← Quay lại trang sách

Chương 1 SAU CƠN LŨ (1957)
1

Theo những gì tôi biết và còn nhớ, nỗi sợ hãi dai dẳng suốt hai mươi tám năm ấy bắt đầu với một chiếc thuyền giấy bị cuốn trôi xuống rãnh nước ùng ục trong cơn mưa.

Con thuyền dập dềnh nghiêng ngả, đoạn cân bằng trở lại, trồi sụp đầy bản lĩnh lướt trên những xoáy nước hiểm ác, cứ thế trôi thẳng xuống đường Witcham về phía đèn giao thông đánh dấu ngã tư giao giữa đường Witcham và đường Jackson. Chiều hôm ấy, một ngày thu năm 1957, ba thấu kính thẳng đứng trên cột đèn giao thông đều tắt ngúm, nhà cửa cũng tối thui. Mưa dầm dề hơn một tuần nay, và mới hai ngày trước còn xuất hiện cả gió lốc. Phần lớn thị trấn Derry rơi vào tình trạng mất điện, chưa biết khi nào mới có trở lại.

Đứa bé trai trùm áo mưa vàng và mang ủng đỏ háo hức chạy theo chiếc thuyền giấy. Mưa chưa ngừng hẳn nhưng cũng đã ngớt. Mưa rơi rả rích xuống chiếc mũ vàng của cậu bé, tựa hồ tiếng mưa lộp độp trên mái nhà… một âm thanh dễ chịu, gần như thân thuộc. Cậu bé ấy là George Denbrough, năm ấy lên sáu. Anh hai cậu là William, với biệt danh mà đứa trẻ nào ở trường Tiểu học Derry (và cả thầy cô, nhưng các vị này không bao giờ sỗ sàng gọi cậu như thế) cũng biết là Bill Cà Lăm, lúc đó đang ở nhà, bị trận cúm hành cho ra bã. Mùa thu năm 1957 ấy, tám tháng trước khi nỗi khiếp đảm trút xuống, hai mươi tám năm trước thử thách cuối cùng, Bill Cà Lăm tròn mười tuổi.

Bill là người gấp chiếc thuyền giấy mà George đang rượt theo. Cậu hí hoáy gấp lúc ngồi trên giường, lưng tựa vào chồng gối, trong khi mẹ chơi bài Für Elise trên cây đàn piano ở phòng khách và mưa xối xả đập vào cửa sổ phòng ngủ.

Chừng ba phần tư quãng đường từ dãy nhà về phía ngã tư đèn giao thông tối thui, đường Witcham bị chặn bằng đèn đốt dầu cỡ lớn và bốn giá cưa màu cam để ngăn không cho xe cộ lưu thông. Mọi giá cưa đều được in dòng chữ Bộ phận công trình công cộng Derry. Phía sau, mưa ồng ộc trào ra khỏi rãnh nước bị tắc do cành cây, đá và những ụ lá khô ngồn ngộn. Ban đầu, nước chỉ phụt lên từ những lỗ con con trên mặt đường, nhưng sang ngày thứ ba của đợt mưa, nó khiến nhựa đường bật lên từng mảng. Đến trưa ngày thứ tư, những mảng lớn trôi ào ào xuống ngã tư đường Jackson và đường Witcham như những chiếc bè tí hon trong cơn nước trắng xóa. Lúc này, nhiều người dân Derry bắt đầu sốt ruột, dù ngoài miệng còn bông đùa khéo phải xây tàu ngăn trận đại hồng thủy như trong Kinh Thánh. Bộ phận công trình công cộng vẫn cho người dân qua lại lối đường Jackson, nhưng Witcham thì bị chặn đường vào trung tâm thị trấn bằng giá cưa.

Nhưng mọi người đều cho rằng điều tồi tệ nhất đã qua. Nước sông Kenduskeag chỉ dâng lên mấp mé bờ Bãi Đất, cách mặt xi măng của Kênh Đào dẫn nước quanh co qua phố chừng chục phân. Lúc này đây, một toán thanh niên trai tráng, trong đó có Zack Denbrough, bố của George và Bill, đang hối hả dỡ những bao cát họ mới chất ngày hôm trước. Hôm qua, nước tràn đê cùng lũ quét qua nên tổn thất là điều không thể tránh khỏi. Mà thực là thế, tình trạng này từng xảy ra ở trận lũ năm 1931 là một thảm họa gây thiệt hại hàng triệu đô-la và cướp đi hơn hai mươi mạng người. Dù chuyện xảy ra đã lâu, nhưng nhiều người vẫn nhớ như in để kể lại làm ai nấy đều hãi hùng. Một trong những nạn nhân bị trôi tận bốn mươi cây số lên phía Đông, về Bucksport. Người đàn ông rủi vận này bị cá rỉa sạch hai mắt, ba ngón tay, dương vật và gần hết bàn chân trái. Cánh tay nham nhở của ông vẫn nắm chặt vô lăng chiếc xe Ford.

Tuy nhiên hiện giờ, nước sông đang rút, và khi đập Bangor Hydro đi vào hoạt động trên thượng nguồn, con sông sẽ không còn là mối đe dọa. Hoặc chí ít đó là những gì Zack Denbrough, nhân viên của Nhà máy Thủy điện Bangor, cho hay. Những thứ khác, chà, mấy cơn lũ trong tương lai là dăm ba chuyện vặt. Chỉ cần cắn răng đi qua con trăng này, đợi có điện trở lại, rồi quên bẵng nó đi. Dân Derry rất giỏi xóa bỏ bi kịch cũng như tai ương ra khỏi ký ức của mình, rồi chẳng bao lâu sau, Bill Denbrough cũng sẽ phát hiện khả năng ấy nơi bản thân thằng bé.

