← Quay lại trang sách

Christina Rosenthal (tt)

người dịch: nguyễn đình chí, linh tâm

Christina Rosenthal (tt)

rong những năm học tại trường luật, con có nhiều bạn bè cả nam lẫn nữ, thế nhưng Christina hiếm khi nào rời khỏi tâm trí con lâu hơn vài giờ đồng hồ. Con đã viết hơn bốn mươi bức thư cho nàng trong lúc con ở Boston, nhưng không hề gửi đi một lá nào. Con thậm chí còn gọi điện thoại, nhưng mà không bao giờ là giọng nói của nàng trả lời. Mà nếu đúng là giọng nói của nàng, thì con thậm chí cũng không biết chắc con có nói điều gì không. Con chỉ muốn được nghe thấy giọng nàng.

Cha có khi nào muốn biết về những người phụ nữ trong cuộc sống của con không? Con đã có những cuộc tình chóng vánh với những cô gái thông minh như Radcliffe, một cô gái ham đọc sách luật, sách lịch sử và cả khoa học tự nhiên, cho đến một cô gái nhân viên bán hàng, cô này thì chẳng bao giờ đọc bất cứ cái gì. Cha có thể tưởng tượng được không, trong chính cái hành động yêu đương ấy, con vẫn luôn nghĩ về một người đàn bà khác? Con dường như thực hiện công việc như một cái máy được lái tự động, và thậm chí sự đam mê nồng nhiệt của con với môn chạy suy giảm xuống chỉ còn một giờ chạy thể dục mỗi ngày.

Khá lâu trước khi kết thúc năm học cuối, những công ty luật hàng đầu của New York, của Chicago và Toronto đã tới để phỏng vấn chúng con. Những chiếc chuông Harvard có thể được tin cậy để gõ rền vang ở khắp mọi nơi trên thế giới, nhưng dù vậy con vẫn rất ngạc nhiên trước cuộc thăm viếng của một thành viên cấp cao của Hãng luật Graham Douglas & Wilkins of Toronto. Nó không phải là một hãng nổi tiếng vì những thành viên Do Thái, thế nhưng con lại thích thú cái ý nghĩ rằng một ngày kia tiêu đề in trên đầu trang giấy của họ sẽ viết “Graham Douglas Wilkins & Rosenthal”. Thậm chí ngay cả cha của Christina chắc chắn cũng sẽ bị điều đó gây ấn tượng.

Và con tự thuyết phục bản thân nếu con sống và làm việc ở Toronto, chí ít nó cũng đủ xa xôi, cách trở để cho con có thể quên nàng đi, và biết đâu sự may rủi khiến con có thể tìm được ai đó mà con có thể nảy sinh tình cảm như vậy.

Công ty Graham Douglas & Wilkins tìm cho con một căn hộ rộng rãi, nhìn ra công viên và một mức lương khởi điểm rất tốt. Đáp lại, con làm việc tất cả mọi giờ mà Chúa của tất cả mọi người đã tạo ra. Con đã nghĩ họ đã quá thúc ép học hành tại McGill và tại Harvard, thì thưa cha, hóa ra đó mới chỉ là một cú tập rượt chay cho thế giới thực mà thôi. Tuy nhiên, con không phàn nàn. Công việc rất thú vị, và đạt được những phần thưởng vượt quá sự mong đợi của con. Giờ đây con đã có thể tậu được một chiếc xe hơi Thunderbird, thì con lại không muốn có nó.

Những cô bạn gái mới đến, rồi đi ngay khi họ nói tới cưới xin. Những cô gái Do Thái thường đề cập đến chủ đề này chỉ sau quãng một tuần lễ, những cô không phải Do Thái thì con thấy chờ đợi lâu hơn một chút. Con thậm chí bắt đầu sống với một cô gái trong số họ, đó là Rebecca Wertz, nhưng cuộc tình này cũng chấm dứt vào một ngày thứ năm.

Sáng hôm đó, khi con đang lái xe đến văn phòng, chắc lúc đó hơn tám giờ một chút, lúc này đã hơi muộn thì con trông thấy Christina ở phía bên kia con đường cao tốc tấp nập xe cộ. Một thanh barie ngăn cách chúng con. Nàng đang đứng tại một bến đỗ xe buýt, đang năm tay một cậu bé con, nó chắc là trạc năm tuổi – thằng con trai của con.

Xe cộ dày đặc buổi sáng cho phép con nhìn nàng thêm một lát đầy ngạc nhiên. Con nhận thấy con rất muốn nhìn thấy cả hai mẹ con họ cùng một lúc. Nàng mặc một chiếc áo choàng mỏng dài, cho thấy nàng vẫn giữ được một dáng hình đẹp mảnh mai. Khuôn mặt nàng thanh thản và điều này nhắc nhở con lý do vì sao hiếm khi nàng rời khỏi tâm trí con. Thằng con trai nàng – con trai của chúng con – mặc một chiếc áo khoác vải len thô, rộng quá khổ và đầu nó đội một chiếc mũ lưỡi trai bóng chày cho thấy thằng bé ủng hộ cho đội Cá heo Toronto. Thật là không may vì nó thực sự ngăn cho con không thấy được mặt mũi thằng bé coi ra sao. Con còn nhớ đã nghĩ: Nàng không thể ở Toronto được, đáng ra nàng phải ở Montreal chứ. Con nhìn theo hai mẹ con nàng qua chiếc gương bên khi họ leo lên một chiếc xe buýt. Ngày thứ năm đặc biệt đó, chắc con phải là một luật sư kinh khủng đối với hết thảy mọi thân chủ tìm kiếm những lời khuyên của con.

