← Quay lại trang sách

- 6 - RÉNÉ

CHACTAS, con của Outalissi, thuộc bộ tộc Natché, đã thuật lại câu chuyện trên cho René, một người Âu Châu nghe câu chuyện đó lại được truyền miệng từ đời cha sang đời con, và tôi, một khách viển du tới miền đất xa xôi hẻo lánh, tôi đã lập lại một cách trung thực những điều mà dân bản xứ đã kể lể với tôi. Tôi nhận thấy câu chuyện này giống như một bức tranh linh động, diễn tả về đời sống của các bộ tộc du mục săn bắn và của các bộ tộc định cư cầy cấy trong đó, tôn giáo đã là một hình thức lập pháp tiên khởi của loài người. Những hiểm họa của sự ngu tối và lòng nhiệt thành về đạo giáo, đã đối kháng với ánh sáng, với lòng từ ái đại lượng, và với tinh thần chính xác của Kinh Phúc Âm. Những tranh chấp giữa dục vọng với đức hạnh đã phát hiện ra ở trong tâm hồn của những con người bình dị mộc mạc. Và cuối cùng là sự chiến thắng của Thiên Chúa Giáo đối với những tình cảm nồng nhiệt hung tợn, đối với tình tự hãi sợ quá mãnh liệt đối với tình yêu và đối với cái chết.

Ngay khi được một người thuộc bộ tộc Siminole thuật lại cho tôi nghe, tôi đã cảm thấy câu truyện này thật là bổ ích và thật là hoàn hảo tuyệt mỹ, bởi vì, người kể chuyện đã đưa được sắc hoa của miền hoang vu tịch mịch và vẻ trang nhã của khu vực lều trại vào đó. Đồng thời họ đã tường thuật lại cảnh đau thương qua một phương cách thật là giản dị. Không phải tôi tự tâng bốc mình lên, nhưng thật ra, tôi đã cố gắng giữ trọn vẹn nguyên ý của họ. Tuy nhiên tôi vẫn còn muốn biết thêm một chi tiết nữa. Tôi đã tìm hỏi về phần số của cha Aubry, nhưng không có một ai có thể trả đáp cho tôi được. Tôi sẽ mãi mãi không hay biết gì về vấn đề đó, nếu như trời cao kia đã không dẫn dắt tôi tự khám phá ra. Sự kiện diễn tiến như sau:

« Tôi đã thả dọc theo hai trường giang Meschacebé, nơi thuở xưa, đã được coi như là một hàng rào ở phía Nam, của xứ Tân Pháp Quốc, và tôi đã tò mò chiêm ngưỡng một cánh trí diệu kỳ khác, ở miền Bắc, của khu vực đế quyền này. Tôi đã tới thật sát gần thác nước Niagara, nằm trong địa phận của dân tộc Agonnosioni (cũng gọi là dân tộc Iroquois). Một buổi sáng, khi đang vượt qua một vùng bình nguyên, tôi bắt gặp một thiếu phụ đang ngồi ở phía dưới gốc cây, ôm giữ xác chết của đứa con trai nhỏ bé trên đầu gối. Tôi nhẹ bước lại gần chỗ thiếu phụ trẻ trung đó và lắng tai nghe những lời nói của bà ta:

« Con thân mến của ta ơi, nếu như con ở lại với chúng ta, thì rồi đây, tay của con sẽ giương nổi cây cung lên, một cách thật là nhẹ nhàng khả ái. Cánh tay của con sẽ có thể chinh phục được sức gấu hung mãnh dữ tợn. Và, trên các khu vực đỉnh cao, đôi chân của con sẽ thừa nhanh để thách đố với tài chạy của bầy hươu lũ hoẵng. Hỡi chú chồn trắng của vùng đá tảng, tại sao chú đã vội vã đi vào xứ sở của linh hồn? Chú làm sao có thể sống tại nơi đó được? Cha chú chưa hề có mặt ở đây để săn bắn kiếm mồi ăn, nuôi dưỡng chú. Chú sẽ bị thấm lạnh, và sẽ chẳng có một linh hồn nào cung cấp cho chú những tấm áo da thú để mặc. Ôi! Có lẽ mẹ phải gấp rút theo gặp chú, để hát cho chú nghe, và để cho chú ngắm nhìn thấy cặp nhũ bộ của mẹ! »