George dừng lại ngay bên kia giá cưa, sát rìa một khe nứt sâu trên lớp nhựa đường bị bể ở đường Witcham. Khe nứt bẻ ngoặt theo đường gấp khúc xuống dưới con dốc tít bên kia đường, cách chỗ thằng bé đang đứng hơn chục mét về phía bên phải. Cậu cười giòn giã – tiếng cười thích thú của cậu bé con chạy hồ hởi chơi một mình trong buổi chiều âm u ấy – khi khúc quanh của con nước ào ào chảy cuốn chiếc thuyền giấy của cậu vào ghềnh thác thu nhỏ hình thành do mặt đường nhựa bị bể. Dòng nước siết xói vào đất tạo thành rãnh dọc theo khe nứt khúc khuỷu, đưa chiếc thuyền chu du từ phía bên này đường Witcham sang phía bên kia, và nước chảy nhanh đến nỗi George phải ba chân bốn cẳng chạy theo mới kịp. Nước bắn tung tóe từ dưới ủng thằng bé tạo thành những vệt bùn. Nút cài ủng phát ra tiếng leng keng thật vui tai khi cậu chạy tung tăng về phía cái chết kỳ khôi của mình. Trong khoảnh khắc ấy, lòng cậu trào dâng cảm giác yêu thương chân phương dành cho Bill, anh trai mình… yêu thương kèm theo chút nuối tiếc khi Bill không thể tận mắt chứng kiến khung cảnh này và hòa mình vào nó. Tất nhiên, cậu định sẽ kể lại cho anh hai nghe sau khi trở về nhà, nhưng cậu biết mình không giỏi dùng từ ngữ để giúp Bill chiêm ngưỡng cảnh tượng này bằng tưởng tượng, trong khi nếu đổi vị trí, Bill sẽ mô tả thật sống động để cậu em trai của mình có thể mường tượng trong đầu. Bill đọc, viết rất giỏi, nhưng ngay cả ở tuổi này, George cũng đủ khôn ngoan để biết rằng đó không phải lý do duy nhất lý giải tại sao Bill lúc nào cũng nhận được điểm A trong sổ liên lạc, hoặc tại sao thầy cô lại thích văn anh viết đến thế. Kể chuyện chỉ là một phần, biệt tài của Bill là quan sát.

Con thuyền gần như rít lên, xé nước băng băng, dù nó chỉ là một trang báo trong mục rao vặt được xé ra từ tờ Derry News , nhưng trong mắt George lúc này, nó giống như con thuyền FT trong một bộ phim chiến tranh, như những chiến hạm mà thỉnh thoảng cậu nhìn thấy trong Rạp Derry cùng anh Bill vào những suất chiếu phim sáng thứ Bảy. Bộ phim chiến tranh trong đó John Wayne đánh nhau với quân Nhật. Mũi con thuyền giấy rẽ làn nước sang hai bên trong khi tiếp tục tiến lên, rồi trôi tới rãnh nước phía bên trái đường Witcham. Ở chỗ đó, một dòng nước con con chảy ào ào tràn qua phần nhựa đường bị vỡ, tạo thành một xoáy nước tương đối lớn, và thằng bé đoán khéo có khi chiếc thuyền sẽ bị nhấn chìm, lật úp mất. Nó nghiêng ngả đầy báo động, nhưng rồi George lại được dịp hò reo khi nó vững trở lại, uốn lượn và tiếp tục lao như bay xuống ngã tư. George co giò đuổi theo. Trên không trung, cơn gió dữ tháng Mười xé toạc cây cối, giờ trụi lủi sau khi cơn bão kinh hoàng nhất năm cuốn phăng hết những chiếc lá rực rỡ sắc thu.

2

Bill ngồi trên giường, hai má vẫn ửng đỏ vì sốt (được cái cơn sốt của thằng bé cũng sớm hạ như nước sông Kenduskeag). Cậu đã gấp xong con thuyền, nhưng khi George đòi với lấy, Bill giơ lên cao tránh xa tầm với của em trai mình. “Đ-đi lấy cho anh s-s-sáp nến.”

“Nó là gì ạ? Để đâu hả anh?”

“Em đi x-xuống hầm là thấy, nó ở trên k-k-kệ,” Bill hướng dẫn. “Trong cái hộp đề chữ V-v-vin… Vịnh. Mang nó lên đây cho anh, kèm một con dao và một c-cái tô. Thêm cả một h-hộp d-d-diêm nữa.”

George ngoan ngoãn làm theo lời anh. Cậu có thể nghe thấy tiếng dương cầm của mẹ, lần này không phải Für Elise mà là một bản gì đấy cậu không khoái lắm – bởi bản nhạc này nghe vừa chói tai vừa kiểu cách; cậu có thể nghe thấy tiếng mưa lộp độp đập vào cửa sổ nhà bếp đều đều. Tiếng mưa dễ chịu làm sao, nhưng việc phải mò xuống hầm không dễ chịu chút nào. Cậu không thích tầng hầm, cũng chẳng ham hố gì bước chân xuống các bậc cầu thang, bởi cậu lúc nào cũng tưởng tượng trong bóng tối có thứ gì đó lởn vởn. Tất nhiên, điều đó nghe thật ngớ ngẩn, cả bố, mẹ và nhất là anh Bill đều nói vậy, biết là thế, song…

Cậu bé thậm chí còn không thích mở cửa để bật đèn, vì lúc nào cậu cũng mường tượng ra một viễn cảnh - nghe thiếu muối khủng khiếp nên cậu chẳng dám hé răng với ai - rằng trong khi cậu rờ rẫm công tắc điện, một bộ móng vuốt đáng tởm sẽ êm ru chạm lên cổ tay… đoạn kéo cậu vào màn đêm ngai ngái mùi đất, rêu mốc và rau củ thối.

