồng ngông nhưng chính con, con lại hổ thẹn với vai trò con đang thủ diễn, dần dần con chán ngấy mọi sự vật và mọi lớp người, con đã lui về ẩn trú tại một vùng ngoại ô, để được sống một nếp sống không ai biết tới mình.

“Thoạt đầu, con cảm thấy vui thỏa với nếp sống tối tăm và tự lập. Vì nhớ tình trạng xa lạ, con đã hòa mình vào với đám đông: khu vực cô tịch bát ngát của loài người!

“Con thường ngồi ở trong một ngôi giáo đường thưa thớt người lui tới, để kinh qua những giờ phút đắm mình suy tưởng. Con đã nhìn thấy những người đàn bà nghèo khổ, đến bái lạy ở trước bàn thờ đức chí tôn, hoặc những kẻ có tội đến quỳ gồi ở nơi phòng xưng tội. Không một ai khi ra khỏi các nơi chốn ấy mà lại không có một bộ mặt bình ổn thanh tịnh, và dường như, những tiếng ồn ào âm ỉ mà người ta đã nghe thấy, từ bên ngoài, giống như những lượn sóng của đam mê và của nghịch cảnh ở nơi trần thế đã kéo về để ngưng đọng lại ở dưới chân ngôi điện đài thờ phụng Thiên Chúa. Thượng đế người đã nhận thấy những giọt lệ bí ẩn của con tuôn đổ, trong lúc con ngồi ở trong khu vực ẩn trú linh thiêng này, chắc người cũng đã biết rằng, con đã từng quỳ ở dưới chân người biết bao nhiêu lần, để khấn nài người, hãy cởi bỏ giúp con các gánh nặng tồn sinh, hoặc hãy thay đổi giúp con cái-người-xưa-cũ ở trong con! Than ôi, có ai đã không cảm thấy, một đôi lần nhu cầu được tái sinh, nhu cầu được cái lão hoàn đồng theo với những làn nước của giòng thác, nhu cầu được tôi luyện lại tâm hồn ở trong giòng đời hay không nhỉ? Và có ai, một đôi lần, đã không cảm nhận thấy gánh nặng của sự đồi trụy ở bản thân và tình trạng bất khả thực hiện những công trình vĩ đại cao quý, và công minh, hay không nhỉ?

Khi chiều tới, trên đường trở về nơi ẩn lánh, con đã dừng chân đứng lại ở các cây cầu, để ngắm nhìn cảnh mặt trời lặn. Vừng dương, trong lúc nổi bật lên ơ giữa đám hơi nước của thành phố, đã nhẹ nhàng lay động ở trong một làn chất lỏng vàng ối, nom chẳng khác chi một quả lắc đồng hồ của hằng bao thế kỷ. Cuối cùng, con đã lui bước về với bóng đêm, băng ngang qua một mê cung đường phố tịch mịch. Ngắm nhìn những làn ánh sáng từ nơi cư trú của loài người hát tỏa ra, con đã liên tưởng tới những cảnh trạng đau thương và vui thỏa, mà lớp lớp ánh đèn kia đang soi chiếu. Và, con nghĩ rằng dưới vạn ngàn mái ngói của các vùng cư trú, con đã không có lấy một người bạn nào. Giữa cơn suy tưởng của con, giờ khắc vẫn lạnh lùng đập một cách chừng mực, ở trong những vòng tháp của ngôi nhà thờ chính tòa, xây theo kiểu Gô Tích. Nhịp đập ấy đã được nhắc đi nhắc lại ở khắp các khoảng cách từ ngôi nhà thờ này sang ngôi nhà thờ kia, bằng nhiều loại âm điệu khác biệt nhau. Hỡi ôi, mỗi giờ khắc lại có thêm một ngôi mộ được khai mở ra ở trong xã hội và mỗi giờ khắc đã làm tuôn đổ ra biết bao nhiêu giòng lệ.

“Nếp sống, thoạt đầu, đã đem lại cho con tình tự mê say, thoải mái, chẳng bao lâu, đã khiến cho con không thể chịu đựng nổi nữa. Con mệt mỏi vì phải nhại đi nhại lại những cảnh trạng và những suy tư giống y hệt nhau. Con đã đặt vấn đề dò tìm con tim của con, bằng cách tự hỏi xem con muốn gì. Nhưng con không thể hiểu nổi, thình lình, con bỗng tin tưởng rằng, rừng cây có thể sẽ đem lại cho con tình tự khoan khoái. Thế là, bất chợt, con có ý định phải đầy ải mình vào một khu vực đồng nội, để khởi sự hoàn tất một công việc cực nhọc, mà con đã từng bị ngấu nghiến ở trong đó hẳng bao nhiêu thế kỷ qua.

