← Quay lại trang sách

Christina Rosenthal

người dịch: nguyễn đình chí, linh tâm

Christina Rosenthal

ng đạo sĩ Do Thái biết mình không hy vọng có thể bắt đầu buổi lễ chừng nào ông chưa đọc xong bức thư. Ông ngồi tại chiếc bàn giấy của mình đã hơn một tiếng đồng hồ, trước mặt là một tờ giấy trắng trơn và vẫn không thể nặn óc viết ra một câu nào. Gần đây ông không thể nào tập trung vào một công việc mà ông đã làm vào tất cả các buổi tối thứ sáu trong suốt ba mươi năm qua. Chắc họ đã nhận thấy, giờ đây, ông không còn chú tâm đến việc đó nữa.

Ông lấy bức thư ra khỏi phong bì và chậm rãi mở các trang thư. Rồi ông đẩy cặp kính bán nguyệt lên sống mũi và bắt đầu đọc.

Cha thương yêu của con,

“Thằng Do Thái! Thằng Do Thái! Thằng Do Thái!” là những câu đầu tiên mà con nghe thấy cô ta gào lên khi con chạy ngang qua cô ta tại vòng chạy đầu tiên của cuộc chạy đua. Cô ta đang đứng đằng sau những thanh hàng rào tại điểm bắt đầu của đoạn đường thẳng về đích, hai bàn tay cham quanh miệng để chắc chắn con có thể nghe thấy những lời gào hét đó. Chắc là cô ta đến từ một trường khác, bởi vì con không nhận ra cô ta, thế nhưng chỉ một thoáng liếc mắt là con thấy chính thằng Greg Reynolds đang đứng cạnh cô ta.

Sau năm năm phải chịu những lời chỉ trích cạnh khóe, thâm độc và sự ức hiếp của nó ở trường học, con đã muốn trả thù lại những gì “đồ phát xít, tên Quốc xã” đó đã làm. Thế nhưng cha đã luôn luôn dạy con vượt lên trên những sự khiêu khích như thế.

“Thằng Do Thái! Thằng Do Thái! Thằng Do Thái!” là những câu đầu tiên mà con nghe thấy cô ta gào lên khi con chạy ngang qua cô ta tại vòng chạy đầu tiên của cuộc chạy đua. Cô ta đang đứng đằng sau những thanh hàng rào tại điểm bắt đầu của đoạn đường thẳng về đích, hai bàn tay cham quanh miệng để chắc chắn con có thể nghe thấy những lời gào hét đó. Chắc là cô ta đến từ một trường khác, bởi vì con không nhận ra cô ta, thế nhưng chỉ một thoáng liếc mắt là con thấy chính thằng Greg Reynolds đang đứng cạnh cô ta.

Sau năm năm phải chịu những lời chỉ trích cạnh khóe, thâm độc và sự ức hiếp của nó ở trường học, con đã muốn trả thù lại những gì “đồ phát xít, tên Quốc xã” đó đã làm. Thế nhưng cha đã luôn luôn dạy con vượt lên trên những sự khiêu khích như thế.

Con cố gắng gạt cả hai đứa nó ra khỏi tâm trí mình khi con tiến vào vòng chạy thứ hai. Con ước đã nhiều năm nay chiến thắng tại vòng đua một dặm của các giải quán quân trường Trung học West Mount, và con kiên quyết không để chúng nó làm bất cứ điều gì ngăn cản con.

Khi con tới được đoạn thẳng về đích lần thứ hai, con cố nhìn cô ta kỹ hơn. Cô ta đang đứng giữa một nhóm bạn bè, họ đeo những chiếc khăn quàng của trường dòng Marianapolis Covent. Cô ta chắc quãng chừng mười sáu tuổi, mảnh mai như một cây liễu. Con phân vân không biết cha có phạt con không nếu như con đã muốn thét to lên, “Đồ ngực lép, ngực lép, ngực lép,” với hy vọng là việc này ít nhất sẽ khiêu khích cái gã đang đứng bên cạnh cô ta nhảy vào đánh lộn một trận. Đến lúc đó con có thể trung thực nói với cha rằng nó là người đánh đầu tiên, nhưng nếu cha biết được thằng ranh đó chính là thằng Greg Reynolds thì cha sẽ hiểu là con chẳng cần nhiều đến sự khiêu khích.

Khi con tới đoạn thẳng về đích, con chuẩn bị tinh thần một lần nữa đẻ nghe những lời gào thét. Việc hò hét tại các buổi thi điền kinh đã trở thành mốt ở giai đoạn cuối thập niên 1950, khi “Zatopeck, Zatopeck, Zatopeck” đã được hô vang để ca ngợi nhà quán quân Tiệp Khắc vĩ đại trên khắp các sân vận đồng điền kinh thế giới. Đối với con thì chắc chắn sẽ khong có câu hét vang “Rosenthal, Rosenthal, Rosenthal”.

“Thằng Do Thái! Thằng Do Thái! Thằng Do Thái!” cô ta thét to, nghe như một chiếc đĩa nhạc bị lỗi giật cục. Thằng bạn Greg của cô ta, chỉ là một sinh viên dự bị, bắt đầu cười to. Con biết nó đã hướng cô ta vào việc đó, và con mong muốn dập tắt cái nụ cười ngạo mạn trên khuôn mặt nó làm sao. Con đạt được điểm nửa dặm đường sau hai mươi phút mười bảy giây, đang ung dung nằm trong khoảng tốc độ cần thiết để phá kỷ lục của trường, và con cảm thấy đó là cách tốt nhất để đặt cô gái cay độc và cái thằng phát xít Reynolds vào vị trí của chúng. Lúc đó, con không thể không suy nghĩ rằng tất cả mọi việc thật bất công làm sao. Con là một người Canada thực thụ, được sinh ra và được nuôi dạy trên đất nước này, trong khi cô ta chỉ là một người nhập cư. Suy cho cùng, chính là cha, thưa cha, đã bỏ trốn từ Hamburg từ năm 1937, và khởi sự với hai bàn tay trắng. Cha mẹ cô ta mãi đến năm 1949 mới đặt chân lên bờ biển, vào thời gian này cha đã là một nhân vật được kính trọng tại cộng đồng.

Khi con tới đoạn thẳng về đích, con chuẩn bị tinh thần một lần nữa đẻ nghe những lời gào thét. Việc hò hét tại các buổi thi điền kinh đã trở thành mốt ở giai đoạn cuối thập niên 1950, khi “Zatopeck, Zatopeck, Zatopeck” đã được hô vang để ca ngợi nhà quán quân Tiệp Khắc vĩ đại trên khắp các sân vận đồng điền kinh thế giới. Đối với con thì chắc chắn sẽ khong có câu hét vang “Rosenthal, Rosenthal, Rosenthal”.