Vớ va vớ vẩn! Làm quái gì có sinh vật nào khắp người lông lá, móng vuốt nhọn hoắt, chực chờ giết người kia chứ. Thỉnh thoảng vẫn có kẻ phát rồ và giết người hàng loạt – như phát thanh viên Chet Huntley hay thông báo trên bản tin buổi tối – nhưng trong tầng hầm nhà họ thì không thể có con quái vật nào. Ấy thế mà tưởng tượng nọ vẫn cứ lởn vởn trong đầu cậu. Trong những khoảnh khắc dài thiên thu khi cậu phải mò mẫm công tắc bằng tay phải (tay trái nắm lấy khung cửa không thể nào chặt hơn), mùi của tầng hầm dường như càng xộc lên, bao trùm khắp nơi. Mùi đất, mùi rêu mốc và rau củ thối hòa quyện thành thứ mùi hổ lốn không lẫn vào đâu được, thứ mùi xú uế của quái vật, chúa tể của mọi quái vật. Đó là mùi của thứ mà thằng bé chẳng biết gọi tên: mùi của Nó, lấp ló, ẩn hiện và sẵn sàng nhào đến. Thứ sinh vật ngấu nghiến tất cả nhưng khoái khẩu nhất là thịt trẻ con.

Sáng hôm đó, cậu bé mở cánh cửa và mò mẫm mãi mà chẳng thấy công tắc đâu, cậu vịn chặt khung cửa trong tay, mắt nhắm nghiền, đầu lưỡi hơi thè ra nơi khóe miệng như một nhành rễ con kiệt cùng đang tìm kiếm chút nước giữa khô hạn. Vui nhỉ? Chắc vui! Chuẩn rồi! Xem mày kìa, Georgie! Bóng tối mà cũng sợ! Đồ trẻ con! Tiếng dương cầm réo rắt từ gian phòng mà bố gọi là phòng khách còn mẹ nhất nhất gọi là phòng chính. Điệu nhạc như vẳng lại từ một thế giới khác, thật xa xôi, tựa hồ một người rã rời vì bơi nay nghiêng ngả dưới cơn sóng dữ, thấy tiếng cười đùa trên bãi biển chật như nêm vào mùa hè sao dường như hư như ảo.

Ngón tay của thằng bé rờ tới công tắc rồi! A! Đây rồi! Cậu bật đánh tách…

… Nhưng chẳng thấy sáng. Không đèn đuốc gì.

Ôi chết thật! Cúp điện!

George giật tay lại như thể vừa chạm vào một rổ nhung nhúc rắn. Cậu bé lùi khỏi cánh cửa tầng hầm đường ngủ, tim đập điện cuồng trong lồng ngực. Tất nhiên là cúp điện, cậu quên bẵng mất điều đó. Ôi trời ơi! Làm sao đây? Quay lại và nói với anh Bill rằng cậu không lấy được hộp sáp nến vì cúp điện và cậu sợ sẽ có thứ gì đó vồ lấy mình lúc cậu đứng trên bậc thang của tầng hầm, thứ gì đó không phải một kẻ giết người hàng loạt mà là một sinh vật hiểm ác hơn bội phần ư? Rằng thứ đó sẽ vươn một phần thịt thà thối rữa của mình, trườn lên cầu thang và tóm lấy mắt cá chân cậu? Nghe thế cũng khiếp nhỉ? Những người khác sẽ phá lên cười trước trí tưởng tượng bay xa của cậu, nhưng còn lâu anh Bill mới cười. Anh ấy sẽ nổi khùng và mắng cậu cho mà xem, “Bớt trẻ con đi, Georgie… Thế em có muốn chiếc thuyền này không?”

Tựa như suy nghĩ ấy cũng nhen nhóm sang Bill, cậu nói vọng xuống từ phòng ngủ của mình: “Em ng-ng-ngủm củ tỏi dưới đấy rồi hả, G-Georgie?”

“Không, em đang lấy đây,” George mau miệng đáp lại. Cậu bé xoa xoa hai cánh tay cho bao nhiêu da gà da vịt lặn bớt và da mịn màng trở lại. “Em mới uống miếng nước.”

“Ừ, nh-nhanh lên!”

Thế là thằng bé bước bốn bậc cầu thang nữa xuống thêm hầm, tim như cây búa nóng nện thình thịch trong cổ họng, tóc gáy dựng đứng, mắt nóng rát, tay lạnh ngắt, lo ngay ngáy cửa hầm sẽ tự động bất cứ lúc nào, chặn đứng ánh sáng lọt qua cửa sổ nhà bếp, và rồi thằng bé sẽ nghe thấy Nó, một thứ hãi hùng hơn mọi kẻ sát nhân trên thế gian này, hơn cả Attila Rợ Hung, hơn những thứ xuất hiện trong hàng trăm bộ phim kinh dị. Nó gầm gừ trầm đục - cậu bé sẽ nghe thấy tiếng gầm gừ ấy trong những giây bấn loạn phát rồ trước khi con quái đó vồ lấy cậu và xé toạc lục phủ ngũ tạng của cậu.