Người mẹ trẻ trung vừa đong đưa thân xác đứa nhỏ ở trên đầu gối, vừa thấm ướt đôi môi nó bằng những giòng sữa, vừa run run cất tiếng ca não nuột thảm thiết và vừa cung dưỡng cho thây ma tất cả những chăm sóc cần thiết, của một người mẹ dành cho những đứa trẻ hiện còn sinh tồn.

Người mẹ còn phải phơi xác đứa nhỏ lên trên cành cây, theo đúng với phong tục bản xứ, trước khi đem thân xác đó tới vùng mộ địa của cha ông. Bà ta lột trần đứa trẻ sơ sinh ra, thổi vào miệng nó một vài hơi và nói:

« Hỡi linh hồn con trai của ta, hỡi linh hồn khả ái! Thuở xưa, cha của con đã đặt lên đôi môi của mẹ một nụ hôn. Nhưng hỡi ôi, giờ đây, đôi môi của mẹ đã không có thể trao cho con một sức mạnh tái sinh!». Cuối cùng, bà mẹ phanh ngực áo, ôm sát di hài lạnh lẽo của đứa nhỏ vào lòng ngực, để truyền sang cho đứa nhỏ nhiệt lượng của trái tim, và nếu như Thượng Đế vẫn còn dành cho nó một hơi thở, thì, nhờ đó, nó sẽ có cơ hội sống lại được.

Thế rồi, người mẹ đứng dậy, chậm rải đi kiếm tìm một vài cành cây ở trong khu rừng u tịch, chan hòa ánh sáng ban mai, nơi mà, bà ta sẽ dùng làm địa điểm phơi xác đứa nhỏ. Bà đã chọn được một cây trường khế đầy sắc hoa tươi đỏ, mọc thành từng chùm dài nom như các chùm hoa Apios, và đang tỏa ngát ra không gian lớp lớp hương thơm ngào ngạt. Bà mẹ đưa một tay lên kéo mấy cành cây thấp nhất xuống, dùng tay còn lại đặt thân xác hài nhi lên trên mấy cành cây, buông thả mấy cành cây ra và những cành cây này đã trở về thế thiên nhiên nguyên thủy mang theo di hài đứa trẻ thơ ngây, nép mình ở giữa đám lá cành rậm rạp thơm tho. Hỡi ôi, phong tục tập quán của dân tộc bản xứ mới xúc động làm sao! Mới khôn ngoan làm sao! Tôi đã từng chiêm ngưỡng cái lăng tẩm của Crassus, của Césars, tại những khu vực đồng quê hoang tàn, thế nhưng, tôi vẫn thấy ưa thích loại phần mộ không gian của giống dân man dã này, loại mộ phần che phủ bởi sắc hoa, mầu lá chan chứa hương thơm của bầy ong, luôn luôn đong đưa bởi những cơn gió nhẹ thổi hiu hiu, hơn nữa, nơi đây, cũng chính là phạm vi mà loài chim hoạ mi thường kéo tới làm tổ, và cất lên những tiếng hót dịu dàng, nỉ non, thánh thót. Nếu như, đó là di hài của ruột thiếu nữ, do chính tay người tình của cô ta đem tới, để treo lên cây tử thần, hoặc nếu như, đó là di hài của đứa nhỏ thân yêu do một người mẹ đem tới, để đặt vào trú khu của bầy chim nhỏ bé, thì sức quyến rũ mê hoặc còn gia tăng gấp bội. Tôi tiến sát lại gần chỗ người thiếu phụ, đang ngồi rên xiết, ở dưới gốc cây trường khế. Tôi đặt tay lên đầu bà ta, rồi cất lên ba tiếng kêu thảm thiết. Tiếp đó, tôi không nói với bà ta nửa lời; và lặng lẽ bắt chước bà ta, cầm lấy một cành cây, để xua đuổi bày ruồi muỗi, sâu bọ đang bay vo ve quanh xác đứa nhỏ. Hành động của tôi đã làm cho một chị bồ câu ở gần đó khiếp hãi. Thế là, người thiếu phụ bản xứ liền nói với bồ câu rằng: « Hỡi này bồ câu, nếu như, mi không phải là linh hồn của con ta, đang lẩn trốn, thì chắc chắn mi phải là một bà mẹ đang đi kiếm tìm một vài thứ vật liệu để xây tổ. Vậy mi hãy lấy những sợi tóc này, những sợi tóc mà ta từng ướp gội trong dầu thơm của ngàn hoa, mi hãy lấy đi để dùng làm nệm ấm cho bầy con của mi: Có thể, nhờ đó, Thượng Đế sẽ bảo vệ chúng cho mi! ».