“Thằng Do Thái! Thằng Do Thái! Thằng Do Thái!” cô ta thét to, nghe như một chiếc đĩa nhạc bị lỗi giật cục. Thằng bạn Greg của cô ta, chỉ là một sinh viên dự bị, bắt đầu cười to. Con biết nó đã hướng cô ta vào việc đó, và con mong muốn dập tắt cái nụ cười ngạo mạn trên khuôn mặt nó làm sao. Con đạt được điểm nửa dặm đường sau hai mươi phút mười bảy giây, đang ung dung nằm trong khoảng tốc độ cần thiết để phá kỷ lục của trường, và con cảm thấy đó là cách tốt nhất để đặt cô gái cay độc và cái thằng phát xít Reynolds vào vị trí của chúng. Lúc đó, con không thể không suy nghĩ rằng tất cả mọi việc thật bất công làm sao. Con là một người Canada thực thụ, được sinh ra và được nuôi dạy trên đất nước này, trong khi cô ta chỉ là một người nhập cư. Suy cho cùng, chính là cha, thưa cha, đã bỏ trốn từ Hamburg từ năm 1937, và khởi sự với hai bàn tay trắng. Cha mẹ cô ta mãi đến năm 1949 mới đặt chân lên bờ biển, vào thời gian này cha đã là một nhân vật được kính trọng tại cộng đồng.

Con cắn răng và cố gắng tập trung tư tưởng. Zatopek đã viết trong cuốn tự truyện của ông ta rằng vận động viên chạy tốc độ không bao giờ được phép để mất đi sự tập trung tư tưởng của mình trong một cuộc đua. Khi con tiếp cận đoạn đường cong áp chót, tiếng gào thét không thể tránh khỏi lại bắt đầu, nhưng lần này nó chỉ làm cho con tăng thêm tốc độ và thậm chí còn thêm quyết tâm để phá kỷ lục đó. Khi con lại an toàn tới được đoạn thằng về đích, con có thể nghe thấy mấy người bạn của con hô to “Cố lên, Benjamin, cậu làm được mà,” và người bấm giờ đọc to lên “Ba hai mươi ba, ba hai mươi bốn, ba hai mơi lăm” khi con chạy ngang qua chiếc băng rôn để bắt đầu vòng chạy cuối cùng.

Con biết rằng kỷ lục – bốn phút ba mươi hai – giờ đây đã nằm ngon lành trong tầm với của con, và tất cả những đêm tối mùa đông luyện tập bỗng dường như thật xứng đáng, khi con tới đoạn đường thẳng về đích, con ở vị trí dẫn đầu, và thậm chí còn cảm thấy mình có thể giáp mặt cô gái đó một lần nữa. Con dồn hết sức lực cho một cố gắng cuối cùng. Một cái liếc mắt nhanh ngang qua vai giúp con khẳng định đã vượt lên trước vài mét so với bất cứ đối thủ nào, do đó vấn đề chỉ là con chạy đua với chiếc đồng hồ. Thế rồi con nghe thấy tiếng gào, mà lần này nó thậm chí còn to hơn lần trước, “Thằng Do Thái! Thằng Do Thái! Thằng Do Thái!”. Tiếng gào thét còn to hơn vì cả hai đứa chúng nó giờ đây đang đồng thanh, và đúng lúc con đang ở vào khúc cua, Reynolds giơ cao cánh tay lên làm một động tác chào khốn kiếp của bon phát xít.

Con biết rằng kỷ lục – bốn phút ba mươi hai – giờ đây đã nằm ngon lành trong tầm với của con, và tất cả những đêm tối mùa đông luyện tập bỗng dường như thật xứng đáng, khi con tới đoạn đường thẳng về đích, con ở vị trí dẫn đầu, và thậm chí còn cảm thấy mình có thể giáp mặt cô gái đó một lần nữa. Con dồn hết sức lực cho một cố gắng cuối cùng. Một cái liếc mắt nhanh ngang qua vai giúp con khẳng định đã vượt lên trước vài mét so với bất cứ đối thủ nào, do đó vấn đề chỉ là con chạy đua với chiếc đồng hồ. Thế rồi con nghe thấy tiếng gào, mà lần này nó thậm chí còn to hơn lần trước, “Thằng Do Thái! Thằng Do Thái! Thằng Do Thái!”. Tiếng gào thét còn to hơn vì cả hai đứa chúng nó giờ đây đang đồng thanh, và đúng lúc con đang ở vào khúc cua, Reynolds giơ cao cánh tay lên làm một động tác chào khốn kiếp của bon phát xít.

Nếu như con cứ tiếp tục thêm chừng hai mươi mét nữa thôi thì con đã đạt được sự an toàn của đoạn đường thẳng dẫn về đích trong tiếng hò reo chúc mừng của bạn bè con, đoạt chiếc cúp và lập kỷ lục. Thế nhưng chúng nó đã làm con tức giận đến mức con không thể nào kiểm soát được bản thân mình nữa.

Con phóng ra khỏi đường chạy và chạy ngang qua bãi cỏ, băng qua bãi nhảy xa và xông thẳng vào chúng. Ít nhất quyết định điên rồ của con cũng làm cho chúng nó ngừng kêu gào, bởi vì thằng Reynolds đã hạ thấp cánh tay xuống và chỉ đứng đó nhìn con chằm chặp đầy thảm hại từ phía đằng sau thanh hàng rào nhỏ bé bao quaynh vòng ngoài của đường chạy. Con nhảy qua thanh rào và hạ xuống ngay trước mặt địch thủ của mình. Với tất cả sức lực mà con đã để dành cho đoạn đường thẳng cuối cùng, con quai cho nó một cú trời giáng. Nắm đấm của con phang vào dưới mắt trái của nó chừng hai phân và nó oằn người, ngã vật xuống đất bên cạnh cô ta. Cô ta nhanh nhẹn quỳ xuống và ngước lên nhìn con với một sự căm ghét mà không lời lẽ nào sánh được. Khi con đã chắc chắn là thằng Greg sẽ không thể trở dậy được ngay, con chậm rãi bước quay lại đường chạy khi những vận động viên cuối cùng đang chạy khúc cua chót.

“Lại về bét rồi, thằng Do Thái,” Con nghe thấy cô ta thét lên khi con chạy nhập vào đoạn đường thẳng về đích, cách quá xa những người khác đến mức chẳng cần bận tâm ghi lại thời gian của con.