Cơn lũ khiến tầng hầm có mùi nồng nặc hơn mọi khi. Ngôi nhà của gia đình George nằm ở vị trí cao trên đường Witcham, gần đỉnh đồi, và nước tuy đã rút bớt nhưng dưới trũng vẫn có rất nhiều nước đọng, thấm qua các tầng đá cũ. Thứ mùi vừa nặng vừa khó chịu, khiến ta chỉ muốn thở nông thật nông.

George lần mò đống tả pín lù trên kệ với vận tốc tên lửa: dăm ba hộp xi đánh giày hiệu Kiwi kèm miếng chùi giày, một ngọn đèn dầu đã bể, hai chai xịt kính hiệu Windex gần hết, một lon sáp đánh bóng xe hơi hiệu Turtle cũ. Chẳng biết ma xui quỷ khiến thế nào, thằng bé ngây người nhìn chằm chằm hình con rùa trên nắp lon như bị thôi miên suốt gần ba mươi giây. Đoạn cậu ném nó lên kệ… và đây rồi, cuối cùng cũng tìm thấy, chiếc hộp vuông với chữ Vịnh bên trên.

George chộp lấy nó, đoạn phi như bay lên cầu thang, nhưng bỗng dưng cậu điếng người nhận ra mình không đóng thùng áo sơ-mi, và cậu dám chắc đuôi áo chính là điểm chí tử của mình: thứ trong hầm sẽ để cậu gần thoát thân ra ngoài, đoạn chộp lấy đuôi áo và kéo vụt cậu lại và…

Lên đến nhà bếp, cậu sập cửa sau lưng. Cửa kêu rầm một tiếng đinh tai nhức óc. Cậu tựa lưng lên cửa, mắt nhắm nghiền, mồ hôi trên tay và trán túa ra, hộp sáp nến được giữ rịt trong tay.

Tiếng dương cầm ngưng bặt, giọng mẹ lảnh lót vọng xuống: “Georgie, lần sau con đóng cửa mạnh hơn một chút được không? Khéo có khi sẽ vỡ được mấy cái đĩa trong tủ chạn đấy.”

“Con xin lỗi,” thằng bé hét lên đáp lại.

“Georgie, đồ lề mề,” Bill từ phòng ngủ kêu lên. Cậu gằn giọng thật thấp để mẹ không nghe thấy.

George hừ mũi cười khúc khích. Nỗi sợ của cậu bé đã biến mất; nó trôi tuột đi dễ dàng như cơn ác mộng phai nhạt khi ta tỉnh giấc, lạnh người và thở hồng hộc, thoát khỏi nanh vuốt của mộng mị khi ta cảm nhận được cơ thể mình, ngó nghiêng không gian xung quanh để đảm bảo không có bất cứ điều gì đã xảy ra, và ngay sau đó ta bắt đầu quên bẵng nó đi. Một nửa cơn ác mộng đã bay biến lúc chân ta chạm xuống sàn; ba phần tư bốc hơi sau khi ta tắm xong và lau người, toàn bộ tàn dư mất hẳn khi ta ăn sáng. Tất tần tật… cho đến lần kế tiếp, khi nanh vuốt của cơn ác mộng vồ lấy ta, mọi sợ hãi lại ùa về.

Con rùa ấy , George vừa đi đến ngăn kéo để diêm vừa ngẫm nghĩ. Mình từng thấy con rùa như vậy ở đâu rồi nhỉ?

Tiếc là cậu chẳng tìm được câu trả lời nào, thành thử cậu dẹp câu hỏi ấy sang một bên.

Cậu lấy hộp diêm từ ngăn kéo, một con dao trên giá (cẩn thận chĩa mũi dao tránh xa người mình như bố dạy), một cái chén con trong tủ chạn ở phòng ăn. Sau đó cậu trở lại phòng Bill.

“C-Cái thằng ăn hại đ-đái khai này, G-Georgie,” Bill nói, nhưng giọng không quá gay gắt, sau đó dẹp vài món đồ linh tinh trên chiếc bàn đầu giường qua một bên: một cái ly rỗng, một bình đựng nước, khăn giấy Kleenex, sách, một chai dầu Vicks VapoRub – suốt đời mình, Bill luôn gắn mùi dầu này với hình ảnh lồng ngực nặng nề, khọt khẹt và mũi đặc nghẹt. Có cả đài ra-đi-ô Philco cũ, nhưng nó không du dương nhạc Chopin hay Bach mà xập xình nhạc Richard Nhỏ Bé… tuy nhiên, âm lượng nhỏ thật nhỏ, khiến chất giọng của Richard Nhỏ Bé mất đi sự trầm vang đầy nội lực. Mẹ của hai cậu bé từng học piano cổ điển ở trường nhạc Juilliard và ghét dòng nhạc rock and roll. Nhưng không thích là một nhẽ, đằng này bà ghét cay ghét đắng nó.

“Em không ăn hại đái khai,” George cãi, ngồi trên mép giường của anh hai và bày biện những thứ mình vừa lấy được lên mặt bàn.

“Không có mới lạ,” Bill nói. “Em là thằng nhóc ăn siêu hại đái siêu khai.”