Trong lúc người thiếu phụ đang ứa lệ vui thỏa, vì nhận thấy cử chỉ và hành động lể độ của một ngoại nhân, cử chỉ và hành động mà tôi cùng bà ta đang thực hiện, thì bất thần có một người thanh niên trai trẻ tiến lại gần chỗ chúng tôi và nói: « Hỡi này con gái của Céluta (1), nàng hãy mang xác con của chúng ta xuống đi, chúng ta không thể dừng lại ở chốn này lâu hơn nữa, chúng ta sẽ lên đường vào lúc mặt trời ló dạng.» Tôi liền nói với anh ta rằng: « Bạn ơi, tôi xin cầu chúc cho bạn có một bầu trời xanh thẳm, chúc bạn có thật nhiều hươu hoẵng, chúc bạn có một chiếc áo bằng da hải ly và có nhiều hi vọng. Phải chăng, bạn đã không cư ngụ trong vùng hoang tịch này? » -«Không, người thanh niên trai trẻ đáp, chúng tôi chỉ là những kẻ tha phương cầu thực, hiện đang ở trên đường tìm kiếm một quê hương!». Nói xong câu đó, người chiến sĩ cúi gục đầu xuống phía lòng ngực, khiến cho đầu cánh cung va chạm và lay động lớp lớp hoa rừng. Tôi cảm nhận thấy trong đáy tầng sâu thẳm của câu chuyện này, chắc chắn phải chất chứa khá nhiều giòng lệ, do đó, tôi đã nín thinh câm lặng. Trong lúc ấy người thiếu phụ đem xác đứa nhỏ từ trên cành cây xuống, trao cho người chồng. Thấy thế, tôi liền nói: « Tối nay, các bạn có thể cho phép tôi được nhóm lửa giúp các bạn không? » - « Giờ đây, chúng tôi không hề có lấy một căn lều, người chiến sĩ đáp, nếu như, bạn muốn theo chúng tôi, thì chúng ta sẽ đi tới bên bờ giòng thác, để cắm trại tạm trú.» - « Đó chính là ước nguyện của tôi " tôi đáp, và, chúng tôi cùng nhau tiến bước.