Đã từ lâu cha thường hay trích dẫn để dạy con những lời này: “Ta vẫn còn chịu đựng nó với một cái nhún vai nhẫn nại, bởi vì nhẫn nhục là dấu hiệu tượng trưng của bộ lạc chúng ta.” Tất nhiên là cha đúng, nhưng mà lúc đó con mới có mười bảy tuổi đầu, và thậm chí, sau khi con đã biết được sự thật về người cha của Christina, con vẫn không thể hiều làm sao mà một người ra đi từ một nước Đức thảm bại, một nước Đức bị toàn bộ phần còn lại của thế giới lên án vì sự đối xử đối với người Do Thái, vẫn còn có thể cư xử theo cung cách như vậy. Và hồi đó con thực sự tin rằng gia đình cô ta là những kẻ phát xít, thế nhưng còn còn nhớ cha đã kiên trì giải thích cho con rằng cha cô ta đã từng là một vị đô đốc trong hải quân Đức, và đã được tặng thưởng một Huân chương Chữ Thập Sắt cho việc đánh chìm những tàu chiến của quân Đồng minh. Cha có còn nhớ con đã hỏi làm sao cha có thể chịu đựng được một người như thế, chứ đừng nói cho phép ông ta định cư trên đất nước chúng ta.

Cha cứ tiếp tục bảo đảm với con rằng Đô đốc Von Braumer, một người xuất thân từ một gia đình theo Thiên chúa giáo cổ, có lẽ cũng khinh bỉ bọn phát xít nhiều như chúng ta, đã làm trọn bổn phận một cách danh giá với tư cách là một sỹ quan và một đức ông cống hiến trọn vẹn cuộc đời của ông ta trên cương vị một thủy thủ Đức. Thế nhưng con vẫn không thể chấp nhận quan điểm của cha, hoặc là không muốn chấp nhận điều đó.

Thưa cha, việc cha luôn nhìn trên quan điểm của người khác cũng chẳng giúp ích gì, và cho dù mẹ đã chết sớm bởi mấy kẻ tàn nhẫn, đáng khinh ấy, cha vẫn có thể tự tha thứ được.

Nếu như cha được sinh ra là một người Thiên chúa giáo, thì cha đã là một vị thánh.

°

° °

Ông đạo sĩ Do Thái đặt bức thư xuống, dụi dụi cặp mắt mệt mỏi trước khi lật sang trang khác, những trang thư được viết bằng nét chữ rất đẹp mà ông đã từng dạy dỗ cho thằng con trai duy nhất của mình bao nhiêu năm về trước. Benjamin đã luôn học rất sáng dạ, mọi thứ, từ văn tự tiếng Do Thái cho tới một phương trình đại số phức tạp. Thậm chí ông đã từng hy vọng cậu sẽ có thể trở thành một ông đạo sĩ Do Thái.

°

° °

Cha có nhớ con đã hỏi cha tối hôm đó tại sao mọi người không thể hiểu rằng thế giới đã đổi thay rồi? Cô gái đó không nhận thấy rằng cô ta cũng không hơn gì chúng ta sao? Con sẽ không bao giờ quên được câu trả lời của cha. Cha bảo cô ta hơn chúng ta rất nhiều nếu như cách thức duy nhất để con có thể chứng minh sự ưu việt của mình là đám vào mặt bạn của cô ta.

Con quay lại phòng mình, tràn đầy bực tức bởi sự yếu đuối của cha. Sẽ còn phải sau nhiều năm nữa con mới hiểu được sức mạnh của cha.

Mỗi khi con không phải chăm chỉ tập luyện trên đường chạy, con cũng chẳng có thời gian cho bất kỳ việc gì ngoại trừ phấn đấu học tập để có được một suất học bổng tại McGill, do đó thật bất ngờ là con đường cô ta theo đuổi lại sớm cắt ngang con đường của con.

Khoảng một tuần sau đó con trông thấy cô ta tại bể bơi địa phương. Khi con bước vào, cô ta đang đứng ở phần sâu của bể bơi, ngay phía dưới cầu nhảy. Mái tóc vàng để dài của cô ta đang tung bay, nhảy múa trên bờ vai, đôi mắt ngời sáng của cô ta đang hào hứng ghi nhận mọi vật xung quanh mình. Greg đang ở bên cô ta. Con hài lòng nhận thấy một mảng thâm tín, xám xịt còn đọng lại dưới mắt trái của nó để cho tất cả mọi người cùng thấy. Con cũng nhớ mình đã cười khoái trá bởi vì cô ta thực sự có một bộ ngực phảng phiu nhất mà con từng thấy ở một cô gái mười sáu tuổi, mặc dù vậy con cũng phải thú nhận cô ta có đôi chân đẹp tuyệt trần. Có lẽ cô ta là một kẻ đồng bóng quái gở, con thầm nghĩ. Con rẽ ngang để vào phòng thay đồ, nhưng loáng một cái, con bị rơi tõm xuống nước. Khi con nhô lên để thở, con không hề nhìn thấy bất cứ dấu hiệu nào để biết ai đã đẩy con xuống mà chỉ có một nhóm những khuôn mặt vô tội cười cợt. Con không cần một tấm bằng về luật pháp cũng có thể suy ra người nào đã làm việc đó, nhưng mà cha đã liên tục nhắc nhở con là không có chứng cớ thì không có xét xử… Lẽ ra con đã không phật lòng đến thế vì bị đẩy xuống bể bơi nếu như con không mặc bộ đò diện nhất của con, sự thật đó là bộ đồ duy nhất của con với cái quần dài, bộ đồ mà con mặc trong những ngày con đi lễ tại giáo đường Do Thái.

Con trèo lên khỏi bể nước, chẳng bỏ phí một tí thời gian nào để tìm kiếm thằng đó. Con biết đến lúc đó thì Greg đã cao chạy xa bay rồi. Con rảo bước về nhà qua các phố nhỏ, tránh đi xe buýt, đề phòng tường hợp có ai đó trông thấy con và nói lại với cha tình trạng của con lúc đó. Ngay khi về đến nhà, con nhón chân lẻn qua phòng của cha và lên cầu thang về phòng mình, thay đồ trước khi cha có cơ hội phát hiện ra điều gì đã xảy ra.

Con trèo lên khỏi bể nước, chẳng bỏ phí một tí thời gian nào để tìm kiếm thằng đó. Con biết đến lúc đó thì Greg đã cao chạy xa bay rồi. Con rảo bước về nhà qua các phố nhỏ, tránh đi xe buýt, đề phòng tường hợp có ai đó trông thấy con và nói lại với cha tình trạng của con lúc đó. Ngay khi về đến nhà, con nhón chân lẻn qua phòng của cha và lên cầu thang về phòng mình, thay đồ trước khi cha có cơ hội phát hiện ra điều gì đã xảy ra.

