← Quay lại trang sách

Chương 2 SAU LỄ HỘI (1984)
1

Bạn trai của Adrian không kìm được nước mắt khi khai báo với cảnh sát. Anh cho hay Adrian đội chiếc mũ ấy là vì anh đã giành được nó tại gian hàng Ném Vòng tại hội chợ công viên Bassey chỉ sáu ngày trước khi qua đời. Anh vô cùng hãnh diện vì điều này.

“Anh ấy đội nó vì yêu quý cái thị trấn chết tiệt nhỏ như lỗ mũi này!” Cậu bạn trai tên Don Hagarty gân cổ lên nói với cảnh sát.

“Nào, nào – không việc gì cậu phải dùng đến ngôn từ như thế,” cảnh sát Harold Gardener nhắc nhở Hagarty. Harold Gardener là một trong những người con trai của Dave Gardener. Vào ngày bố anh phát hiện ra cái xác vô hồn, mất một cánh tay của George Denbrough, Harold Gardener mới năm tuổi. Bây giờ, gần hai mươi bảy năm sau, anh đã là một người đàn ông ba mươi hai tuổi với mái tóc bắt đầu thưa dần. Harold Gardener cảm nhận được nỗi buồn và đau đớn mà Don Hagarty phải chịu, nhưng thật lòng, anh cứ thấy kì khói thế nào ấy. Anh chàng này – mà chẳng biết có thể gọi là anh chàng hay không - tô son lòe loẹt và mặc quần lụa sa tanh bó chẹt, đến độ người đối diện trông thấy cả vết hằn từ của quý của anh ta. Buồn hay không buồn, đau hay không đau, suy cho cùng, anh ta là một chàng bóng. Và anh bạn quá cố Adrian Mellon của anh này cũng vậy.

“Chúng tôi xin hỏi lại lần nữa,” Jeffrey Reeves, viên cảnh sát đi cùng Harold lên tiếng. “Hai anh rời khỏi Falcon rồi đi đến Kênh Đào. Sau đó thế nào?”

“Tôi phải nói đi nói lại với đám đần các anh bao lần nữa?” Hagarty tiếp tục rống lên. “Chúng nó giết anh ấy! Chúng ném người yêu tôi xuống cầu! Đám vai u thịt bắp ấy coi mạng người như cỏ rác!” Don Hagarty òa lên nức nở.

“Một lần nữa, Reeves kiên nhẫn lặp lại. “Hai anh rời khỏi Falcon. Rồi sao nữa?”

2

Trong phòng thẩm vấn ngay dưới hành lang, hai viên cảnh sát Derry đang lấy cung cậu thanh niên Steve Dubay, mười bảy tuổi; trong văn phòng Thư ký Chứng thực Di chúc trên lầu, thêm hai viên cảnh sát khác đang chất vấn cậu John “Webby” Garton, mười tám tuổi; và trong phòng cảnh sát trưởng ở lầu năm, Cảnh sát trưởng Andrew Rademacher và trợ lý luật sư quận Tom Boutillier đang thẩm vấn cậu bé Christopher Unwin, mười lăm tuổi. Mặc chiếc quần jean bạc phếch, áo thun loang vết dầu mỡ và mang đôi ủng hầm hố, Unwin khóc thút thít. Rademacher và Boutillier đảm nhận việc thẩm tra cậu này vì họ đánh giá tương đối chuẩn rằng cậu ta là mắc xích yếu nhất trong chuỗi.

“Ta cùng xác nhận lại nhé,” Boutillier ôn tồn lên tiếng, cùng lúc đó, dưới hai tầng lầu, Jeffrey Reeves nói câu y sì.

“Chúng cháu không cố tình giết anh ta,” Unwin phân bua qua làn nước mắt. “Là tại cái mũ. Chúng cháu không nghĩ anh ta vẫn đội cái mũ đó dù lần trước, anh Webby đã đe nẹt một lần. Chúng cháu chỉ định dọa anh ta thôi.”

“Vì lời cậu ta nói,” Cảnh sát trưởng Rademacher chen ngang.

“Vâng.”

“Với John Garton vào chiều ngày 17.”

“Phải, với anh Webby.” Unwin lại khóc như mưa. “Nhưng chúng cháu đã cố cứu anh ta khi thấy tình hình không ổn… chí ít là có cháu và anh Steve Dubay cứu… chúng cháu không cố tình giết người.”

“Thôi đi, Chris, đừng giỡn mặt với bọn tôi,” Boutillier nói. “Các cậu đã ném cậu bóng xuống Kênh Đào đấy.”

“Dạ, nhưng…”

“Ba người các cậu đã đến đầu thú và thành khẩn khai nhận. Cảnh sát trưởng Rademacher và tôi rất trân trọng điều này, anh Andy nhỉ?”

“Chứ còn gì nữa. Nam tử hán dám làm dám chịu, Chris ạ.”

“Vậy nên cậu đừng tự mua dây buộc mình mà bịa chuyện lúc này. Các cậu đã định ném cậu ta ngay khi nhác thấy hai cậu bóng ấy bước ra từ Falcon, phải không?”