“Con hăng say ôm chặt lấy dự định đó, dự định mà con đã đặt hết chú tâm vào. Con hối há lên đường để tự chôn vùi mình ở trong một căn lều gianh, giống y như hồi xưa lúc con đã lên đường đi vòng quanh thế giới vậy.

“Con bị thiên hạ cáo buộc là đã có những sở thích bất thường, không thể thụ hưởng lâu dài một loại ảo vọng tương tự, do đó, con đã trở thành con mồi của giòng tưởng tượng, lúc nào cũng hối hả tiến vội tới điểm tột cùng của những niềm vui thỏa, dường như, giòng tưởng tượng đó đã bị ép nén, bởi những hạn kỳ của nó: Hỡi ôi, con đã chỉ kiếm tìm một điều tốt lành vô danh vô tướng, mà bản năng của con hằng săn đuổi. Phải chăng, đó là lỗi của con, cho nên, con đã tìm thấy các chung điểm mốc hạn ở khắp mọi nơi, cho nên, nơi ngưng nghỉ của người khác đã chẳng có một giá trị nào đối với con cả. Trong khi, con cảm thấy ưa thích loại tình cảm đồng điệu của đời sống, và nếu như, con vẫn còn tin tưởng mãnh liệt về hạnh phúc, thì có lẽ đó chỉ là, một sự kiếm tìm theo thói quen của con mà thôi!

“Tình tự cô đơn tuyệt đối, cảnh trí của thiên nhiên, đã lao ném con vào trong tình trạng, hầu như, không thể diễn tả nổi. Không cha mẹ, không bạn bè, có thể nói được rằng, con đã bị bơ vơ một mình ở trên cõi dương thế này, và đang mò mẫm tìm kiếm “tình yêu”, đồng thời, đã bị sức sống quá độ đè trĩu lên đôi vai. Thỉnh thoảng, con đã đỏ mặt bất thần vả cảm thấy như đã có những giòng phún thạch đặc quánh luôn chảy ở trong tim. Thỉnh thoảng, con thốt ra những tiếng kêu vô cớ, và, ngay trong lúc đêm khuya, con đã bị rối động bởi những giấc mộng mị và những cơn trằn trọc. Hố thẳm sinh tồn ở nơi con đã không thể đong đầy nổi, có lẽ là vì, con đã thiếu thốn một vài sự vật gì đó: Con đi xuống lũng thấp, con trèo lên đỉnh non cao, và đã tận dụng lòng thèm khát, để thét gào đòi hỏi cái thể tài lý tưởng của ngọn lửa trong tương lai. Con ôm giữ thể tài đó, ở giữa những cơn gió. Con ngỡ rằng mình đã nghe thấy tiếng nói của thể tài đó ở trong những cơn rên xiết của giòng sông, nhưng, tất cả đều chỉ là bóng ma ảo tưởng, ngay cả các vì tinh tú của trời cao, ngay cả những nguyên tắc về đời sống của vũ trụ.

“Song le, tình trạng bình ổn và rối động, thiếu thốn và đầy ắp, phải chăng chính là một vài lạc thú: Một hôm, con đã ngồi tẩn mẩn, bứt từng chiếc lá từ một cành dương liễu, ở bên cạnh giòng suối và đã gắn chặt suy tư theo từng chiếc lá đang bị giòng nước cuốn trôi. Có thể bảo rằng, một vì quân vương, trong thời gian đang e ngại bị mất chiếc vương miện, do một cuộc cách mạng bất thần xảy ra, cũng không có được những tình tự sầu buồn quá mãnh liệt giống như trường hợp của con vào những lúc mà những mảnh tàn tích của cành dương liễu đang gặp phải những đe dọa hiểm nghèo. Ôi, yếu đuối thay những kẻ đã quá vãng! Ôi, ấu trĩ thay cho những con tim chẳng bao giờ già dặn nổi! Vậy thì, tình tự ngây thơ phải ở vào mức độ nào, lý lẽ đồ sộ lớn lao mới có thể hạ giảm xuống được! Và, thêm nữa, phải chăng, đã có một số người thích ràng buộc phần số của họ vào những sự vật còn kém giá trị, hơn cả những chiếc lá dương liễu của con?