Lão Isaac Cohen nhìn con với con mắt bất bình khi con xuất hiện ở giáo đường Do thái sau đó một giờ, mặc một chiếc áo cộc tay và quần jeans.

Con đem bộ đồ tới tiệm giặt là vào buổi sáng hôm sau. Nó tiêu tốn của con ba tuần tiền bỏ túi để chắc chắn rằng cha không bao giờ biết điều đã xảy ra tại bể bơi ngày hôm đó.

°

° °

Ông giáo sĩ Do Thái nhặt tấm hình thằng con trai mười bảy tuổi của mình trong bộ đồ giáo dường Do Thái lên. Ông còn nhớ rõ thằng Benjamin đến dự buổi lễ của ông trong chiếc áo cộc tay và quần jeans và với lời khiển trách thẳng thừng của lão Isaac Cohen. Ông giáo sĩ rất biết ơn ông Atkins, giáo viên dạy bơi lội của Benjamin, đã điện thoại để báo cho ông về việc đã xảy ra buổi chiều hôm đó, do vậy ít nhất ông đã không thêm vào những lời chỉ trích gay gắt của ông Cohen. Ông tiếp tục ngắm nhìn tấm hình thật lâu trước khi quay trở lại bức thư.

°

° °

Dịp tiếp sau con thấy Christina – lúc này con đã biết được tên cô ta – tại buổi khiêu vũ cuối học kỳ được tổ chức tại phòng thể dục dụng cụ của trường. Con nghĩ trông con cũng khá bảnh trong bộ đồ là lượt phẳng phiu cho đến khi con trông thấy Greg đang đứng bên cạnh cô ta trong một chiếc áo dạ tiệc mới, lịch lãm. Lúc đó, con còn nhớ con đã băn khoăn tự hỏi không biết đến bao giờ con mới có thể mua được một chiếc áo dạ tiệc. Gã Greg đã được mời chào một suất học ở McGill và đang tuyên bố điều đó với bất kỳ ai muốn nghe, điều này làm cho con càng thêm quyết tâm giành được một suất học bổng ở đó vào năm học sau.

Con chăm chăm nhìn Christina. Cô ta mặc một chiếc váy dài màu đỏ, che kín hoàn toàn đôi chân đẹp tuyệt vời kia. Một chiếc thắt lưng vàng mỏng mảnh tôn lên phần eo thon thả và món đồ trang sức duy nhất mà cô ta đeo là một sợi dây chuyền vàng đơn giản. Con biết nếu chờ đợi thêm chút xíu nữa thôi, con sẽ không có đủ dũng khí để đi đến tận cùng. Con nắm chặt bàn tay, rảo bước đến chỗ họ đang ngồi, và theo cái cách cha dạy bảo con, con hơi cúi chào rồi hỏi, “Liệu tôi có được hân hạnh nhảy điệu này cùng cô?”.

Cô ta nhìn chằm chằm vào mắt con. Con xin thề nếu cô ta bảo con đi ra ngoài và giết chết một nghìn người rôi hãy dám hỏi lại cô ta điều đó thì con vẫn cứ làm.

Cô ta, thậm chí không nói gì cả, thế nhưng gã Greg tựa lên vai cô ta và nói, “Tại sao mày không đi tìm cho mày một con Do Thái hả?”. Con cho là đã trông thấy cô ta khẽ cau mày vì lời nói của nó, thế nhưng con chỉ đỏ bừng mặt lên giống như một tên kẻ cắp bị bắt mà trên tay còn cầm đồ ăn cắp. Con không nhảy với ai đêm hôm đó. Con bước thẳng ra khỏi phòng thể dục và chạy về nhà.

Khi đó, con đã tin tưởng rằng con rất căm ghét cô ta.

Tuần cuối cùng ấy của học kỳ, con phá kỷ lục chạy một dặm của trường học. Cha đã có mặt ở đó để theo dõi con chay, nhưng mà ơn trời, cô ta thì không. Đó là kỳ nghỉ chúng ta lái xe đi Ottawa nghỉ hè với dì Rebecca. Một người bạn cùng trường bảo cho con biết Christina đã đi nghỉ ở Vancouver cùng với một gia đình người Đức. Ít nhất thì gã Greg không đi cùng với cô ta, người bạn bảo đảm với con như vậy.

Cha luôn nhắc nhở con về tầm quant rọng của một nền tảng học vấn tốt, thế nhưng cha không cần phải thế, bởi vì cứ mỗi lần con trông thấy thằng Greg, con càng tăng thêm quyết tâm giành được suất học bổng đó.

Con lao vào học tập, thậm chí còn siêng năng hơn nữa trong mùa hè 1965. cha giải thích rằng đối với một người Canada, một vị trí tại McGill cũng giống như theo học tại Harvard hay Oxford và sẽ dọn sạch con đường tiến thân cho cả cuộc đời con sau này.

Lần đầu tiên trong đời con, môn chạy chiếm vị trí thứ hai.

Mặc dù con không thấy Christina nhiều trong học kỳ đó, song cô ấy lại thường hiện diện trong tâm tưởng con. Một số người bạn học cùng lớp bảo con rằng cô ấy và Greg thôi không còn gặp gỡ nhau nữa, nhưng không thể nói cho con biết tại sao bỗng nhiên có sự thay đổi tình cảm đó. Vào thời gian này con có một người có thể gọi là bạn gái, cái cô gái mà luôn luôn ngồi ở phía bên kia của giáo đường Do Thái – đó là Naomi Goldblatz, cha còn nhơ cô ta mà – thế nhưng chính cô ta là người hò hẹn con.

Khi kỳ thi đến gần, con rất biết ơn rằng cha luôn gắng sắp xếp được thời gian để xem xét những bài luận và bài kiểm tra của con sau khi con hoàn thành chúng. Điều mà cha không thể nào biết là con chắc chắn quay về căn phòng của mình để làm lại chúng lần thứ ba. Con thường thiếp đi trên bàn học. Khi con tỉnh dậy, con lại lật sang trang và tiếp tục đọc.

Khi kỳ thi đến gần, con rất biết ơn rằng cha luôn gắng sắp xếp được thời gian để xem xét những bài luận và bài kiểm tra của con sau khi con hoàn thành chúng. Điều mà cha không thể nào biết là con chắc chắn quay về căn phòng của mình để làm lại chúng lần thứ ba. Con thường thiếp đi trên bàn học. Khi con tỉnh dậy, con lại lật sang trang và tiếp tục đọc.