Trong tuần lễ tiếp theo, mỗi buổi sáng con đều đi ngang qua bến đỗ xe buýt ấy trong thời gian vài phút suýt soát với giờ mà con đã trông thấy họ đứng ở đó, thế nhưng không bao giờ con trông thấy họ nữa. Con bắt đầu băn khoăn tự hỏi phải chăng mình đã tưởng tượng ra toàn bộ cảnh tượng đó. Thế rồi con lại trông thấy nàng, sau khi con đi thăm một thân chủ và đang quay trở về qua thành phố. Nàng chỉ có một mình và con đạp phanh dữ dội khi con trông thấy nàng đi vào một cửa hiệu trên phố Bloor Street. Lần này con đỗ xe cẩn thận và rảo bước nhanh nhẹn sang đường, cảm giác như một anh thám tử tư nhếch nhác, người dành cả cuộc đời mình nhìn qua những lỗ khóa.

Điều con trông thấy làm con ngạc nhiên. Không phải con tìm thấy nàng trong một cửa hiệu bán quần áo thời trang, mà con phát hiện ra đó là nơi nàng làm việc.

Lúc đó con thấy nàng dang phục vụ một khách hàng, con nhanh chóng quay trở lại xe. Khi con về đến văn phòng con hỏi cô thư ký của mình xem cô ta có biết một cửa hiệu tên là “Willing’s” không.

Cô thư ký của con cười lớn. “Ông phải đọc nó theo cách của người Đức, chữ W trở thành chữ V,” cô ta giải thích, “do đó phải là “Villing’s”. Nếu như ông đã lập gia đình thì ông sẽ biết nó là cửa hiệu quần áo đắt tiền nhất trong thành phố,” cô ta nói thêm.

“Cô có biết gì thêm về chỗ đó không?” Con hỏi, cố gắng giữ giọng bình thường.

“Không nhiều lắm,” cô ta bảo. “Chỉ biết nó do một quý bà người Đức tên là Klaus Willing sở hữu, bà ta thường hay được viết trong những tạp chí của phụ nữ”.

Con không cần phải hỏi cô thư ký của con thêm câu hỏi nào nữa và thưa cha, con sẽ không gây phiền phức cho cha vì những hoạt động thám tử của con. Được trang bị với những mẩu thông tin đó, con không mất nhiều thời gian để khám phá ra Christina ở đâu, rằng chồng nàng là một giám đốc hải ngoại của BMW, và họ chỉ có một đứa con.

Cha có khi nào muốn biết về những người phụ nữ trong cuộc sống của con không? Con đã có những cuộc tình chóng vánh với những cô gái thông minh như Radcliffe, một cô gái ham đọc sách luật, sách lịch sử và cả khoa học tự nhiên, cho đến một cô gái nhân viên bán hàng, cô này thì chẳng bao giờ đọc bất cứ cái gì. Cha có thể tưởng tượng được không, trong chính cái hành động yêu đương ấy, con vẫn luôn nghĩ về một người đàn bà khác? Con dường như thực hiện công việc như một cái máy được lái tự động, và thậm chí sự đam mê nồng nhiệt của con với môn chạy suy giảm xuống chỉ còn một giờ chạy thể dục mỗi ngày.

Khá lâu trước khi kết thúc năm học cuối, những công ty luật hàng đầu của New York, của Chicago và Toronto đã tới để phỏng vấn chúng con. Những chiếc chuông Harvard có thể được tin cậy để gõ rền vang ở khắp mọi nơi trên thế giới, nhưng dù vậy con vẫn rất ngạc nhiên trước cuộc thăm viếng của một thành viên cấp cao của Hãng luật Graham Douglas & Wilkins of Toronto. Nó không phải là một hãng nổi tiếng vì những thành viên Do Thái, thế nhưng con lại thích thú cái ý nghĩ rằng một ngày kia tiêu đề in trên đầu trang giấy của họ sẽ viết “Graham Douglas Wilkins & Rosenthal”. Thậm chí ngay cả cha của Christina chắc chắn cũng sẽ bị điều đó gây ấn tượng.

Và con tự thuyết phục bản thân nếu con sống và làm việc ở Toronto, chí ít nó cũng đủ xa xôi, cách trở để cho con có thể quên nàng đi, và biết đâu sự may rủi khiến con có thể tìm được ai đó mà con có thể nảy sinh tình cảm như vậy.

Công ty Graham Douglas & Wilkins tìm cho con một căn hộ rộng rãi, nhìn ra công viên và một mức lương khởi điểm rất tốt. Đáp lại, con làm việc tất cả mọi giờ mà Chúa của tất cả mọi người đã tạo ra. Con đã nghĩ họ đã quá thúc ép học hành tại McGill và tại Harvard, thì thưa cha, hóa ra đó mới chỉ là một cú tập rượt chay cho thế giới thực mà thôi. Tuy nhiên, con không phàn nàn. Công việc rất thú vị, và đạt được những phần thưởng vượt quá sự mong đợi của con. Giờ đây con đã có thể tậu được một chiếc xe hơi Thunderbird, thì con lại không muốn có nó.