George thử tưởng tượng một thằng bé ăn siêu hại đái siêu khai là như thế nào rồi bắt đầu cười khúc khích.

“Em ăn hại đái khai hơn cả thành phố Augusta cộng lại.” Bill nói, cũng bắt đầu rinh rích cười.

Một thành phố thuộc quận ở tiểu bang Georgia, Mỹ.

“Anh ăn hại đái khai hơn cả bang luôn ấy,” George ăn miếng trả miếng. Nói đến đây, hai cậu bé phá lên cười nắc nẻ gần hai phút.

Sau đó, chúng thì thầm với nhau, nhỏ tới mức chỉ có những thằng nhóc bé tí mới nghe thủng: chê bai ai là kẻ ăn hại nhất, ai đái khai nhất, ai vô duyên nhất, và đủ thứ trên trời dưới đất. Đoạn Bill phát ngôn một trong những từ cấm kỵ: cậu bé bảo George là thằng nhóc cứt đái nhất, để rồi hai anh em được dịp cười lăn cười bò. Bill cười đến mức ho sù sụ. Đến lúc cơn ho bắt đầu thuyên giảm (lúc ấy, Bill mặt đỏ tía tai, George nhìn mà sốt hết cả ruột), tiếng đàn dương cầm lại ngừng lại. Hai anh em cùng nhìn về phía phòng chính, nghe tiếng ghế nơi chiếc đàn bị đẩy ra, nghe tiếng bước chân mất kiên nhẫn của mẹ. Bill vùi miệng vào khuỷu tay, vừa nén những tiếng ho cuối cùng vừa chỉ vào bình nước. George vội rót nước vào ly để anh hai nốc ừng ực.

Tiếng dương cầm lại vang lên, vẫn là bản Für Elise . Bill Cà Lăm không bao giờ quên bản nhạc ấy, và dẫu bao năm trôi qua, nó đều khiến tay và lưng anh nổi da gà; khiến lòng anh chùng xuống quay quắt: Mẹ đã chơi bản nhạc ấy vào ngày George qua đời.

“Anh còn ho không, anh Bill?”

“Không.”

Bill rút một tờ Kleenex từ hộp, chà lên ngực, khạc đờm ra giấy, vò nát rồi vứt nó vào thùng rác đầy ụ những cục giấy tương tự để cạnh giường. Đoạn cậu mở hộp sáp nến rồi bốc một cục sáp cho vào lòng bàn tay. George chăm chú theo dõi, nhưng không nói hay hỏi han gì. Bill chúa ghét George tía lia lúc cậu làm việc, nhưng George nghiệm ra một điều rằng nếu cậu im thin thít, anh hai sẽ tự động giải thích cho cậu anh đang làm gì.

Bill dùng dao cắt một miếng nhỏ từ khối sáp nến vừa lấy. Cậu đặt nó vào tô, đánh một que diêm và đặt diêm lên trên sáp nến. Hai cậu bé chăm chú quan sát ngọn lửa tí hon màu vàng trong lúc cơn gió suy yếu đưa mưa đập vào cửa sổ từng đợt ngắt quãng.

“Phải làm cho thuyền không thấm nước, nếu không nó sẽ bị ướt và chìm mất,” Bill giải thích. Khi ở bên cạnh George, cậu bớt nói lắp hẳn – lắm lúc cậu còn nói trôi chảy. Tuy nhiên, ở trường học, cậu nói lắp nhiều đến độ trò chuyện gần như là một vấn đề nan giải. Giao tiếp bị đứt đoạn, bạn học sẽ tảng lờ nhìn sang chỗ khác trong khi cậu ghì chặt mép bàn, mặt thiếu điều đỏ lựng như mái tóc, hai mắt nhắm nghiền như đường chỉ khi cậu cố gắng bóp nặn một vài từ trong cổ họng bướng bỉnh của mình. Thỉnh thoảng - nhiều lúc - từ ngữ sẽ bật ra. Nhưng lắm dịp nó nhất quyết không chịu xuất hiện. Năm lên ba, cậu bị xe tông văng vào tường của một tòa nhà và bất tỉnh suốt bảy tiếng. Mẹ bảo tai nạn ấy khiến cậu bị nói lắp. Nhiều khi George có cảm giác bố cậu bé – và cả bản thân anh Bill – cũng chẳng rõ nguyên nhân là gì.

Miếng sáp nến trong chén chảy gần hết.

Lửa bập bùng lách tách, chuyển sang màu xanh lam khi cháy xuống que diêm rồi tắt ngóm. Bill nhúng ngón tay vào dung dịch, đoạn rụt tay lại và khẽ rít lên. Cậu mỉm cười ngại ngần trước em trai. “Nóng” cậu nói. Sau vài giây, cậu nhúng ngón tay vào và bắt đầu trét lớp sáp nến bên ngoài chiếc thuyền, sáp nhanh chóng khô lại thành thứ màu đùng đục.

“Em làm được không?” George xin.

“Được. Nhưng đừng làm dây ra chăn, nếu không mẹ sẽ giết em đó.”

George nhúng ngón tay vào sáp nến, lúc này rất ấm chứ không còn nóng nữa, sau đó bôi lên mặt thuyền bên kia.

“Đừng bôi nhiều quá, đồ đái khai!” Bill mắng. “Em muốn nó vừa ra khơi đã chìm nghỉm à?”

“Em xin lỗi.”