“Nhưng làm sao để biểu lộ được, những chuỗi cảm xúc thoáng qua, mà con đã nghiệm thấy ở trong những chuyến du hành của con? Các âm thanh tạo nên tình tự say đắm trong khoảng trống vắng của con tim đơn độc, giống như tiếng thầm thì của gió và của nước, mà người ta đã nghe thấy, ở trong một tình trạng tĩnh lặng tại các vùng hoang tịch: Người ta có thể thụ hưởng tình trạng đó, nhưng người ta không thể phác họa lại nổi.

“Mùa thu, đã đến với con vào giữa tình trạng tiến thoái lưỡng nan ấy: Con mê say bước vô lớp tháng ngày của bão tố. Có lúc, con đã muốn trở thành một chiến sĩ lang bạc kỳ hồ ở trong những cơn gió, những đám mây, và những bóng ma. Có lúc, con đã thèm khát được sống đời sống của lớp mục tử mà con đã nhìn thấy họ hơ tay trên đống lửa đơn giản của đám cây gai, tại một góc rừng. Con lắng nghe tiếng hát u sầu của họ, tiếng hát khiến cho con gợi nhớ được rằng, ở khắp các xứ sở, tiếng hát tự nhiên của con người luôn luôn buồn bã, ngay cả khi họ muốn biểu dương nỗi niềm hạnh phúc của họ. Con tim của chúng ta là một khí cụ bất toàn, một chiếc đàn thụ cầm thiếu dây, và một chiếc đàn thụ cầm mà chúng ta đã gắng sức tạo ra các âm thanh vui thỏa trên những cung bậc chỉ dành cho những tiếng kêu than.

“Ban ngày, con lạc lõng giữa đám thạch thảo bát ngát, ở tận cùng của các khu rừng cây. Nơi không thiếu những sự kiện để con mơ mộng! Một chiếc lá khô đang bị cơn gió đẩy đưa ở trước mặt con, một mái tranh nghèo với làn khói lam vươn mình khỏi đám cây lá, lớp rêu trên thân cây sồi run rẩy bởi cơn gió bấc, một viên đá tảng đơn chiếc, hẻo lánh, một hồ nước tịch mịch, thâm u, nơi cỏ lác héo úa, tàn tạ đang thám thì! Tiếng chuông cô quạnh nổi lên ở mãi phía lũng xa, đã thường lôi cuốn tầm nhìn của con, con thường dõi mắt trông theo những bầy chim di hành, băng ngay qua đỉnh đầu con. Con mường tượng tới các bờ bến mới lạ, những vùng khí hậu ở chốn xa xăm, nơi bầy chim trời sẽ bay tới. Một bản năng thầm kín đã làm cho con quay cuồng, sầu khổ. Con cảm thấy mình chỉ là một lữ khách, không hơn không kém, nhưng, một giọng nói từ phía trời cao, dường như, đã bảo với con rằng: “Này người kia, cuộc di hành của đời người đâu đã tới, ngươi hãy đón đợi cơn gió tử thần nổi dậy, để mà mở cánh tung bay về nơi phương trời xa lạ, nơi con tim cửa ngươi đang ngóng đợi, trông chờ”.

“Hỡi trận giông bão đang được đợi mong kia ơi, mi hãy mau mau cuốn thổi để mang theo tên René này tới miền sống mới! Phải nói rằng, ta đang rảo bước, với bộ mặt đỏ lửa, với tiếng gió hú gào trên mái tóc, không màng tới mưa đổ, sương rơi, sấu bi, vui sướng và đã đang đắm đuối bởi tình tự tinh quái của con tim.