Thậm chí ngay cả cha, thưa cha, người không có một chút tự cao, phù phiếm nào trong tâm hồn, cũng thấy khó khăn khi che giấu những giáo dân của mình niềm tự hào mà cha cảm thấy với tám điểm “A” trung thực của con, và phần thưởng một suất học bổng cao nhất con giành được tại McGill. Con băn khoăn tự hỏi không biết Christina có biết việc này hay không. Chắc cô ta có biết. Tên con đã được ghi bằng những tấm lá vàng, tươi rói trên Bảng Danh dự vào tuần lễ sau đó, vì thế chắc chắn sẽ có ai đó bảo cho cô ta biết.

°

° °

Có lẽ phải đến ba tháng sau, khi con học kỳ thứ nhất tại McGill thì con mới thấy lại cô ta. Cha có nhớ đã dẫn con đi xem vở “Thánh Joan” ở Nhà hát Centaur không? Cô ta ngồi phía trước chúng ta, cách mấy hàng ghế, cùng với cha mẹ và một sinh viên năm thứ hai tên là Bob Richards. Ông đô đốc và bà vợ trông khá khắt khe và rất nghiệm nghị, nhưng không phải là không đáng mến. Trong thời gian nghỉ giữa giờ, con dõi theo cô ta cười đùa vui với họ, hiển nhiên cô ta đang vui vè, thoải mái. Con hầu như không xem vở “Thánh Joan”, và mặc dù con không rời mắt khỏi Christina, cô ấy vẫn không nhận thấy con lần nào. Con chỉ muốn được ở trên sân khấu diễn vai Dauphin để cô nàng sẽ phải nhìn vào con.

°

° °

Có lẽ phải đến ba tháng sau, khi con học kỳ thứ nhất tại McGill thì con mới thấy lại cô ta. Cha có nhớ đã dẫn con đi xem vở “Thánh Joan” ở Nhà hát Centaur không? Cô ta ngồi phía trước chúng ta, cách mấy hàng ghế, cùng với cha mẹ và một sinh viên năm thứ hai tên là Bob Richards. Ông đô đốc và bà vợ trông khá khắt khe và rất nghiệm nghị, nhưng không phải là không đáng mến. Trong thời gian nghỉ giữa giờ, con dõi theo cô ta cười đùa vui với họ, hiển nhiên cô ta đang vui vè, thoải mái. Con hầu như không xem vở “Thánh Joan”, và mặc dù con không rời mắt khỏi Christina, cô ấy vẫn không nhận thấy con lần nào. Con chỉ muốn được ở trên sân khấu diễn vai Dauphin để cô nàng sẽ phải nhìn vào con.

Khi ánh màn khép lại, cô ta và Bob Richards để lại cha mẹ cô và đi về phía lối ra. Con đi theo hai người bọn họ, ra khỏi phòng giải lao và vào sân đậu xe, dõi theo họ bước lên một chiếc xe hơi Thunerbird. Ôi, một chiếc Thunderbird cơ chứ! Con nhớ là đã mong có một ngày nào đó có thể đủ tiền sắm được một chiếc áo cánh, chứ đừng nói là một chiếc Thunderbird.

Kể từ giờ phút đó cô ta đã ở trong tâm trí con bất cứ khi nào con tập luyện, bất cứ nơi đâu con làm, và thậm chí cả khi con ngủ. Con tìm hiểu mọi điều mà con có thể về anh chàng Bob Richards và biết được rằng anh ta đều được mọi người quen biết quý mến.

Lần đầu tiên trong đời con căm ghét mình là một người Do Thái.

Lần kế tiếp khi con gặp Christina, con e sợ rằng có điều gì đó sẽ xảy ra. Đó là chặng khởi đầu của cuộc chạy đua một dặm với Viện Đại học Vancouver, với tư cách là sinh viên mới nhập trường, con đã may mắn được chọn làm đại diện cho trường Đại học McGill. Khi con ra tới đường chạy để làm ấm người lên, con nhìn thấy cô ta đang ngồi ở hàng ghế thứ ba trên khán đài, bên cạnh Richards. Họ đang nắm tay nhau.

Con là người nhào đi sau cùng khi khẩu súng của người phát lệnh khởi động nổ vang, nhưng khi chúng con nhập vào đoạn đường thẳng về đích con đã vượt lên ở vị trí thứ năm. Trước mặt là đám đông lớn nhất mà con từng chạy, khi con đến được đoạn thẳng về đích, con chờ tiếng hét: “Thằng Do Thái!”. Thế nhưng không xảy ra điều gì. Con phân vân tự hỏi phải chăng cô ta không nhận thấy con có mặt trong cuộc chạy đua. Nhưng mà cô ta đã nhận thấy, bởi vì khi con chạy tới khúc cua, có có thể nghe thấy giọng nói cô ta rõ ràng: “Cố lên, Benjamin, cậu phải chiến thắng!”, cô ta hét to.

Con muốn quay lại nhìn để chắc chắn chính Christina là người đã hét lên như vậy. Một phần tư dặm đường nữa thì con lại chạy ngang qua cô ta, vào lúc đó thì con đã vượt lên ở vị trí thứ ba, và con có thể nghe thấy cô ta rõ ràng: “Cố lên, Benjamin, cậu làm được mà!”.

Lần kế tiếp khi con gặp Christina, con e sợ rằng có điều gì đó sẽ xảy ra. Đó là chặng khởi đầu của cuộc chạy đua một dặm với Viện Đại học Vancouver, với tư cách là sinh viên mới nhập trường, con đã may mắn được chọn làm đại diện cho trường Đại học McGill. Khi con ra tới đường chạy để làm ấm người lên, con nhìn thấy cô ta đang ngồi ở hàng ghế thứ ba trên khán đài, bên cạnh Richards. Họ đang nắm tay nhau.

Con là người nhào đi sau cùng khi khẩu súng của người phát lệnh khởi động nổ vang, nhưng khi chúng con nhập vào đoạn đường thẳng về đích con đã vượt lên ở vị trí thứ năm. Trước mặt là đám đông lớn nhất mà con từng chạy, khi con đến được đoạn thẳng về đích, con chờ tiếng hét: “Thằng Do Thái!”. Thế nhưng không xảy ra điều gì. Con phân vân tự hỏi phải chăng cô ta không nhận thấy con có mặt trong cuộc chạy đua. Nhưng mà cô ta đã nhận thấy, bởi vì khi con chạy tới khúc cua, có có thể nghe thấy giọng nói cô ta rõ ràng: “Cố lên, Benjamin, cậu phải chiến thắng!”, cô ta hét to.