Tiếng gào thét ầm ỹ khủng khiếp đã báo hiệu khoảng cách giữa chúng tôi với bờ thác nước. Thác nước này được hình thành bởi giòng sông Niagara, xuất phát từ hồ Erié, rồi chảy vào hồ Ontario chiếu thẳng đứng của giòng thác cao tới bốn mươi tư bộ. Kể từ lúc giòng nước rời khỏi hồ Erié, nước sông đã chảy hối hả theo một độ dốc thoai thoải, lúc tới phạm vi thác, hình dạng của giòng sông đã chuyển biến thành một đại dương, tại đây, con nước đã đổ xiết vào một vực xoáy rộng toanh hoác. Thác có hình cong như vành móng ngựa, chia thành hai nhánh, ở giữa hai nhánh là một tiểu đảo, trũng sâu ở phía dưới, chứa đầy những cây cối, nằm rạp mình sát làn sóng nước hỗn độn. Khối nước của giòng sông cuồn cuộn tuôn chảy về hướng Nam, tròn xoe như một hình viên trụ bát ngát, rộng lớn, để rồi, trải mở ra như một tấm thảm tuyết trắng toát và chứa chan màu sắc rực rỡ do sức soi chiếu của ánh sáng mặt trời. Làn nước từ phía trên vừa đổ xuống đã nhào vào một vùng bóng tối sâu thăm thẳm được người ta gọi là cột nước của cơn đại hồng thủy. Hàng ngàn chiếc cầu vòng uốn lượn và giao tiếp với nhau ở phía trên vực thẳm. Những đợt nước rơi trúng các tảng đá rung rinh, đã bốc tung lên lớp lớp lốc bụi nước, dâng cao tới tận đỉnh các ngọn cây rừng, nom chẳng khác chi những đám khói, đang ôm tỏa khắp một vùng bát ngát bao la. Những cây thông, những cây hồ đào dại, những viên đá tảng đã bị gọt dũa thành các hình thù kỳ dị, trang trí thêm cho cảnh vật. Những cánh chim phượng hoàng bị sức hút của làn khí quyển đã phải lảo đảo xà thấp xuống vùng đáy vực. Bầy chồn Carcajous đã xử dụng sức mềm dẻo, uyển chuyển của những chiếc đuôi để treo mình lơ lửng ở phía đầu những cành cây sà thấp gần mặt nước, hầu có thể chụp giữ lấy những mảnh thịt vụn vặt của lũ nai, lũ gấu đang bị sức nước cuốn dạt từ phía trên xuống dưới vực thẳm.

Trong lúc tôi lặng lẽ chiêm ngưỡng cảnh trí, với một tình tự vừa khiếp hãi vừa khoan khoái, thì hai vợ chồng người dân bản xứ đã tách rời khỏi nơi tôi đứng. Tôi đã phải đi ngược giòng sông, về phía trên thác nước, để kiếm tìm họ, và đã bắt gập họ tại một địa điểm rất tních họp với trạng thái thọ tang của họ. Hai người cùng một số người già nua tuổi tác, đang nằm dài trên mặt thảm cỏ, bên cạnh họ là những chiếc túi bằng da thú đựng hài cốt của cha ông họ. Bị sững sờ trước hình ảnh mà tôi vừa nhác trông thấy, tôi liền ngồi xuống gần bên người mẹ trẻ trung, và cất tiếng hỏi: «Thưa chị, đấy là những vật gì thế chị?». Thiếu phụ đáp:«Bạn ơi, đó là đất của tổ quốc chúng tôi, đó là hài cốt của cha ông chúng tôi, cũng là tất cả những di vật sẽ luôn luôn hiện diện với cuộc sống lưu đầy của chúng tôi!» - « Nhưng, tôi kêu lớn lên, vì đâu mà các bạn đã bị buông rơi vào cảnh trạng tang thương như vậy? » Cô gái con của Céluta đáp: Chúng tôi là những người thuộc bộ tộc Natchez còn sống sót lại. Sau cuộc tàn sát của người Pháp tại vùng đất của chúng tôi để trả thù cho những người anh em da trắng của họ, một số những người anh em của chúng tôi đã vượt thoát khỏi bàn tay của kẻ chiến thắng, tìm đến địa hạt của bộ tộc Chikassas ở kế cận, cư ngụ. Chúng tôi đã sống an bình bên nhau, trong một thời gian khá dài, thế rồi, vào thời kỳ bảy tuần trăng trước đây, một số người da trắng ở Virginie đã kéo tới, chiếm cứ vùng đất của chúng tôi, lấy cớ rằng, họ đã được một vị hoàng đế tại Âu Châu chia cho họ. Chúng tôi chỉ còn biết ngước mắt nhìn lên phía trời cao để rồi thu thập hài cốt của cha ông, và lên đường tiến vào vùng hoang tịch. Trong cuộc hành trình tôi đã hạ sinh được một đứa con trai, nhưng, dường như, tình tự bi thảm đã làm cho giòng sữa của tôi trở thành quá tệ hại, đến nỗi, đã gây nên cái chết của con tôi.» Vừa nói, người mẹ trẻ trung vừa đưa mái tóc lên lau cặp mắt. Tôi cũng đã đổ lệ ròng ròng.