“Đêm về, khi những đợt gió bấc kéo tới, lay chuyển căn lều của con, khi những cơn mưa như thác lũ rót đổ ào ào trên mái nhà của con đang cư ngụ, lúc mà, qua song cửa sổ, con đã nhìn thầy vầng trăng đang xé nát lớp lớp mây trời, nhìn chẳng khác chi một con tầu nhợt nhạt đang cầy sới những làn sóng cả, sức sống đã dâng tràn rào rạt, bội tăng lên ở trong người con, dường như, con đã dư thừa năng lực để tạo tác hằng hà thế giới. Ôi, giả như con có thể san sẻ với một người khác sức chuyên chở mà con đã cảm nhận được! Ôi Thượng đế! Nếu như Ngài đã cung dưỡng cho con một người đàn bà theo đúng với sở ước của con: Nếu với địa vị của một người cha đầu tiên của chúng con, Ngài đã đem đến cho con một nàng Eve rút tia ra từ thân xác con... Hỡi Thượng đế tuyệt mỹ ơi! Con sẽ quỳ gối ở trước mặt Ngài, để Ngài ôm ấp con trong vòng tay Ngài, và con sẽ khấn nài mãi mãi, để được dâng lên Ngài những ngày cuối cùng của đời con.

“Hỡi ơi! Con là một kẻ cô độc, cô độc ở trên thế gian này! Một tình tự uế oải thầm kín đang xâm chiếm khắp thể xác con. Tình tự nhờm tởm đời sống mà con đã thụ nhận được từ thuở ấu thời, đang kéo tới với một nguồn lực đạo mới mẻ. Giờ đây, trái tim của con đã không còn đủ sức cung dưỡng các món ăn cho suy tư của con nữa, và con chỉ còn nhận thấy được một tình cảm chán chường buồn nản; ngập tràn ở trong cuộc sinh tồn của con.

“Hỡi thầy tư tế của miền thượng giới cao cả, Ngài hãy lắng nghe lời van cầu của con, hãy tha thứ cho một kẻ khốn khổ, kẻ mà trời cao, hầu như, đã dành cho hắn những lý lẽ riêng tư. Con là một kẻ sùng mộ, nhưng con đã lý luận như một tên bội nghịch phản đạo, lòng con luôn kính yêu Thượng đế, nhưng tâm não con lại phủ nhận Ngài. Hạnh kiểm của con, lời diễn từ của con, xúc cảm của con, suy tư của con, chỉ là những mâu thuẫn, những ngu xuẩn, những dối trá. Nhưng, nếu như con người đã thông hiểu rõ điều mình ước muốn, thì họ có luôn luôn tin tưởng chắc nịch được những điều gì họ đã nghĩ ra, hay không?

“Cùng một lúc, tất cả đã vượt thoát khỏi tầm tay của con, tình thân hữu, cõi thế gian, nơi ẩn trú. Con đã từng xét nghiệm về mọi sự kiện, nhưng tất cả chỉ là sự tàn hại, ác độc. Bị xã hội đẩy đi, bị Avuene bỏ rơi, không những thế con còn bị thiếu vắng cả đến sự cô độc, thì, con còn có gì nữa đây? Sự cô độc chính là mảnh ván cuối cùng, mà con hy vọng vào để cứu rỗi cuộc đời của con, thế mà, giờ đây, con có cảm tưởng rằng, nó cũng đang bị chìm lún xuống vùng vực thẳm nốt!

“Nhận thấy rằng, mình phải gạt bỏ hết mọi gánh nặng của cuộc sống, con cương quyèt đặt tất cả các lý lẽ vào những hành động thật phi lý. Không có gì thúc bách, nên con không định rõ ngày mình sẽ lên đường, hầu có thể say sưa tận hưởng những giây phút tận cùng của cuộc sống, và có thể gom góp được tất cả mọi nguồn sức mạnh, bắt chước theo một nhân vật cổ xưa [7], nhằm tìm hiểu về trạng thái thoát xác của con.

“Đúng lúc ấy, con ngỡ rằng mình cần phải thu xếp những vấn đề liên hệ về tài sản của con, bởi vậy, con đã bắt buộc phải viết thư cho chị Amélie. Mọi phiền hà về việc chị lãng quên con, hình như, đã vượt ra khỏi vùng suy tư của con, và chắc chắn là, con đã phó mặc cả những nỗi đau thương đang dần dần xuyên thẳng vào tim óc của con. Song le, con tin rằng, mình đã trộn lẫn một vài tư tưởng thầm kín vào lá thư, cho nên, chị con; người từng quen thuộc với nếp suy tư của con đã đoán ngay được không mấy khó. Chị hoảng sợ vì những giọng điệu đối nghịch ở trong bức thư của con, và những câu tra tấn về các công việc, mà xưa nay con chưa hề bao giờ lý đến. Vì thế, đáng lẽ trả lời con, chị đã bất thần đến tân nơi gặp lại con.