Con muốn quay lại nhìn để chắc chắn chính Christina là người đã hét lên như vậy. Một phần tư dặm đường nữa thì con lại chạy ngang qua cô ta, vào lúc đó thì con đã vượt lên ở vị trí thứ ba, và con có thể nghe thấy cô ta rõ ràng: “Cố lên, Benjamin, cậu làm được mà!”.

Con lập tức dẫn đầu bởi vì tất cả những điều con muốn làm là quay lại với cô ta. Con cứ xông lên chẳng hề nghĩ ngợi ai đang ở sau lưng mình, lúc con chạy ngang qua cô ta lần thứ ba con đã vượt quá đội hình mấy mét. “Cậu sắp thắng rồi!” cô ta hét to khi con cứ thế chạy để có thể về đích trong vòng ba phút tám giây, nhanh hơn mười một giây so với bất cứ lần chạy nào trước kia. Con nhớ con đã nghĩ rằng ai đó nên đưa vào những cuốn sách hướng dẫn luyện tập là tình yêu có thể làm giảm hai đến ba giây cho một vòng chạy.

Con dõi theo cô ấy suốt quãng đường áp đích và khi con nhập vào khúc cua sau cùng lần cuối, đám đông đứng hết cả lên. Con ngoái đầu lại để tìm cô ấy. Cô ấy đang nhảy lên, nhảy xuống, miệng hô to: “Coi chừng! Coi chừng,” mà con không hiểu tại sao cho tới khi con bị quân chủ bài số một của Vancouver qua mặt từ đường chạy bên trong, ông huấn luyện viên đã cảnh báo trước cho con là anh ta nổi tiếng với cú nước rút đầy sức mạnh. Con tới đích ở vị trí thứ hai phía sau anh ta mấy thước, nhưng con cứ tiếp tục chạy cho đến khi đã an toàn trong phòng thay đồ. Con ngồi một mình bên cạnh ngăn tủ đựng đồ của mình. Bốn phút mười bảy giây, có ai đó bảo con: nhanh hơn sáu giây so với bất kỳ lần nào trước đây. Nhưng mà chẳng ích gì. Con đứng dưới vòi hoa sen thật lâu, cố gắng tìm hiểu xem điều gì có thể làm cho cô ấy thay đổi thái độ như vậy.

Khi con rảo bước quay lại đường chạy, chỉ có những nhân viên phục vụ sân là còn ở đó. Con nhìn qua lần cuối dải băng cán đích trước khi bước nhanh đến Thư viện Forsyth. Con thấy không thể đối mặt trong cuộc họp thông thường của đội nhà, do đó con cố gắng ngồi xuống để viết một bài luận về các quyền đối với tài sản của người phụ nữ đã lập gia đình.

Khi con rảo bước quay lại đường chạy, chỉ có những nhân viên phục vụ sân là còn ở đó. Con nhìn qua lần cuối dải băng cán đích trước khi bước nhanh đến Thư viện Forsyth. Con thấy không thể đối mặt trong cuộc họp thông thường của đội nhà, do đó con cố gắng ngồi xuống để viết một bài luận về các quyền đối với tài sản của người phụ nữ đã lập gia đình.

Buổi tối thứ bảy đó, thư viện này gần như trống trơn, khi con đang làm tốt và chuyển sang trang thứ ba thì con nghe thấy một giọng nói vang lên, “Tôi hy vọng tôi không ngắt quãng những suy nghĩ của anh, thế nhưng anh đã không đến quán Joe’s.” Con nhìn lên và thấy Christina đang đứng ở phía bên kia chiếc bàn. Thưa cha, con chẳng biết nói gì nữa. Con chỉ có thể ngước nhìn chằm chặp vào sinh vật kiều diễm trong chiếc váy mini màu xanh lam rất hợp mốt và chiếc áo len bó sát người, tôn lên bộ ngực hoàn hảo nhất, và không thể nói gì.

“Tôi là người đã hét to “Thằng Do Thái” khi anh vẫn còn học ở trường trung học. Tôi đã cảm thấy rất xấu hỏ về việc ấy từ đó đến nay. Tôi đã muốn xin anh thứ lỗi vào cái đêm dạ hội khiêu vũ do trường trung học tổ chức, thế nhưng tôi đã không thể dồn đủ can đảm vì Greg có mặt ở đó”. Con gật đầu tỏ ý hiểu – con không thể nghĩ ra được bất cứ lời lẽ nào cho có vẻ thích hợp. “Tôi đã không bao giờ chuyện trò lại với anh ta,” cô ta bảo. “Nhưng mà tôi không cho là anh, thậm chí còn nhớ đến Greg”.

Con chỉ mỉm cười, và hỏi: “Uống chút cà phê nhé?”, cố gắng tỏ ra như thể là con sẽ chẳng lấy làm phiền ngì nếu cô ấy trả lời, “Tôi xin lỗi, tôi phải trở lại với anh Bob”.

“Tôi rất thích uống cà phê,” cô ấy bảo.

“Tôi là người đã hét to “Thằng Do Thái” khi anh vẫn còn học ở trường trung học. Tôi đã cảm thấy rất xấu hỏ về việc ấy từ đó đến nay. Tôi đã muốn xin anh thứ lỗi vào cái đêm dạ hội khiêu vũ do trường trung học tổ chức, thế nhưng tôi đã không thể dồn đủ can đảm vì Greg có mặt ở đó”. Con gật đầu tỏ ý hiểu – con không thể nghĩ ra được bất cứ lời lẽ nào cho có vẻ thích hợp. “Tôi đã không bao giờ chuyện trò lại với anh ta,” cô ta bảo. “Nhưng mà tôi không cho là anh, thậm chí còn nhớ đến Greg”.

Con chỉ mỉm cười, và hỏi: “Uống chút cà phê nhé?”, cố gắng tỏ ra như thể là con sẽ chẳng lấy làm phiền ngì nếu cô ấy trả lời, “Tôi xin lỗi, tôi phải trở lại với anh Bob”.

“Tôi rất thích uống cà phê,” cô ấy bảo.

Con dẫn cô ấy lại quầy cà phê thư viện, đó là tất cả khả năng trang trải của con lúc đó. Cô ấy chẳng hề bận tâm giải thích về điều gì đã xảy ra với Bob Richards, và con cũng không bao giờ hỏi.

Christina có vẻ biết nhiều về con đến mức con cảm thấy bối rối. Cô ấy xin con tha thứ cho những lời mà cô ấy hét tại đường chạy ngày hôm đó hai năm về trước. Cô ấy không hề viện cớ gì hết, không đổ lỗi cho bất cứ ai khác, chỉ hỏi xin được tha thứ.