Những cô bạn gái mới đến, rồi đi ngay khi họ nói tới cưới xin. Những cô gái Do Thái thường đề cập đến chủ đề này chỉ sau quãng một tuần lễ, những cô không phải Do Thái thì con thấy chờ đợi lâu hơn một chút. Con thậm chí bắt đầu sống với một cô gái trong số họ, đó là Rebecca Wertz, nhưng cuộc tình này cũng chấm dứt vào một ngày thứ năm.

Sáng hôm đó, khi con đang lái xe đến văn phòng, chắc lúc đó hơn tám giờ một chút, lúc này đã hơi muộn thì con trông thấy Christina ở phía bên kia con đường cao tốc tấp nập xe cộ. Một thanh barie ngăn cách chúng con. Nàng đang đứng tại một bến đỗ xe buýt, đang năm tay một cậu bé con, nó chắc là trạc năm tuổi – thằng con trai của con.

Xe cộ dày đặc buổi sáng cho phép con nhìn nàng thêm một lát đầy ngạc nhiên. Con nhận thấy con rất muốn nhìn thấy cả hai mẹ con họ cùng một lúc. Nàng mặc một chiếc áo choàng mỏng dài, cho thấy nàng vẫn giữ được một dáng hình đẹp mảnh mai. Khuôn mặt nàng thanh thản và điều này nhắc nhở con lý do vì sao hiếm khi nàng rời khỏi tâm trí con. Thằng con trai nàng – con trai của chúng con – mặc một chiếc áo khoác vải len thô, rộng quá khổ và đầu nó đội một chiếc mũ lưỡi trai bóng chày cho thấy thằng bé ủng hộ cho đội Cá heo Toronto. Thật là không may vì nó thực sự ngăn cho con không thấy được mặt mũi thằng bé coi ra sao. Con còn nhớ đã nghĩ: Nàng không thể ở Toronto được, đáng ra nàng phải ở Montreal chứ. Con nhìn theo hai mẹ con nàng qua chiếc gương bên khi họ leo lên một chiếc xe buýt. Ngày thứ năm đặc biệt đó, chắc con phải là một luật sư kinh khủng đối với hết thảy mọi thân chủ tìm kiếm những lời khuyên của con.

Trong tuần lễ tiếp theo, mỗi buổi sáng con đều đi ngang qua bến đỗ xe buýt ấy trong thời gian vài phút suýt soát với giờ mà con đã trông thấy họ đứng ở đó, thế nhưng không bao giờ con trông thấy họ nữa. Con bắt đầu băn khoăn tự hỏi phải chăng mình đã tưởng tượng ra toàn bộ cảnh tượng đó. Thế rồi con lại trông thấy nàng, sau khi con đi thăm một thân chủ và đang quay trở về qua thành phố. Nàng chỉ có một mình và con đạp phanh dữ dội khi con trông thấy nàng đi vào một cửa hiệu trên phố Bloor Street. Lần này con đỗ xe cẩn thận và rảo bước nhanh nhẹn sang đường, cảm giác như một anh thám tử tư nhếch nhác, người dành cả cuộc đời mình nhìn qua những lỗ khóa.

Điều con trông thấy làm con ngạc nhiên. Không phải con tìm thấy nàng trong một cửa hiệu bán quần áo thời trang, mà con phát hiện ra đó là nơi nàng làm việc.

Lúc đó con thấy nàng dang phục vụ một khách hàng, con nhanh chóng quay trở lại xe. Khi con về đến văn phòng con hỏi cô thư ký của mình xem cô ta có biết một cửa hiệu tên là “Willing’s” không.

Cô thư ký của con cười lớn. “Ông phải đọc nó theo cách của người Đức, chữ W trở thành chữ V,” cô ta giải thích, “do đó phải là “Villing’s”. Nếu như ông đã lập gia đình thì ông sẽ biết nó là cửa hiệu quần áo đắt tiền nhất trong thành phố,” cô ta nói thêm.

“Cô có biết gì thêm về chỗ đó không?” Con hỏi, cố gắng giữ giọng bình thường.

“Không nhiều lắm,” cô ta bảo. “Chỉ biết nó do một quý bà người Đức tên là Klaus Willing sở hữu, bà ta thường hay được viết trong những tạp chí của phụ nữ”.

Con không cần phải hỏi cô thư ký của con thêm câu hỏi nào nữa và thưa cha, con sẽ không gây phiền phức cho cha vì những hoạt động thám tử của con. Được trang bị với những mẩu thông tin đó, con không mất nhiều thời gian để khám phá ra Christina ở đâu, rằng chồng nàng là một giám đốc hải ngoại của BMW, và họ chỉ có một đứa con.

°

° °

Ông giáo sĩ già thở nặng ngọc khi ông liếc nhìn lên chiếc đồng hồ trên mặt bàn, theo một thói quen hơn là muốn biết được giờ giấc. Ông tạm dừng một lát trước khi quay lại với lá thư. Ông đã tự hào đến thế về thằng con trai luật sư của mình lúc đó; tại sao ông đã không thiết lập những bước đầu tiên để hướng tới một sự hòa hợp? Ông ước muốn được trông thấy thằng cháu nội làm sao.