Thế rồi, tôi nói: « Chị ơi, chúng ta hãy gìn giữ lấy lòng kính tin nơi đấng Thượng Đế, vì tất cả mọi diễn tiến đều nằm ở trong tay Ngài. Tất cả chúng ta đều chỉ là nhữug kẻ lữ hành, ông cha của chúng ta cũng đã giống y hệt như chúng ta, nhưng đã sẵn có một địa điểm dành cho chúng ta ngơi nghỉ. Tôi đã không e ngại sử dụng miệng lưỡi thẻo lẻo của dân da trắng để xin chị vui lòng cho tôi biết rằng, chị có nghe thấy ai nói về một nhân vật, mang tên Chactas, thuộc bộ tộc Natché, hay không?* Ngay khi tôi đang nói, người thiếu phụ bản xứ đã nhìn tôi đăm đăm, rồi hỏi lại tôi: « Bạn định nói về nhân vật Chactas nào chứ?» Tôi trả lời: « Đó là một nhà minh triết của bộ tộc ». Thiếu phụ bản xứ liền nói tiếp:« Tôi xin nói tất cả những gì mà tôi biết, bởi vì bạn đã đuổi ruồi bu quanh thân xác của con trai tôi và bạn đã xử dụng những mỹ từ đễ ca ngợi đấng Thượng Đế chí tôn chí kính. Tôi là con gái của René, một người Âu châu, đã được Chactas nuôi dưỡng. Chactas đã thụ nhận lễ rửa tội, và René người cha vô cùng bất hạnh của tôi, đã bị chết trong trận tàn sát!»- Con người thường thường phải kinh qua hết cảnh thương đau này sang cảnh thương đau khác, tôi vừa cúi đầu nhìn xuống, vừa nói, chắc hẳn là chị cũng đã tiếp nhận được những tin tức về cha Aubry chứ? « - Cha cũng không sung sướng gì hơn Chactas, thiếu phụ bản xứ đáp, bộ lạc Chéroquois, địch thủ của người Pháp, đã xâm nhập vào địa khu truyền giáo của cha, dựa theo tiếng chuông tiếp cứu lữ khách lạc lối. Cha Aubry có thể trốn thoát khỏi tay bọn họ, nhưng cha không muốn bỏ rơi bầy con chiên do cha chăm dắt, cho nên, cha ở lại để giúp họ có đủ can đảm đương đầu với thần chết, theo gương của cha. Cha đã bị bọn họ tra tấn bằng những loại cực hình tàn nhẫn. Nhưng họ đã không thể ép buộc được cha thốt ra một tiếng kêu than, để cho bọn họ có thể dựa vào đó mà nhục mạ Thượng Đế của cha, hoặc hủy diệt danh dự về xứ sở của cha. Trong suốt thời gian thọ cực hình, cha luôn luôn cầu nguyện cho chính bọn đồ tể đang hành hạ cha, và luôn luôn tỏ bầy lòng trắc ẩn đối với phần số của những nạn nhân của tai kiếp. Để ép buộc cha phải tỏ ra một vài dấu hiệu của tình tự hèn yếu, dân Chéroquois đã dẫn tới trước mặt cha một tín đồ Thiên Chúa giáo man dã, có hai chân đã bị hoàn toàn tàn phế bởi thương tích. Nhưng, bọn chúng đã vô cùng ngạc nhiên, khi thấy người thanh niên trai tráng ấy đã sụp quì gối xuống, và hôn lên những vết thương của nhà ẩn tu, trong lúc nhà ẩn tu vẫn tiếp tục an ủi anh ta: «Con của ta ơi, chúng ta đã và đang được đặt vào vị thế của những vị thiên thần và của những con người. » Quá giận dữ, dân Chéroquois liền dùng xiền sắt nung lửa đâm thẳng vào cổ họng cha, để ngăn chận không cho cha nói tiếp. Thế là, kể từ đó, cha không còn có thể an ủi được loài người nữa, cha đã thở hơi thở cuối cùng.