“Phải chăng vì cảm nhận thấy mình đang chìm ngập ở trong một trạng thái đau thương, chua xót. Phải chăng vì những chuyên chở ở trong con, cho nên vừa gặp chị Amélie, một người độc nhất mà con ưa thích ở trên cõi trần hoàn này, một người mà con đã hội tụ tất cả cảm tình, kèm với những kỷ niệm của thời thơ ấu vào đó. Con đã tiếp đón chị trong một trạng thái cực kỳ hân hoan. Hay có lẽ, đã từ lâu con không tìm thấy được một người nào biết lắng nghe con nói, một người mà ở trước mặt họ, con có thể bộc lộ hết tâm hồn của con ra!

“Chị Amélie lao mình vào trong vòng tay của con, và bảo con rằng: “Cậu bạc ác lắm, cậu định chết, bỏ mặc chị sống một mình! Cậu nghi ngờ cả tấm lòng của chị; Cậu đừng vội giải thích, cậu cũng đừng xin lỗi, chị hiểu hết, chị biết hết, biết như chị đã sống ở kế cận bên cậu bấy lâu nay vậy. Phải chăng chị, người đã bị cậu dối gạt, chính là người đã nhìn thấy những xúc kích đầu tiên của đời cậu? Đây cũng là những đặc tính khốn khổ của cậu, những khinh khi, nhàm tởm của cậu, những nỗi bất công của cậu. Hãy thề đi, trong khi chị đang ôm cậu sát vào con tim của chị, hãy thề đi, thề rằng, đây là lần cuối cùng mà cậu đã trao phó cậu cho ý nghĩ cuồng điên của cậu, hãy tuyên thệ là đừng bao giờ xâm phạm tới chuỗi ngày sống của cậu, hãy thề đi”.

“Nói một thôi một hồi xong, Amélie ngừng lại nhìn con với vẻ âu yếm, từ ái, rồi hôn tới tấp lên trán con, chị hầu như đã là một bà mẹ, chị chính là một sự vật thật êm ái, nhu hòa. Hỡi ơi! Con tim của con đã rộng mở, với tất cả niềm vui thỏa giống như một đứa trẻ, con chỉ cầu mong được an ủi, dỗ dành, thế là con đã nhường bước vì tấm lòng bao la của chị Amélie. Chị đòi con một lời thề nguyện trang nghiêm, trịnh trọng. Con đã thi hành lệnh đó ngay lập tức, không một chút ngập ngừng, và cũng không nghi ngờ gì rằng, kể từ đó về sau, con sẽ có thể bị khốn khổ.

Trải qua hơn một tháng trường, chúng con đã tập thành được thói quen chung sống bên nhau. Mỗi buổi sáng, thay vì, chỉ thấy có một mình con, con đã nghe thấy tiếng nói của chị con, con đã cảm nhận được những cơn rùng mình vì vui sướng và hạnh phúc. Chị Amélie thì thụ cảm được một vài hiện tượng thánh linh của thiên nhiên, tinh thần của chị cũng tràn ngập đường nét ngây thơ như thể xác của chị, tính tình của chị thật nhu hòa, hiền dịu, dường như, chị chính là chất vị ngọt ngào pha thêm một đôi chút mộng mơ. Người ta cho rằng, tấm lòng của chị, suy tư của chị và tiếng nói của chị giống như một khúc hòa tấu nhịp nhàng, chị đã giữ được tính tình e thẹn, rụt rè của nữ tính, cộng thêm với tình tự yêu thương, cùng sự tinh khiết và êm ái của chư vị thiên thần.

“Thời gian mà con phải đền tội bất nhất của con đã tới. Giữa cơn cuồng nhiệt của con, con đã mơ ước chuốc vào mình một sự bất hạnh, để ít ra cũng có một sự kiện đích thật có thể tạo nên được mối đau thương cho con: Con hoảng sợ khấn ước rằng, trong cơn thịnh nộ, Thượng đế đã chuẩn nhận sự kiện đó một cách quá tả!

“Hỡi các người bạn thân mến của con ơi, con phải trình bầy thế nào với các người đây! Các người hãy nhìn những giòng lệ đang tuôn đổ ra từ đôi mắt của con. Giá như, con có thể... không để cho một ai moi móc được những điều thầm kín của con, như mấy ngày trước đây... Nhưng hiện tại, thì đã chấm dứt rồi!