°

° °

Quyết định cuối cùng của con không đòi hỏi một bộ óc hiểu luật pháp sâu sắc, mà chỉ cần một chút lương tri – mặc dù một luật sư mà tự khuyên chính mình thì không nghi ngờ gì nữa, đó là một luật sư ngu dốt với các thân chủ. Con quyết định phải tiếp xúc trực tiếp và một bức thư là phương pháp duy nhất mà con cảm thấy Christina sẽ có thể chấp nhận.

Con viết một thông điệp đơn giản vào buổi sáng thứ hai đó, và viết đi viết lại mấy lần trước khi con điện thoại cho “chuyển phát nhanh Fleet”, nhờ họ đưa trực tiếp cho cô ấy tại cửa hiệu. Khi người thanh niên mang bức thư đi khỏi, con muốn đi theo anh ta, chỉ để chắc chắn anh ta sẽ trao nó cho đúng người. Con vẫn có thể lặp lại từng chữ một.

Con viết một thông điệp đơn giản vào buổi sáng thứ hai đó, và viết đi viết lại mấy lần trước khi con điện thoại cho “chuyển phát nhanh Fleet”, nhờ họ đưa trực tiếp cho cô ấy tại cửa hiệu. Khi người thanh niên mang bức thư đi khỏi, con muốn đi theo anh ta, chỉ để chắc chắn anh ta sẽ trao nó cho đúng người. Con vẫn có thể lặp lại từng chữ một.

Christina thân yêu,

Chắc em biết anh sống và làm việc ở Toronto. Chúng ta gặp nhau được không? Anh sẽ đợi em tại phòng khách của khách sạn Royal York mọi buổi tối từ sáu đến bảy giờ tuần này. Nếu em không đến, em hãy cứ yên tâm anh sẽ không bao giờ làm phiền em nữa.

Chắc em biết anh sống và làm việc ở Toronto. Chúng ta gặp nhau được không? Anh sẽ đợi em tại phòng khách của khách sạn Royal York mọi buổi tối từ sáu đến bảy giờ tuần này. Nếu em không đến, em hãy cứ yên tâm anh sẽ không bao giờ làm phiền em nữa.

Benjamin.

Tối hôm đó con đến sớm gần ba mươi phút. Con nhớ con đã chọn một chỗ ngồi trong một căn phòng khách lớn độc lập bên cạnh gian sảnh chính và gọi cà phê.

“Có ai sẽ đi cùng ngài không, thưa ngài?” anh bồi hỏi.

“Tôi không biết chắc,” con bảo anh ta. Không có ai đến, nhưng con vẫn loanh quanh ở đó đến bảy giờ bốn mươi.

“Có ai sẽ đi cùng ngài không, thưa ngài?” anh bồi hỏi.

“Tôi không biết chắc,” con bảo anh ta. Không có ai đến, nhưng con vẫn loanh quanh ở đó đến bảy giờ bốn mươi.

Đến thứ năm thì anh bồi thôi không hỏi có ai đi cùng con nữa không, con vẫn ngồi một mình, và thêm một tách cà phê nữa lại nguội lạnh. Cứ mấy phút con lại xem đồng hộ. Mỗi lần có một người phụ nữ tóc vàng đi vào gian sảnh, trái tim con lại nhảy dựng lên, nhưng đó không bao giờ là người đàn bà mà con hy vọng.

Sau cùng, vào lúc gần bảy giờ ngày thứ sáu, con thấy Christina đứng trên ngưỡng cửa. Nàng mặc một bộ đồ xanh lơ thanh nhã, cài khuy gần như đến tận cổ và một chiếc áo cánh trắng, trông nàng như đang trên đường tới dự một cuộc họi thảo kinh doanh mái tóc dài màu vàng của nàng được vuốt ra sau tai tạo một dáng vẻ nghiêm nghị, nhưng nàng có cố gắng thay đổi như thế nào chăng nữa, sắc đẹp của nàng vẫn không hề suy giảm. Con đứng dậy và giơ cao cánh tay lên. Nàng nhanh nhẹn bước tới và ngồi xuống bên cạnh con. Chúng con không hôn hay bắt tay nhau và thậm chí khong nói gì một lúc.

“Cảm ơn em đã đến,” con bảo.

“Em không nên đến, thật là ngốc ngếch.”

Một quãng thời gian trôi qua và cả hai chúng con vẫn ngồi yên lặng.

“Anh rót cà phê cho em nhe?” con hỏi.

“Vâng, cảm ơn”.

“Đen chứ?”

“Vâng”.

“Em vẫn không thay đổi.”

Tất cả mới tầm thường, vô vị làm sao nếu có ai đó nghe trộm được.

“Cảm ơn em đã đến,” con bảo.

“Em không nên đến, thật là ngốc ngếch.”

Một quãng thời gian trôi qua và cả hai chúng con vẫn ngồi yên lặng.

“Anh rót cà phê cho em nhe?” con hỏi.

“Vâng, cảm ơn”.

“Đen chứ?”

“Vâng”.

“Em vẫn không thay đổi.”