« Người ta bảo rằng, trong số các sắc tộc man dã, dân Chéroquois đã có thói quen, xem thường những nỗi thống khổ của những kẻ khác, vậy mà, họ đã không có thể phủ nhận được rằng,trong tinh thần can đảm khiêm cung của cha Aubry, dường như, đã có một vài sự kiện vượt ra ngoài tầm mức hiểu biết của chúng, và vượt quá xa tất cả những trường hợp can đảm ở trên thế gian này. Chính vì thế, đã có một số lớn dân Chéroquois trở thành tín đồ thiên chúa giáo, vì họ đã bị ảnh hưởng trước cái chết đó.

«Vài năm sau Chactas, rời khỏi vùng đất của dân da trắng quay trở về quê hương, ông đã nhận được tin tức về nỗi bất hạnh của vị chủ tế, ông liền quyết định đi thâu lượm di hài của cha và của Atala. Khi ông tìm tới địa điểm truyền giáo năm xưa, thì ông đã không thể nhận ra nỗi đau là đâu nữa. Hồ xưa nay đã tràn bờ, đồng xưa nay đã trở thành đầm lầy, ao lạch. Cây cầu thiên nhiên, giờ đây đã sụp đổ và đã bị chôn vùi ở bên dưới đống tàn tích của khu vực phần mộ Atala và khu ruộng đồng của người chết. Chactas đã đi lang thang khá lâu tại vùng này, ông thăm viếng khu vực hang động của nhà ẩn tu đơn độc, giờ đây, đã tràn ngập những loại cây mâm sôi và những loại cây nhúc bồn tử, trong đó, còn có một chị hươu cái đang cho con bú sữa. Ông ra ngồi ở trên tảng đá canh xác chết chiều xưa, nơi mà ông chỉ còn thấy rơi rớt lại một vài chiếc lông cánh của lũ chim đại bàng, sau giờ phút chúng dừng chân tạm trú. Trong khi ông đang than khóc, thì, con trăn của nhà ẩn tu đã nuôi dưỡng năm xưa, từ trong lớp lớp bụi bờ gai góc, rậm rạp ở kế cận trườn ra và bò tới quấn quít lấy đôi chân của ông. Ông ôm giữ và sưởi ấm người bạn trung thành bằng lòng ngực của ông rồi lưu lại ở giữa đám tàn tích này, một mình trơ trọi. Con trai của Outalissi đã kể đi kể lại nhiều lần rằng, vào những lúc sẩm tối, dường như ông đã nhìn thấy bóng dáng của Atala và của cha Aubry hiển hiện lên ở giữa đám hơi nước nghi ngút của buổi hoàng hôn. Những hình ảnh đó, đã đong đầy vào não cân ông, một niềm kinh nghi tâm linh và một niềm vui thỏa thầm lặng.