“Các vị lão giả ơi, tuy thế, câu truyện này cũng sẽ không bao giờ bị chôn vùi ở trong vùng hoang tịch này đâu: Mặc dù, quý vị đã biết là, câu truyện chỉ được kể lại ở dưới gốc cây thuộc vùng hoang dã!

“Mùa đông đã hết, đúng vào lúc ấy, con nhận thấy chị Amélie đã không còn ở vào tình trạng ngơi nghỉ, sức khỏe của chị khởi sự sút giảm lần lần vì con. Thân xác chị gầy guộc, mắt chị trũng sâu, dáng đi của chị uể oải, tiếng nói của chị rối động, bất bình thường. Một hôm, con ngạc nhiên thấy chị vừa khóc vừa quỳ ở trước một cây thập tự giá. Thế gian, tình tự cô đơn, những lúc vắng bóng con, những khi có mặt con, đêm tối, ngày dài, tất cả đều làm cho chị hoảng hốt. Những tiếng thở dài vô duyên cớ đã được thốt ra từ đôi môi của chị. Có lúc chị chịu đựng nổi những chuyến du hành khá xa, không hề biết mệt mỏi. Có lúc, chị cảm thấy khó khăn trong mọi vấn đề, chị bày công việc ra làm, để rồi bỏ dở lưng chừng, chị mở một cuốn sách ra đọc, để rồi chẳng buồn đọc, chị khởi đi được mấy câu đầu để rồi bỏ rơi những câu cuối, bất thần mắt chị đổ lệ chan chứa, và, chị đã rút vào một nơi ẩn trú kín đáo để khấn nguyện.

“Con đã luống công vô ích trong việc kiếm tìm sự bí ẩn của chị. Khi con ôm chị vào vòng tay, và han hỏi chị về sự bí ẩn đó, chị chỉ biết mỉm cười, vì cũng như con, chị đâu có hiểu nổi điều mà chị đã bị ám ảnh.

“Ba tháng trôi qua, với thực trạng mỗi ngày một tệ hại hơn. Có lẽ, do sự liên lạc thư từ thầm kín của chị, đã khiến cho chị phải đổ lệ, chị đã tỏ ra rất bình thản, hoặc, thật là xúc động, tùy theo những lá thư mà chị nhận được. Thế rồi, một buổi sáng, con đã nhận thấy sự vắng mặt của chị, khi giờ ăn sáng đã trôi qua khá lâu. Con vội vả trèo lên căn phòng của chị, con gõ cửa, nhưng không nghe thấy một tiếng hồi đáp, con mở tung cửa ra, bên trong không có một bóng người. Con chỉ còn nhận thấy một bó giấy ở trên mặt lò sưởi. Con chộp lấy, mở phanh ra, và đọc ngấu nghiến bức thư này, bức thư mà con đã gìn giữ cho tới nay, để có thể tước bỏ những cử chỉ vui vẻ, trong suốt nếp sống ở tương lai.

René,

“Em thân mến của chị, có trời chứng giám cho chị, là chị đã sẵn sàng cung ứng cho em cả ngàn cuộc đời của chị, để tránh cho em khỏi bị sa đọa vào những phút giây khổ đau, chốc lát. Nhưng, bất hạnh thay chị đã không thể dành đời chị cho hạnh phúc của riêng em. Em hãy tha thứ hành động bỏ đi khỏi nhà em, môt cách lén lút, như một tên tội phạm, của chị, chỉ vì chị biết rằng, không thể trì kháng nổi với những lời khẩn nài của em, trong khi, chị phải đi... Thượng đế hãy thương xót dùm cho con!

“René ơi, em biết rõ là, chị đã hướng về một cuộc đời sùng mộ. Trong lúc này, giờ đã điểm, chị phải tuân theo lệnh gọi của trời cao. Tại sao, chị đã chậm trễ như vậy! Thượng đế đã trừng trị chị... Em hãy tha thứ cho chị, trong lúc chị đang bị dày vò những nỗi đau thưo8ng, khi phải xa rời em.