Tất cả mới tầm thường, vô vị làm sao nếu có ai đó nghe trộm được.

Nàng nhấp tách cà phê.

Con đáng lẽ phải ôm ghì nàng trong vòng tay ngay lúc đó nhưng con chẳng thể biết được nàng muốn gì. Trong mấy phút liền, chúng con nói về những chuyện chẳng đâu vào đâu cả, luôn tránh ánh mắt của nhau, cho đến khi bỗng dưng con nói, “Em có nhận thấy rằng anh vẫn còn yêu em không?”

Nước mắt dần dâng lên, nàng trả lời, “Tất nhiên là em biết. Em vẫn cảm thẫy như thế về anh lúc này đây, cũng như em đã cảm thấy vào cái ngày chúng ta chia lìa nhau. Và đừng quên em phải nhìn thấy anh hàng ngày, qua Nicholas.”

Nàng rướn người lên và nói gần như thì thầm. Nàng kể cho con về buổi nói chuyện với cha mẹ hơn năm năm trước mà cứ như thẻ chúng con chưa bị chia lìa trong khoảng thời gian đó. Cha nàng đã không tỏ ra tức giận khi ông ta biết nàng đã có thai, nhưng cả gia đình nàng vẫn chuyển đi Vancouver vào buổi sáng hôm sau. Tại đó, họ sống ở nhà gia đình Willings, một gia đình cũng đến từ Munich, họ là những người bạn cũ của gia đình von Braumers. Người con trai của họ, Klaus đã luôn mụ mẫm người vì yêu Christina, và không quan trọng gì việc Christina đã có mang, thậm chí thực tế là nàng chẳng có tình cảm gì với anh ta. Anh ta tin tưởng rằng, với thời gian, mọi việc sẽ đều trôi chảy và sẽ tốt đẹp.

Mọi việc đã không như vậy, bởi vì nó không thể nào như vậy được. Christina đã luôn luôn biết mọi sự sẽ không bao giờ ổn thỏa, cho dù Klaus cố gắng thế nào đi nữa. Họ thậm chí còn rời Montreal nhằm nỗ lực cải thiện tình hình. Klaus mua cho nàng một cửa hiệu ở Toronto và mọi thứ xa xỉ mà tiền bạc có thể mua được, thế nhưng cũng chẳng thay đổi được gì. Cuộc hôn nhân của họ rõ ràng là một sự giả tạo. Tuy nhiên họ không thể vì chính bản thân mình mà ly hôn để làm cho hai bên gia đình thêm đau khổ, thế là họ đã sống những cuộc sống riêng ngay từ đầu.

Sau khi Christina kết thúc câu chuyện của nàng, con đặt tay lên má nàng và nàng nắm lấy bàn tay con và hôn lên đó. Kể từ giây phút đó chúng con gặp gỡ nhau vào mọi khoảng thời gian rỗi rãi có thể lẻn đi được, bất kể ngày hay đêm. Đó là những năm tháng hạnh phúc nhất trong cuộc đời con, và con đã không thể che giấu bất cứ ai tình cảm của con.

Cuộc tình của chúng con – đó là cách mà các lời đồn đại đang miêu tả nó – không tránh khỏi trở thành công khai. Dù chúng con có cố gắng tỏ ra kín đáo đến thế nào chăng nữa, con nhanh chóng phát hiện Toronto là một nơi quá nhỏ bé, đầy rẫy những kẻ vui sướng trong việc kể cho những người mà chúng con cũng thương yêu, rằng thường hay bắt gặp chúng con đi với nhau, thậm chí rời khỏi nhà con vào sáng sớm.

Thế rồi bỗng nhiên chúng con hoàn toàn không có sự lựa chọn nào nữa: Christina bảo con nàng lại có mang lần nữa. Có điều lần này cả hai đứa chúng con đều không có gì phải sợ.

Khi Christina nói cho Klaus biết, việc thỏa thuận giải quyết diễn ra chóng vánh như khi viên luật sư cừ nhất của Graham Douglas & Wilkins có thể dàn xếp thương lượng. Chúng con tổ chức lễ thành hôn chỉ vài ngày sau khi các giấy tờ ly hôn cuối cùng được ký kết. Cả hai đứa chúng con đều thấy hối tiếc rằng cha mẹ Christina cảm thấy không thể tham dự lễ cưới, thế nhưng con không thể hiểu được tại làm sao cha đã không đến dự.

Khi Christina nói cho Klaus biết, việc thỏa thuận giải quyết diễn ra chóng vánh như khi viên luật sư cừ nhất của Graham Douglas & Wilkins có thể dàn xếp thương lượng. Chúng con tổ chức lễ thành hôn chỉ vài ngày sau khi các giấy tờ ly hôn cuối cùng được ký kết. Cả hai đứa chúng con đều thấy hối tiếc rằng cha mẹ Christina cảm thấy không thể tham dự lễ cưới, thế nhưng con không thể hiểu được tại làm sao cha đã không đến dự.

°

° °

Ông giáo sĩ Do Thái vẫn không thể tin sự không khoan dung và tầm nhìn thiển cận của chính mình. Những yêu cầu đối với một người Do Thái chính thống nên được từ bỏ nếu điều đó có nghĩa là mình mất đi thằng con trai độc nhất. Ông đã tra cứu cuốn Tamud (luật lệ và truyền thống Do Thái) một cách vô ích, hòng tìm bất cứ một trích đoạn nào đó sẽ cho phép ông phá bỏ lời nguyền của đời ông. Vô ích.