“Không sao. Làm t-từ từ thôi.”

George bôi sáp nốt mặt còn lại rồi nâng niu chiếc thuyền trong tay. Nó nặng hơn một chút, nhưng không nhiều. “Số dách,” cậu bé trầm trồ. “Em mang thuyền ra khơi nhé.”

“Ừ, em đi đi,” Bill nói. Bỗng dưng cậu thấy mệt, mệt và vẫn ốm trong người.

“Ước gì anh đi được với em,” George xị mặt. Mà cậu thực lòng nghĩ vậy. Anh Bill tuy hay sai vặt cậu nhưng lúc nào cũng nảy ra những ý tưởng tuyệt cú mèo và không khi nào mất chất. “Nó là thằng thuyền của anh mà.”

“Con thuyền” Bill chỉnh. “C-Con thuyền mới đúng.”

“Vâng, con thuyền.”

“Anh cũng ước mình có thể đi với em.” Bill nói với vẻ buồn rầu.

“Chà…” George nhấp nhổm hết chân này đến chân kia với chiếc thuyền trong tay.

“Em mặc áo mưa vào rồi hẵng đi nhé,” Bill ôn tồn. “Nếu không sẽ dính c-cảm giống anh đấy. Mà có khi em cũng bị l-lây từ anh rồi ấy chứ.”

“Cảm ơn anh Bill. Thuyền đẹp quá trời.” Và cậu bé làm một hành động mà đã từ rất lâu rồi cậu không làm, hành động mà cả đời Bill sẽ không quên: cậu rướn người thơm lên má anh trai.

“Giờ thì chắc chắn em dính cảm rồi đó, đồ đái khai,” Bill ngoài miệng thì cằn nhằn nhưng trông vui ra mặt. Cậu mỉm cười với George. “Với cả cất hết mấy thứ này đi. Kẻo mẹ lại càm r-ràm.”

“Dạ.” Cậu bé thu dọn đống dụng cụ chống nước và bước ra phòng, chiếc thuyền chênh vênh trên hộp sáp, hộp sáp lại đặt lệch trong cái chén con.

“G-Ge-George?” George quay lại nhìn anh hai. “C-Cẩn thận đấy.”

“Vâng.” Cậu khẽ cau mày. Thường thì mẹ mới là người nói thế, chứ anh hai chẳng dặn dò như vậy bao giờ. Nó cũng lạ lùng chẳng khác nào việc cậu thơm anh Bill. “Em biết rồi.”

Cậu bé rời nhà. Và Bill không bao giờ được gặp lại em trai mình nữa.

3

Lúc này đây, cậu bé đang tíu tít đuổi theo con thuyền ở mạn trái đường Witcham. Cậu chạy như bay, thế mà nước vẫn chảy nhanh hơn, đưa con thuyền của cậu băng băng rẽ sóng. Cậu nghe thấy tiếng nước ùng ục và về phía dưới đồi chừng năm mươi mét, nước trong rãnh xối xả như thác vào một cống thoát nước toang hoác. Cổng có hình bán nguyệt, vừa to vừa tối như mực, ăn vào khúc quanh, và rồi George nhìn thấy một cành cây, đen óng và lấp lánh tựa da hải cẩu, lao thẳng vào miệng cống. Khúc cây chững lại một lát rồi chui tọt vào trong. Chiếc thuyền của cậu cũng đang cắm đầu hướng về phía đó.

“Ối, chết tiệt!” George thảng thốt.

Cậu bé guồng chân chạy, và trong khoảnh khắc, cậu cứ tưởng mình đã chộp được chiếc thuyền. Nhưng rồi cậu trượt chân, ngã sõng soài, đầu gối bị trầy khiến cậu ré lên đau đớn. Giờ đây, với tầm mắt ngang mặt đường, cậu nhìn chiếc thuyền xoay vòng hai lần, trong giây lát bị cuốn vào một xoáy nước khác rồi lặn mất tăm.

“Ôi thôi, chết tiệt!” Cậu lại la lên, tay đập thùm thụp xuống vỉa hè. Đau quá, cậu bắt đầu sụt sùi. Sao mình lại đánh mất chiếc thuyền một cách ngớ ngẩn như thế chứ!

Cậu bé gượng dậy, bước về phía cống thoát nước. Cậu quỳ gối xuống và nhìn vào. Nước ráo riết kêu sùng sục cuồn cuộn vào màn đêm tối tăm. Âm thanh nghe thật rợn người. Nó gợi cậu bé nhớ đến…

“Hù!” Âm thanh bất chợt phai nhạt đi, cậu bé giật mình lùi lại.

Hiện lên trong cống là một cặp mắt sáng quắc: cặp mắt mà trước giờ cậu vẫn thường tưởng tượng mỗi khi xuống tầng hầm nhưng chưa lần nào thực sự trông thấy. Một con vật, tâm trí cậu cuống lên, chỉ có thể là thế, một con vật nào đó, có lẽ là một con mèo mắc kẹt bên trong…

Nhưng dù là gì, cậu sẵn sàng co giò chạy, bay biến ngay trong tích tắc, khi giây cót trong đầu cậu xử lý xong cơn sững sờ mà cặp mắt vàng sáng quắc kia đem lại. Cậu bé cảm nhận lớp đá dăm ram ráp dưới tay, làn nước lạnh ngắt len lỏi xung quanh. Cậu vừa đứng lên lùi lại thì bất chợt, từ trong miệng cống thoát nước, một giọng nói – thứ giọng hết sức dễ chịu và du dương - vang lên.