“Em thân mến của chị, giờ đây, chị cảm nhận thấy cần phải được nương náu vào những nơi dưỡng viện ấy, ngược lại, chị đã nhìn thấy em cao trọng hơn. Có những kẻ bất hạnh đã phân cách chúng ta khỏi cuộc sống của nhân loại: nếu không như vậy, thì, hỏi rằng, lớp người khốn khổ ấy sẽ ra sao?... Chị đã bị phân tán, bối rối bởi chính em, em ạ, lý do, em đã không tìm thấy được nơi ngơi nghỉ ở trong phạm vị ẩn trú của tôn giáo: Thế gian này không dâng hiến bất cứ một vật gì cho ta cả, nếu như ta không xứng đáng.

“Chị không đề cập tới lời thề của em: Chị biết là, em luôn trung thành với những lời em nói. Em đã tuyên thệ rằng, em sẽ sống vì chị. Thật không còn gì khốn khổ cho bằng tình trạng suy tư liên tục về vấn đề xa lánh cuộc đời? Em hãy tin rằng, chị mới là một người rất khó sống được ở trên đời này.

“Em thân mến của chị ơi, em hãy mau ra thoát khỏi tình trạng đơn côi, một tình trạng không đem lại cho em một điều gì tốt đẹp cả, hãy kiếm tìm một việc làm để sốc vác, gánh gồng. Chị biết rằng, em sẽ mỉm cười chua chát về những điều cần thiết, mà những con dân của nước Pháp đang ôm vác. Nhưng em chớ có khinh thường những kinh nghiệm và những khôn ngoan của cha chúng ta. Thà rằng, hãy giống với những con người bình thường, một đôi chút, để giúp ta bớt khổ, vẫn hơn, em thân mến của chị ạ!

“Có thể rằng em sẽ tìm thấy được nguồn an ủi nỗi chán chường, buồn nản của em trong hôn nhân. Môt người vợ, môt đám con thơ, sẽ làm cho em bận bịu suốt ngày. Tại sao, một người đàn bà lại sẽ không đem cho em tình tự sung sướng, hạnh phúc được nhỉ? Với tâm hồn nồng nhiệt của em, với thiên tài tuyệt mỹ của em, với vẻ dạng quý phái và mê đắm của em, với cái nhìn kiêu kỳ và hiền dịu của em, tất cả mọi sự kiện ấy sẽ tạo cho em một niềm tin về tình yêu và sự trung thành của người phối ngẫu. A, với tình trạng ngọt ngào, vui vẻ của em, mà lại không lôi kéo được nàng vào trong vòng tay của em, và ép sát được nàng vào con tim của em sao! Nhất định, tất cả những ánh mắt của nàng, tất cả những suy tư của nàng, sẽ ràng buộc lấy em, giúp em tránh khỏi được những cơn đau thương khổ ải! Nàng sẽ dâng cho em tất cả tình yêu, tất cả mọi hổn nhiên, ngây dại và tin rằng em đã tìm thấy được một cô em gái vừa ý.

“Chị sẽ tới tu viện... Tu viện này được xây dựng ở trên bờ biển, rất thích hợp với hoàn cảnh của tâm hồn chị. Đêm đêm, nằm ở trong căn phòng của chị, chị đã nghe thấy những tiếng thầm thì của sóng, vỗ đập lên các bờ tường của tu viện. Chị sẽ mơ tưởng tới những cuộc du hành với em, ở giữa rừng cây, khi mà, chúng ta đã ngỡ rằng, chúng ta đang nghe thấy những tiếng động của biển cả, ở trên các đỉnh ngọn thông cao. Hỡi người bạn đường thân quý, trong thời thơ ấu của ta ơi, phải chăng ta sẽ không còn gặp lại bạn nữa? Hơn bạn một vài tuổi, ta đã từng đong đưa chiếc nôi của bạn, chúng ta cũng thường chung ngủ bên nhau. A, giá như, chúng ta sẽ cùng được nằm chung với nhau trong một nấm mộ, vào một ngày nào đó nhỉ! Nhưng không đâu: Ta sẽ phải nằm một mình, ở dưới tấm đá hoa cương lạnh lẽo tại nơi thánh đường này, nơi ngơi nghỉ của các thiếu nữ không hề được yêu thương.

“Chị không hiểu rằng em có đọc nổi những giòng chữ hoen ố bởi những giọt nước mắt của chị hay không. Sau cùng, hỡi người bạn của ta ơi, sớm muộn gì, chúng ta cũng phải chia biệt nhau? Vậy bạn có cần ta cu