°

° °

Việc đáng buồn duy nhất của vụ giải quyết ly hôn là Klaus được trao quyền nuôi giữ đứa con của chúng con. Và để đổi lấy một vụ ly hôn nhanh chóng, anh ta cũng yêu cầu con không được phép gặp Nicholas trước sinh nhật lần thứ hai mươi mốt của nó, và con không được bảo cho nó biết chính con là cha đẻ của nó. Vào lúc đó, điều này như là một cái giá đắt phải trả, thậm chí cho một niềm hạnh phúc đến như thế. Chúng con đều biết không có sự lựa chọn nào khác là phải chấp nhận những điều kiện của anh ta.

Con thường tự hỏi làm sao từng ngày đang tới lại vui vẻ, hạnh phúc hơn những ngày qua đi đến thế. Nếu phải xa Christina lâu hơn một vài tiếng đồng hồ thì con luôn thấy nhớ nàng. Nếu công ty điều con đi công tác ra khỏi thành phố mất một đêm, con thường gọi điện thoại cho nàng hai, ba, có khi bốn lần, và nếu mà thời gian đó lâu hơn một đêm thì nàng sẽ đi cùng với con. Con còn nhớ một lần cha đã miêu tả tình yêu của cha dành cho mẹ con và phân vân liệu vào lúc nào đó con có thể hi vọng có được sự hạnh phúc như vậy.

Chúng con bắt đầu lập kế hoạch cho việc sinh nở đứa con của mình. Nếu đứa bé là con trai nàng sẽ chọn tên con là William; nếu đứa bé là con gái con sẽ chọn tên cho nó là Deborah. Con sơn căn phòng còn dư màu hồng, cứ như là con đã thắng cuộc rồi vậy.

Christina phải ngăn không cho con mua quá nhiều quần áo trẻ sơ sinh, thế nhưng con báo trước với nàng rằng sẽ hề hấn gì đâu, bởi vì chúng mình sắp sửa có thêm cả chục đứa con nữa. Con nhắc nàng nhớ rằng người Do Thái thường tin tưởng vào các triều đại.

Christina thường xuyên tham dự các buổi tập thể dục, ăn kiêng kỹ lưỡng, nghỉ ngơi rất hợp lý. Con bảo với nàng là nàng đang làm tốt hơn rất nhiều những điều được đòi hỏi ở một bà mẹ, thậm chí là dành cho con gái của con nữa. Con hỏi liệu con có được phép có mặt khi đứa trẻ của chúng con chào đời và bác sỹ phụ khoa của cô ấy dù ban đầu có vẻ miễn cưỡng, nhưng rồi đã đồng ý. Khi tới tháng thứ chín, qua những sự rối rít, nhặng xị mà con đã gây ra chắc ở bệnh viện họ nghĩ là họ đang chuẩn bị cho việc sinh nở một vị hoàng tử của hoàng gia.

Con thường tự hỏi làm sao từng ngày đang tới lại vui vẻ, hạnh phúc hơn những ngày qua đi đến thế. Nếu phải xa Christina lâu hơn một vài tiếng đồng hồ thì con luôn thấy nhớ nàng. Nếu công ty điều con đi công tác ra khỏi thành phố mất một đêm, con thường gọi điện thoại cho nàng hai, ba, có khi bốn lần, và nếu mà thời gian đó lâu hơn một đêm thì nàng sẽ đi cùng với con. Con còn nhớ một lần cha đã miêu tả tình yêu của cha dành cho mẹ con và phân vân liệu vào lúc nào đó con có thể hi vọng có được sự hạnh phúc như vậy.

Chúng con bắt đầu lập kế hoạch cho việc sinh nở đứa con của mình. Nếu đứa bé là con trai nàng sẽ chọn tên con là William; nếu đứa bé là con gái con sẽ chọn tên cho nó là Deborah. Con sơn căn phòng còn dư màu hồng, cứ như là con đã thắng cuộc rồi vậy.

Christina phải ngăn không cho con mua quá nhiều quần áo trẻ sơ sinh, thế nhưng con báo trước với nàng rằng sẽ hề hấn gì đâu, bởi vì chúng mình sắp sửa có thêm cả chục đứa con nữa. Con nhắc nàng nhớ rằng người Do Thái thường tin tưởng vào các triều đại.

Christina thường xuyên tham dự các buổi tập thể dục, ăn kiêng kỹ lưỡng, nghỉ ngơi rất hợp lý. Con bảo với nàng là nàng đang làm tốt hơn rất nhiều những điều được đòi hỏi ở một bà mẹ, thậm chí là dành cho con gái của con nữa. Con hỏi liệu con có được phép có mặt khi đứa trẻ của chúng con chào đời và bác sỹ phụ khoa của cô ấy dù ban đầu có vẻ miễn cưỡng, nhưng rồi đã đồng ý. Khi tới tháng thứ chín, qua những sự rối rít, nhặng xị mà con đã gây ra chắc ở bệnh viện họ nghĩ là họ đang chuẩn bị cho việc sinh nở một vị hoàng tử của hoàng gia.