“Chào, Georgie,” nó nói.

George chớp mắt nhìn lại. Cậu không tài nào tin vào mắt mình; mọi thứ tựa hồ câu chuyện giả tưởng, hoặc bộ phim mà trong đó những con vật biết nói và nhảy múa. Nếu cậu bé lớn hơn mười tuổi, còn khuya cậu mới tin cảnh tượng mình đang nhìn thấy, và cậu cũng chẳng phải mười sáu. Cậu bé mới sáu tuổi thôi.

Có một chú hề trong cống thoát nước. Miệng cống tối mù, nhưng vẫn có đủ ánh sáng để George Denbrough chắc chắn cảnh tượng mình đang nhìn thấy. Trước mắt cậu là một chú hề, giống như trong rạp xiếc hoặc trên ti vi. Nói đúng hơn, chú hề này trông hao hao Bozo và Clarabell, chú hề (hay cô hề nhỉ? – George chịu, chẳng biết đó là nam hay nữ) nói chuyện bằng cách thổi còi trên chương trình Howdy Doody phát mỗi sáng thứ Bảy - chẳng ai hiểu Clarabell nói gì ngoài bác Buffalo Bob, và lần nào xem George cũng cười thiếu điều sái quai hàm. Gương mặt chú hề trong cống trắng toát, quanh chiếc đầu hói có vài túm tóc đỏ trông đến ngộ, miệng toe toét nụ cười đặc trưng của hề. Nếu George còn sống tới năm sau, hẳn cậu bé sẽ liên tưởng đến chú hề Ronald McDonald trước khi nghĩ đến Bozo hay Clarabell.

Chú hề cầm trên tay một chùm bóng bay sặc sỡ, trông như thế quả chín mọng ngon lành.

Tay kia, chú cầm chiếc thuyền giấy của George.

“Cháu muốn lấy lại chiếc thuyền không, Georgie?” Chú hề mỉm cười.

George cười đáp lại. Cậu bé không cưỡng lại được, đó là nụ cười mà ta chẳng thể nào chối từ. “Dạ có,” cậu đáp.

Chú hề phá lên cười. “Dạ có. Cháu ngoan quá! Rất ngoan! Cháu có thích bóng bay không?”

“Dạ… Dạ có!” Cậu bé vươn tay tới… đoạn e dè rụt lại. “Cháu không được nhận đồ từ người lạ. Bố cháu dặn thế.”

“Bố cháu dạy đúng mà,” chú hề trong miệng cống trả lời với nụ cười trên môi. Sao ban nãy mình lại nghĩ mắt chú hề hàng quắc được nhỉ , George thầm nhủ. Đôi mắt chú hề lấp lánh màu xanh, giống mắt của mẹ và anh Bill. “Rất đúng là đằng khác. Vậy để ta giới thiệu nhé. Georgie, ta là Bob Gray, hay còn gọi là Pennywise Chú hề Nhảy múa. Pennywise, đây là George Denbrough. George, đây là Pennywise. Giờ thì mình biết nhau rồi. Ta không còn xa lạ với cháu, cháu cũng không còn xa lạ với ta nữa. Đúng chứ?”

George cười khúc khích. “Dạ, chắc vậy.” Cậu bé lại đưa tay về phía trước… rồi lại rụt tay về. “Nhưng sao chú lại ở dưới đó?”

“Cơn bão cuốn phăng ta đi,” Pennywise Chú hề Nhảy múa nói. “Thổi bay cả rạp xiếc. Cháu có ngửi thấy mùi rạp xiếc không, Georgie?”

George rướn người về phía trước. Đột nhiên cậu bé ngửi thấy mùi đậu phộng! Đậu phộng rang thơm lừng! Và mùi giấm! Loại giấm trắng xịt lên khoai tây chiên! Cậu còn ngửi thấy cả mùi kẹo bông gòn, bánh rán, chút mùi phân động vật hoang tuy thoảng qua nhưng vẫn điếc cả mũi. Có cả mùi đặc trưng của mùn cưa trên đường. Chưa hết…

Tuy nhiên, lẩn khuất bên dưới là mùi của cơn lũ, đám lá mục và cống thoát nước tối tăm. Thứ mùi ẩm ướt và hư thối. Giống mùi dưới tầng hầm.

Nhưng hương thơm kia át hẳn tất cả mùi hôi.

“Chú cũng biết cháu ngửi thấy mà,” cậu bé thỏ thẻ.

“Cháu muốn lấy lại thuyền không, Georgie?” Pennywise hỏi. “Ta phải hỏi lại vì xem ra, cháu không ham lắm thì phải.” Chú hề mỉm cười giơ chiếc thuyền lên. Chú ta mặc bộ đồ bằng lụa thùng thình, với hàng nút rõ to màu cam. Chiếc cà vạt xanh sáng rực rỡ lủng lẳng ở phía trước, hai tay mang găng trắng, cùng loại mà chuột Mickey và Vịt Donald luôn đeo.

“Dạ có.” George đáp, mắt dán vào cống thoát nước.

“Còn bóng bay thì sao? Chú có màu đỏ, xanh lá cây, vàng và xanh dương…”

“Chúng có lơ lửng không ạ?”

“Lơ lửng sao?” Nụ cười trên miệng chú hề nở rộng. “Ồ, có chứ. Chúng lơ lửng! Có cả kẹo bông gòn nữa…”

George với tay tới. Chú hề chộp lấy tay cậu.