« Sau khi đã hoài công vô ích trong việc kiếm tìm phần mộ của người tình nhân và của nhà ẩn tu, ông đã định rời bỏ nơi chốn ấy, nếu như, ông không trông thấy chị hươu cái đã chồm nhẩy ở phía trước mặt ông. Chị hươu đã dừng lại dưới chân cây thập tự giá của khu vực truyền giáo. Cây thập tự giá, giờ đây, đã bị nước ngâm phủ một phân nửa, thân gỗ của cây thập tự giá đã bị rêu xanh ăn mòn và bầy chim bồ nông thuộc vùng hoang tịch thường ưa thích dừng chân ngơi nghỉ ở hai bên nhánh sà ngang đầy rêu phong, Chactas dự đoán rằng, chị hươu đầy dạ tri ân ấy, đã cố ý dẫn dắt ông tới phần mộ của vị chủ nhân, Do đó, ông liền đào sâu xuống vùng đá tảng, nơi đã được dùng làm bàn thờ của khu vực truyền giáo, và, ông ta đã kiếm thấy di hài của một người đàn ông và một người đàn ba. Ông tin chắc rằng, đó chính là hài cốt của vị linh mục và của người trinh nữ, đã được chư vị thần linh chôn vùi vào nơi chốn này. Ông liền lấy da gấu bọc lại, và lên đường trở về quê hương, mang theo mớ di hài quý giá, lạo xạo vang vọng ở trên đôi vai, giống như tiếng kêu than của người chết vậy. Đêm đêm ông đặt mớ di hài xuống, gối đầu lên trên và ông đã đi sâu vào những giấc chiêm bao đầy tình yêu và đạo hạnh. Hỡi anh bạn ngoại nhân ơi, anh có thể chiêm ngưỡng tại mớ cát sạn này, mớ cát sạn trong đó có một phần di hài của nhân vật mang tên là Chactas!»

« Người thiếu phụ bản xứ vừa dứt lời, tôi liền đứng ngay dậy, tiến về phía những bọc di hài thiêng liêng, quỳ xuống và nín thinh. Để rồi, dài bước giang xa xa, và cất tiếng kêu lên rằng: «Trên thế gian này, những con người hiền lành; đức hạnh và tình cảm đã phải kinh qua như vậy! Con người, phải chăng mi chỉ là một cơn chiêm bao thoáng nhanh, một cơn mộng mị đau nhói, phải chăng mi chỉ chất chứa toàn là những nỗi bất hạnh, phải chăng mi chỉ là những sự vật bị đong đầy bởi nỗi sầu thảm ở trong linh hồn và nỗi ưu uất miên viễn ở trong tư tưởng!»

Những suy tư đó đã ngự trị ở trong tôi suốt cả đêm dài. Hôm sau, ngay từ lúc tờ mờ sáng, các vị chủ nhân của tôi đã rời bỏ tôi. Các chiến sĩ trẻ trung khai mở bước tiến, đám thiếu phụ vợ của họ đi tập hậu. Toán tiên phong mang theo những thánh tích, toán sau cùng ôm giữ đám trẻ sơ sinh, các người già chậm rải bước chân sau lưng đám trai tráng và trước đám thiếu phụ, họ đã đặt mình vào giữa lớp tiền bối và lớp hậu duệ, vào giữa kỷ niệm và hy vọng, vào giữa tổ quốc đã mất và tổ quốc ở tương lai. Ôi đã có biết bao nhiêu là biệt lệ, vào lúc đoàn người phải rời bỏ vùng đất của quê hương xứ sở, vào lúc họ phải dừng lại tại miền đỉnh cao của ngọn đồi, trên bước đường lưu đày, để nhìn lại một lần cuối mái nhà nơi họ đã sinh trưởng, con sông bên cạnh căn lều lặng lờ tiếp tục cuộn chảy qua những cánh đồng quạnh quẽ của quê hương xứ sở!

Hỡi những người dân bản xứ, những người mà tôi đã thấy lủ lượt lang thang cất bước trong vùng hoang tịch thuộc tân thế giới mang theo đám di hài của cha ông các bạn, các bạn đã cho phép tôi được tá túc với các bạn, mặc dù, các bạn đang lâm vào hoàn cảnh nghèo khốn, tôi không có thể trả nợ cho các bạn, vì chính tôi cũng là một kẻ lang thang như các bạn, và đang phó mặc thân mình cho nhân loại, nhưng trên bước đường lưu đày, tôi còn kém hạnh phúc hơn các bạn vì tôi đã không mang theo được di hài của cha ông tôi!

Chú thích:

I) Céluta là tên người bản xứ của René.