Con lái xe đưa Christina vào bệnh viện Phụ nữ của trường Đại học Y, tọa lạc trên trục đường con đi làm vào thứ ba tuần trước. Mặc dù tiếp tục đi tới văn phòng làm việc, nhưng con thấy không tài nào tập trung tư tưởng cho được. Bệnh viện gọi tới vào buổi chiều để nói họ cho rằng đứa bé sẽ được sinh ra vào lúc gần tối hôm đó; rõ ràng là Deborah không muốn phá vỡ giờ giấc làm việc của Graham Douglas & Wilkins. Tuy vậy, con vẫn có mặt tại bệnh viện rất sớm. Con ngồi ở cuối giường của Christina cho đến khi những cơn co thắt đến với nàng trong từng phút, rồi sau đó con ngạc nhiên thấy họ yêu cầu con đi ra. Một nữ y tá giải thích họ cần phải làm vỡ màng ối. Con nhờ cô ta nhắc nhở bà đỡ rằng con muốn được có mặt để chứng kiến cuộc sinh nở.

Con đi ra ngoài hành lang, và bắt đầu đi đi lại lại, như cách các ông bố tương lai trong những bộ phim có cảnh sinh nở. Bác sĩ phụ khoa có mặt sau đó quãng nửa tiếng và dành cho con một nụ cười rất tươi. Con nhận thấy có một điếu xì gì trong túi áo ngực của ông ta, chắc chắn là để dành sẵn cho các ông bố tương lại. “Sắp sinh rồi đấy,” ông ta chỉ nói có vậy.

Một bác sĩ thứ hai, người mà con chưa từng biết mặt, xuất hiện sau đó một vài phút và nhanh chóng đi vào phòng của nàng. Ông ta chỉ gật đầu với con. Con cảm thấy con giống như một người đứng trước vành móng ngựa, chờ đợi nghe phán quyết của bồi thẩm đoàn.

Một bác sĩ thứ hai, người mà con chưa từng biết mặt, xuất hiện sau đó một vài phút và nhanh chóng đi vào phòng của nàng. Ông ta chỉ gật đầu với con. Con cảm thấy con giống như một người đứng trước vành móng ngựa, chờ đợi nghe phán quyết của bồi thẩm đoàn.

Chắc phải ít nhất mười lăm phút trôi qua trước khi con thấy một nhóm gồm ba bác sỹ thực tập nội trú trẻ đang chuyển một cái gì đó dọc theo hành lang. Thậm chí họ không liếc mắt nhìn con lần thứ hai khi họ biến mất vào trong căn phòng của Christina.

Con nghe thấy những tiếng gào thét rồi bỗng nhiên nhường lại cho tiếng khóc rầu rĩ của một đứa bé vừa mới được sinh ra. Con cảm ơn Chúa của con và Chúa của nàng. Khi ông bác sĩ bước ra khỏi phòng nàng, con còn nhớ đã nhận ra rằng điếu xì gà đã không còn.

“Đó là một bé gái,” ông ta nói khẽ khàng. Con quá vui sướng. Cái ý nghĩ “Không cần phải quét sơn lại phòng ngủ ngay lập tức” lóe ngay lên trong đầu con.

“Tôi có thể vào với Christina bây giờ không?” con hỏi.

Ông ta nắm lấy cánh tay con và dẫn con đi ngang qua hành lang, bước vào văn phòng của ông ta.

“Anh có muốn ngồi xuống không?” ông ta hỏi. “Tôi sợ rằng tôi có tin buồn”

“Cô ấy ổn cả chứ?”

“Tôi rất lấy làm tiếc, thật vô cùng đáng tiếc, phải nói với anh rằng vợ anh đã chết.”

Ban đầu con không tin ông ta, con không thể tin ông ta. Tại sao? Tại sao? Con muốn gào lên.

“Chúng tôi đã cảnh báo cho bà ấy rồi,” ông ta nói thêm.

“Cảnh báo? Cảnh báo cô ấy về cái gì?”

“Rằng huyết áp của bà ấy có thể không chịu nổi việc sinh nở lần thứ hai.”

Christina đã không bao giờ nói cho con biết điều đó, ông bác sĩ tiếp tục giải thích “rằng việc sinh nở đứa con đầu tiên của chúng con đã là phức tạp, và rằng các bác sĩ đã khuyên nhủ cô ấy không nên có thai thêm lần nữa.”

“Tại sao cô ấy không nói cho tôi biết?” con hỏi. Thế rồi con nhận ra tại sao. Nàng đã mạo hiểm mọi thứ vì con – cái thằng ngu ngốc, ích kỷ, vô tâm là con đây – và cuối cùng, con đã giết chết chính người mà con yêu thương.

Họ cho phép con ôm bé Deborah trong vòng tay mình chỉ trong chốc lát trước khi họ đặt con bé vào trong một chiếc lồng nuôi trẻ đẻ non và bảo con là phải sau hai mươi bốn tiếng đồng hồ nữa thì con bé mới thoát khỏi tình trạng nguy cấp.

Ông ta nắm lấy cánh tay con và dẫn con đi ngang qua hành lang, bước vào văn phòng của ông ta.