Christina có vẻ biết nhiều về con đến mức con cảm thấy bối rối. Cô ấy xin con tha thứ cho những lời mà cô ấy hét tại đường chạy ngày hôm đó hai năm về trước. Cô ấy không hề viện cớ gì hết, không đổ lỗi cho bất cứ ai khác, chỉ hỏi xin được tha thứ.

Christina bảo con là cô ấy đang hy vọng cùng nhập học với con tại McGill vào tháng chín để theo học lấy bằng tiếng Đức. “Một cơ hội quá tuyệt,” cô ấy thú nhận, “bởi vì nó là ngôn ngữ mẹ đẻ của tôi mà”.

Chúng con luôn ở bên nhau trong suốt thời gian còn lại của mùa hè đó. Chúng con xem lại vở ‘Thánh Joan’, và thậm chí còn xếp hàng để xem bộ phim ‘Bác sĩ No’, đang tạo nên một cơn sốt vào thời gian đó. Chúng con làm việc bên nhau, ăn với nhau, chơi với nhau, thế nhưng chúng con vẫn ngủ riêng.

Con nói ít về Christina với cha vào thời gian đó, thế nhưng con sẵn sàng đặt cược là cha đã biết con yêu nàng đến mức nào; con không bao giờ giấu nổi cha điều gì. Và sau tất cà những dạy dỗ của cha về sự tha thứ và cảm thông thì làm sao cha có thể không tán thành điều đó cơ chứ.

°

° °

Bất cứ khi nào con tới nhà Christina, con luôn luôn dược đối xử một cách lịch thiệp, thế nhưng gia đình nàng không thể che giấu vẻ không tán thành. Họ thốt ra những từ ngữ với một cố gắng cho con thấy rằng họ không bài Do Thái, nhưng thực ra thì họ cũng không ưa, và bất cứ khi nào con đả động vấn đề này với Christina, nàng đều bảo rằng con phản ứng thái quá. Cả hai chúng con đều biết là con không như thế. Họ hoàn toàn giản đơn nghĩ là con không xứng đáng với con gái của họ. Họ đã đúng nhưng điều đó không liên quan gì tới việc con là người Do Thái.

°

° °

Bất cứ khi nào con tới nhà Christina, con luôn luôn dược đối xử một cách lịch thiệp, thế nhưng gia đình nàng không thể che giấu vẻ không tán thành. Họ thốt ra những từ ngữ với một cố gắng cho con thấy rằng họ không bài Do Thái, nhưng thực ra thì họ cũng không ưa, và bất cứ khi nào con đả động vấn đề này với Christina, nàng đều bảo rằng con phản ứng thái quá. Cả hai chúng con đều biết là con không như thế. Họ hoàn toàn giản đơn nghĩ là con không xứng đáng với con gái của họ. Họ đã đúng nhưng điều đó không liên quan gì tới việc con là người Do Thái.

Con sẽ không bao giờ quên được lần đầu tiên chúng con ngủ với nhau. Đó là vào ngày mà Christina biết được nàng đã giành được một vị trí ở McGill.

Chúng con vào căn phòng của con lúc ba giờ để thay đồ chơi một ván ten nít. Con ôm ghì lấy nàng trong vòng tay và nghĩ là một giây phút ngắn ngủi nhưng chúng con đã không rời được nhau cho đến tận buổi sáng hôm sau. Không có cái gì được lập kế hoạch từ trước. Nhưng mà làm sao có thể như thế được, khi đó là lần đầu tiên cho cả hai đứa chúng con?

Con bảo con sẽ lấy nàng làm vợ – Chẳng phải tất cả đàn ông đều nói như thế trong lần đầu tiên hay sao? – Chỉ có điều con chỉ ngụ ý như vây.

Thế rồi vài tuần lễ sau đó Christina thấy tắt kinh. Con van vỉ nàng đừng lo sợ; và cả hai chúng con cùng chờ đợi thêm một tháng nữa, bởi vì Christina sợ phải đi khám bất cứ bác sỹ nào ở Montreal.

Nếu như con đã nói cho cha biết mọi điều lúc đó, thưa cha, có thể cuộc đời con đã đi theo một hướng khác. Thế nhưng con đã không nói, và chỉ có mỗi bản thân mình để mà đổ lỗi thôi.

Con bắt đầu lên kế hoạch cho một cuộc hôn lễ mà cả gia đình của Christina và cha đều không thể chấp nhận được, thế nhưng chúng con chẳng cần. Tình yêu không phân biệt cha mẹ, và chắc chắn là không phân biệt tôn giáo. Khi Christina tắt kinh lần thứ hai, con đồng ý rằng nàng nên bảo cho mẹ biết. Con hỏi nàng có muốn con có mặt cùng vào thời điểm đó không, thế nhưng Christina chỉ lắc đầu, và giải thích rằng nàng cảm thấy phải tự mình giáp mặt với họ.

“Anh sẽ đợi ở đây đến khi nào em quay trở lại,” con hứa.

Nàng mỉm cười. “Em sẽ quay lại, thậm chí, trước khi anh có thời gian để thay đổi ý định lấy em làm vợ”.

Con ngồi trong căn phòng của mình tại McGill suốt buổi chiều hoom đó, đọc sách và đi tới đi lui – chủ yếu là bước tới bước lui – thế nhưng Christina không quay lại, và con không đi tìm nàng cho đến khi trời tối. Con lén lần tới nhà nàng, trong suốt quãng thời gian đó, cố gắng tự thuyết phục mình bằng một lời giải thích giản đơn nào đó cho việc tại sao nàng chưa quay trở lại.

Khi con tới con đường nhà nàng, con thấy ánh đèn duy nhất sáng trong phòng ngủ của nàng, do đó con nghĩ chắc là nàng đang ở nhà một mình. Con bước qua cánh cổng đi lên hàng hiên trước nhà, gõ cửa và chờ đợi.

Bố cô ấy ra mở cửa.

“Anh muốn gì?” ông ta hỏi, đôi mắt của ông không rời con, dù chỉ trong chốc lát.

“Cháu yêu con gái bác,” con nói với ông ta, “và cháu muốn cưới cô ấy làm vợ”.

“Con bé sẽ không bao giờ lấy một người Do Thái làm chồng,” ông ta nói một cách đơn giản và đóng cửa lại. Con nhớ ông ta không sập cửa; ông ta chỉ đóng nó lại, điều này dường như làm cho sự việc, thậm chí càng thêm tệ hại.