Và George ngỡ ngàng trước sự biến đổi trên khuôn mặt của chú hề.

Thứ phản chiếu trong mắt cậu kinh hoàng đến độ những điều gớm guốc nhất cậu tưởng tượng về thứ dưới tầng hầm chẳng khác nào giấc mơ êm đềm; thứ cậu trông thấy khiến cậu hồn xiêu phách lạc trong tích tắc.

“Chúng lơ lửng” thứ dưới cống ngân nga bằng chất giọng nghẹn nghẹt, khùng khục. Nó nhầy nhụa nắm chặt tay George, kéo cậu bé về màn đêm tối như hũ nút, nơi nước ùng ục chảy, cuồn cuộn cuốn theo các từ cơn lũ về phía biển. George chới với rướn cổ ra xa khỏi thứ bóng tối nghẹt thở kia, vận hết sức bình sinh thét lên trong cơn mưa, cuống cuồng hét thật to vào bầu trời trắng xóa sà xuống Derry vào cái ngày mùa thu định mệnh năm 1957. Tiếng hét của cậu bé rít ré, xé toạc không gian, và đây đó những người dân trên đường Witcham đổ xô ra xem – từ cửa sổ hay hiên nhà của họ.

“Chúng lơ lửng ,” nó gầm gừ, “lơ lửng, Georgie, và khi cháu xuống đây với ta, cháu cũng sẽ lơ lửng…”

Vai của George đập vào thành xi măng của khúc quanh, và Dave Gardener, hôm ấy không đến cửa hàng Thuyền giày làm việc mà ở nhà vì cơn lũ, chỉ nhác thấy một cậu bé trong chiếc áo mưa vàng, la hét, quằn quại dưới rãnh, bao nhiêu nước đất bùn choáng ngợp lên mặt, khiến tiếng thất thanh lục bục trong làn nước.

“Mọi thứ dưới đây đều lơ lửng” thứ giọng mục ruỗng, khoái trá ấy thì thầm, rồi bất chợt, một tiếng động chát chúa vang lên cùng cơn đau đến cùng cực bủa vây, ý thức của George Denbrough tắt lịm.

Dave Gardener là người đầu tiên đến hiện trường, và dù lúc ông đến, chỉ mới bốn mươi lăm giây trôi qua từ sau tiếng thét đầu tiên, George Denbrough đã về nơi thiên cổ. Gardener nắm lấy phần sau chiếc áo mưa để kéo cậu bé lên đường… và ông hét lên bàng hoàng khi cơ thể George lật ngửa trên tay mình. Phía bên trái áo mưa của George nhuốm màu đỏ thẫm. Máu phun như vòi rồng từ miệng vết thương toang hoác, nơi từng là cánh tay trái. Một đoạn xương, trắng hếu đến rợn người, lòi ra qua lớp vải rách.

Đôi mắt đứa bé trai trợn trừng nhìn lên bầu trời trắng xóa, Dave thất thểu lùi về phía toán người đang chạy xuống đường, nhốn nháo trong cơn mưa.

4

Đâu đó phía dưới, trong cống thoát nước hiện đã chứa gần như tối đa lượng nước mưa (không thể nào có người dưới đó được, Cảnh sát trưởng Quận quát lên với tay phóng viên của tờ Derry News với vẻ bực dọc đến đớn đau, ngay cả Hercules còn bị cuốn đi dưới sức nước như vậy), chiếc thuyền gấp bằng báo của George phăm phăm băng qua những khoảng tối và hành lang bê tông dài hun hút với nước chảy ầm ì. Trong một lúc, nó chạy song song với xác một con gà lềnh phềnh chĩa cặp chân vàng vọt của loài gia cầm lên thẳng trần đang tong tỏng nước; đoạn tại nơi giao nhau ở phía đông thị trấn, con gà bị cuốn phăng sang trái còn thuyền của George tiếp tục chạy về phía trước.

Một giờ sau, khi mẹ của George phải dùng đến thuốc an thần mới ổn lại trong Phòng cấp cứu của Bệnh viện Derry Home, khi Bill Cà Lăm im lặng bần thần, mặt trắng bệch ngồi trên giường, nghe tiếng bố gằn giọng khác ngoài phòng khách, nơi mẹ chơi bản Für Elise khi George ra ngoài, chiếc thuyền trôi vào ra ngoài một lỗ xi măng như đạn rời nòng, phăm phăm xuống phía Kênh Đào và mất hút vào một con suối vô danh. Chừng hai mươi phút sau, khi con suối gia nhập vào sông Penobscot cuồn cuộn sóng, sắc xanh đầu tiên đã manh nha lấp ló trên bầu trời cao. Cơn bão đã qua.

Con thuyền sóng sánh, tròng trành, thỉnh thoảng nước tràn vào nhưng không chìm; hai anh em đã chống nước cho nó rất tốt. Tôi không biết nó dừng lại ở đâu, mà có dừng hay không cũng chẳng rõ, khéo có khi nó ra đến biển khơi và cứ thế rẽ sóng tiến về phía trước như chiếc thuyền ma thuật trong truyện cổ tích. Tất cả những gì tôi biết là nó vẫn nổi và vẫn băng băng cưỡi dòng nước lũ chảy đến địa phận giao giữa hai thị trấn Derry và Maine, để rồi từ đây, nó mãi mãi bước ra khỏi câu chuyện này.