“Anh có muốn ngồi xuống không?” ông ta hỏi. “Tôi sợ rằng tôi có tin buồn”

“Cô ấy ổn cả chứ?”

“Tôi rất lấy làm tiếc, thật vô cùng đáng tiếc, phải nói với anh rằng vợ anh đã chết.”

Ban đầu con không tin ông ta, con không thể tin ông ta. Tại sao? Tại sao? Con muốn gào lên.

“Chúng tôi đã cảnh báo cho bà ấy rồi,” ông ta nói thêm.

“Cảnh báo? Cảnh báo cô ấy về cái gì?”

“Rằng huyết áp của bà ấy có thể không chịu nổi việc sinh nở lần thứ hai.”

Christina đã không bao giờ nói cho con biết điều đó, ông bác sĩ tiếp tục giải thích “rằng việc sinh nở đứa con đầu tiên của chúng con đã là phức tạp, và rằng các bác sĩ đã khuyên nhủ cô ấy không nên có thai thêm lần nữa.”

“Tại sao cô ấy không nói cho tôi biết?” con hỏi. Thế rồi con nhận ra tại sao. Nàng đã mạo hiểm mọi thứ vì con – cái thằng ngu ngốc, ích kỷ, vô tâm là con đây – và cuối cùng, con đã giết chết chính người mà con yêu thương.

Họ cho phép con ôm bé Deborah trong vòng tay mình chỉ trong chốc lát trước khi họ đặt con bé vào trong một chiếc lồng nuôi trẻ đẻ non và bảo con là phải sau hai mươi bốn tiếng đồng hồ nữa thì con bé mới thoát khỏi tình trạng nguy cấp.

Cha sẽ không bao giờ biết được điều đó có ý nghĩa lớn lao đến như thế nào với con đâu, thưa cha, rằng cha đã đến bệnh viện nhanh chóng đến thế. Cha mẹ của Christina cũng tới nơi muộn hơn trong buổi tối đó. Họ thật cao quý. Cha nàng đã cầu xin sự tha thứ nơi con – cầu xin sự tha thứ của con. Ông ấy cứ luôn miệng nhắc lại việc này đã không bao giờ có thể xảy ra nếu như ông ấy đã không ngu ngốc và nặng nề thành kiến đến như thế.

Bà vợ ông ấy nắm lấy tay con và hỏi liệu bà ấy có được phép thỉnh thoảng đến thăm nom cháu Deborah. Tất nhiên con đã đồng ý. Họ đi khỏi ngay trước lúc nửa đêm. Con ngồi, đi lại, ngủ trong cái hành lang đó trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ kế tiếp, cho tới khi các bác sĩ bảo con rằng con gái con đã thoát khỏi tình trạng nguy ngập rồi. Con bé sẽ phải nằm trong bệnh viện thêm mấy ngày nữa, họ giải thích, nhưng con bé giờ đây đã có thể mút được sữa từ chai.

Bà vợ ông ấy nắm lấy tay con và hỏi liệu bà ấy có được phép thỉnh thoảng đến thăm nom cháu Deborah. Tất nhiên con đã đồng ý. Họ đi khỏi ngay trước lúc nửa đêm. Con ngồi, đi lại, ngủ trong cái hành lang đó trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ kế tiếp, cho tới khi các bác sĩ bảo con rằng con gái con đã thoát khỏi tình trạng nguy ngập rồi. Con bé sẽ phải nằm trong bệnh viện thêm mấy ngày nữa, họ giải thích, nhưng con bé giờ đây đã có thể mút được sữa từ chai.

Ông bố của Christina đã lo liệu việc tang lễ rất tử tế.

Chắc cha đã băn khoăn tại sao con không xuất hiện và con nợ cha một lời giải thích. Con nghĩ con sẽ ghé qua bệnh viện trên đường tới dự tang lễ để con có thể ở với bé Deborah trong giây lát. Con đã sẵn sàng chuyển đổi tình yêu của mình.

Ông bác sĩ không thể thốt nên lời. Phải là một người can đảm lắm khi bảo cho con biết rằng trái tim của con bé đã ngừng đập một vài phút trước khi con tới nơi. Thậm chí ông bác sĩ phẫu thuật cấp cao cũng rớt nước mắt. Khi con rời khỏi bệnh viện, các hành lang đều đã trống rỗng.

Con muốn cha biết, thưa cha, rằng con yêu thương cha với tất cả trái tim mình, nhưng con không có khát khao mong muốn sống phần còn lại cuộc đời mình mà thiếu vắng Christina hay Deborah.

Con chỉ yêu cầu được chôn cất bên cạnh vợ và con gái con, và được tưởng nhớ như là một người chồng, người cha của họ. Theo cách đó, những người vô tâm có thể học được từ tình yêu của chúng con. Và khi cha đọc xong bức thư này, chỉ cần nhớ rằng con đã có được hạnh phúc trọn vẹn khi con được ở bên nàng đến mức cái chết không có gì đáng sợ đối với con.

Con trai của cha,

Benjamin

Benjamin

Ông giáo sĩ Do Thái già đặt bức thư xuống mặt bàn trước mặt mình. Ông đã đọc nó mỗi ngày trong suốt mười năm qua.

HẾT

Đánh máy:khachxa
Nguồn: VNthuquan - Thuvien Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 31 tháng 5 năm 2012