Con đứng bên ngoài, dưới đường, mắt nhìn đăm đắm lên căn phòng của nàng hơn một tiếng đồng hồ, cho đến lúc ánh đèn tắt đi. Con lê bước về nhà. Con mường tượng đêm đó có một trận mưa phùn nhẹ và có rất ít người ngoài đường phố. Con cố gắng suy nghĩ xem con nên làm việc gì lúc đó, mặc dù tình huống của con xem ra có vẻ tuyệt vọng. Đêm hôm đó đi ngủ, con hy vọng vào một phép màu nhiệm. Con đã quên mất là những phép màu nhiệm là để dành cho những người Thiên chúa giáo, chứ không phải cho người Do Thái.

Đến sáng hôm sau con đã nghĩ ra một kế hoạch. Con gọi điện đến nhà Christina lúc tám giờ và suýt nữa dập ông nói xuống khi nghe thấy giọng nói ở đầu dây bên kia.

“Bà Von Braumer đây”.

“Christina có ở đó không, thưa bác?” Con hỏi thì thầm.

“Không, không có,” câu đáp lại lạnh nhạt.

“Thưa bác, cô ấy sẽ trở về vào lúc nào?” con hỏi.

“Không nhanh đâu,” bà ta nói và rồi đường dây bị cúp.

“Không nhanh dâu” rốt cuộc thành hơn một năm. Con viết thư từ, gọi điện thoại, hỏi thăm bè bạn cả ở trường học cũ và trường đại học nhưng không thể tìm ra họ đã mang nàng đi đâu.

Con ngồi trong căn phòng của mình tại McGill suốt buổi chiều hoom đó, đọc sách và đi tới đi lui – chủ yếu là bước tới bước lui – thế nhưng Christina không quay lại, và con không đi tìm nàng cho đến khi trời tối. Con lén lần tới nhà nàng, trong suốt quãng thời gian đó, cố gắng tự thuyết phục mình bằng một lời giải thích giản đơn nào đó cho việc tại sao nàng chưa quay trở lại.

Khi con tới con đường nhà nàng, con thấy ánh đèn duy nhất sáng trong phòng ngủ của nàng, do đó con nghĩ chắc là nàng đang ở nhà một mình. Con bước qua cánh cổng đi lên hàng hiên trước nhà, gõ cửa và chờ đợi.

Bố cô ấy ra mở cửa.

“Anh muốn gì?” ông ta hỏi, đôi mắt của ông không rời con, dù chỉ trong chốc lát.

“Cháu yêu con gái bác,” con nói với ông ta, “và cháu muốn cưới cô ấy làm vợ”.

“Con bé sẽ không bao giờ lấy một người Do Thái làm chồng,” ông ta nói một cách đơn giản và đóng cửa lại. Con nhớ ông ta không sập cửa; ông ta chỉ đóng nó lại, điều này dường như làm cho sự việc, thậm chí càng thêm tệ hại.

Con đứng bên ngoài, dưới đường, mắt nhìn đăm đắm lên căn phòng của nàng hơn một tiếng đồng hồ, cho đến lúc ánh đèn tắt đi. Con lê bước về nhà. Con mường tượng đêm đó có một trận mưa phùn nhẹ và có rất ít người ngoài đường phố. Con cố gắng suy nghĩ xem con nên làm việc gì lúc đó, mặc dù tình huống của con xem ra có vẻ tuyệt vọng. Đêm hôm đó đi ngủ, con hy vọng vào một phép màu nhiệm. Con đã quên mất là những phép màu nhiệm là để dành cho những người Thiên chúa giáo, chứ không phải cho người Do Thái.

Đến sáng hôm sau con đã nghĩ ra một kế hoạch. Con gọi điện đến nhà Christina lúc tám giờ và suýt nữa dập ông nói xuống khi nghe thấy giọng nói ở đầu dây bên kia.

“Bà Von Braumer đây”.

“Christina có ở đó không, thưa bác?” Con hỏi thì thầm.

“Không, không có,” câu đáp lại lạnh nhạt.

“Thưa bác, cô ấy sẽ trở về vào lúc nào?” con hỏi.

“Không nhanh đâu,” bà ta nói và rồi đường dây bị cúp.

“Không nhanh dâu” rốt cuộc thành hơn một năm. Con viết thư từ, gọi điện thoại, hỏi thăm bè bạn cả ở trường học cũ và trường đại học nhưng không thể tìm ra họ đã mang nàng đi đâu.

Rồi một hôm, không thông báo gì hết, nàng quay trở lại Montreal, theo sau là một ông chồng và đứa con của con. Con biết được những điều cay đắng này từ cô Naomi Goldblatz, người đã trông thấy và nhận ra ba người.

Con nhận được mấy dòng nhắn ngắn gọn của Christina quãng một tuần lễ sau đó, cầu xin con đừng cố gắng tiếp xúc với nàng một lần nào.

Con nhận được mấy dòng nhắn ngắn gọn của Christina quãng một tuần lễ sau đó, cầu xin con đừng cố gắng tiếp xúc với nàng một lần nào.

Con vừa bắt đầu năm học cuối cùng tại McGill và giống như một quý ông của thế kỷ mười tám, con thực hiện đúng điều mong ước của nàng không sai một ly và dành trọn tâm trí cho những kỳ thi cuối cùng. Nàng vẫn tiếp tục ám ảnh tâm trí con và con tự cho là mình may mắn vào thời điểm cuối năm học vì con nhận được một lời đề nghị vào học tại Trường luật Harvard.

Con rời Montreal đi Boston vào ngày 12 tháng 9 năm 1968.

Chắc cha băn khoăn muốn biết tại sao con không bao giờ về nhà lấy một lần trong suốt ba năm đó. Con biết sự không tán thành của cha. Nhờ có bà Goldblatz mà mọi người đều biết cha đứa con của Christina là ai và con cảm thấy sự cố tình vắng mặt như vậy có thể làm cho cuộc sống của cha dễ dàng hơn một chút.

°

° °

Ông giáo sĩ Do Thái tạm dừng khi ông hồi tưởng cảnh bà Goldblatz nói cho ông biết những điều mà bà ta suy nghĩ và cho là “trách nhiệm của bà ta”.

“Cô là một mụ chuyên thọc gậy bánh xe, gây chuyện bất hòa,” ông đã bảo bà ta như vậy. Đến thư bảy tuần đó, bà ta đã chuyển đến một giáo đường Do Thái khác và kể cho mọi người trong thị trấn biết rõ tại sao.

Ông tức giận bản thân mình hơn là đối với Benjamin. Lẽ ra ông nên đến thăm trường Harvard, để cho con trai ông biết rằng tình yêu của ông dành cho nó vẫn không thay đổi. Sức mạnh của lòng khoan dung, tha thứ ở ông là như vậy.

Ông lại một lần nữa cầm bức thư lên đọc.

Đánh máy:khachxa
Nguồn: VNthuquan - Thuvien Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 31 tháng 5 năm 2012