“Không phải!” Chris Unwin kịch liệt phản đối.

Boutillier lấy một bao thuốc Marlboro từ túi áo sơ-mi của mình rồi đưa một điếu lên miệng. Ông đưa bao thuốc cho Unwin. “Thuốc lá không?”

Unwin lấy một điếu. Boutillier phải dùng bật lửa dò dẫm đầu thuốc mãi mới chậm được do môi của Unwin run lên bần bật.

“Nhưng khi thấy cậu ta đội chiếc mũ thì khác phải không?” Rademacher hỏi.

Unwin lại càng cúi gằm hơn, khiến mớ tóc bết dầu đâm cả vào mắt, cậu ta phì phèo nhả khói từ cánh mũi phập phồng lấm tấm mụn đầu đen.

“Vâng.” cậu ta đáp, lí nhí đến mức khó có thể nghe thấy.

Boutillier chúi người về phía trước, đôi mắt nâu sắc sảo. Khuôn mặt ông đanh thép nhưng giọng nói đầy vị tha. “Sao, Chris?”

“Cháu bảo có. Chắc vậy. Bọn cháu cố tình ném hắn ta nhưng không chỉ định giết.” Cậu ta ngước lên nhìn họ, gương mặt rụng rời, khổ sở, vẫn chưa hiểu nổi cuộc đời mình vừa đi qua những biến chuyển long trời lở đất kể từ lúc rời nhà cùng hai người bạn cạ cứng để tham gia ngày cuối cùng của Lễ hội Ngày Kênh Đào Derry vào 7 giờ 30 phút tối hôm trước. “Bọn cháu không cố tình giết hắn!” Cậu ta lầm bầm. “Với lại, gã dưới cầu… Cháu vẫn không biết gã là ai.”

“Gã nào cơ?” Rademacher hỏi cho có lệ. Xưa giờ họ chẳng lạ gì những lời khai kiểu này, và không đời nào họ tin chẳng chóng thì chày, những kẻ bị buộc tội sát nhân lúc nào cũng lôi một nhân vật bí ẩn nào đó vào câu chuyện. Boutillier thậm chí còn đặt một cái tên cho người này: ông gọi hắn là “Hội chứng Người một tay”, cóp nhặt từ sê-ri phim truyền hình ngày xưa mang tên Kẻ trốn chạy .

“Hắn ta mặc quần áo chú hề, Chris Unwin thảng thốt và rùng mình. “Còn cầm theo cả bóng bay.”

3

Lễ hội Ngày Kênh Đào, được tổ chức từ ngày 15 tháng 7 đến ngày 21 tháng 7, là một sự kiện thành công vang dội, và hầu hết người dân Derry đều đồng tình như thế, bởi sự kiện ấy nâng cao tinh thần toàn dân, đánh bóng hình ảnh thị trấn… và tốt cho túi tiền. Lễ hội kéo dài một tuần, được tổ chức để đánh dấu cột mốc 100 năm khai thông Kênh Đào chạy ngang qua trung tâm thị trấn. Kênh Đào cho phép Derry toàn lực tiếp cận giao thương gỗ trong khoảng thời gian từ năm 1884 đến năm 1910, nói không ngoa, chính nhờ Kênh Đào mà thị trấn Derry lên như diều gặp gió.

Thị trấn được trùng tu từ đông sang tây, từ bắc xuống nam. Những ổ gà mà cư dân thề sống thề chết rằng hơn chục năm nay chưa lần nào được lấp, nay được đổ lại rồi cào phẳng. Các tòa nhà trong thị trấn được trang hoàng bên trong, sơn lại bên ngoài. Những hình graffiti gớm guốc trong công viên Bassey – đa phần là những lời bôi nhọ người đồng tính một cách gay gắt như GIẾT HẾT ĐÁM BÓNG và AIDS LÀ HÌNH PHẠT CHÚA GỬI TỚI CHO ĐÁM BÊ ĐÊ CHẾT TOI! – đều được chà sạch khỏi những băng ghế dài và bức tường gỗ của cây cầu nhỏ băng qua Kênh Đào mà mọi người hay gọi là cầu Hôn Nhau.

Bảo tàng Ngày Kênh Đào được tận dụng mở tại chỗ của ba cửa hàng còn trống nằm ngoài mặt tiền trung tâm phố, trưng bày các món đồ triển lãm dưới sự sắp xếp của Michael Hanlon, một thủ thư địa phương và cũng là một nhà sử học nghiệp dư. Các gia đình lâu đời nhất của thị trấn cho mượn miễn phí những kho báu gần như vô giá của mình, và trong suốt tuần diễn ra lễ hội, gần 40.000 khách tham quan đã trả hai mươi lăm xu mỗi người để chiêm ngưỡng vô vàn món đồ nào thực đơn nhà hàng từ thập niên 1890, nào cọc, nào rìu và móc sắt của tiều phu từ thập niên 1880, đồ chơi con nít từ những năm 1920 và hơn hai nghìn bức ảnh và chín cuộn phim quay cảnh đời thường ở Derry trong suốt một trăm năm qua.

Bảo tàng được Đoàn thể Quý bà Derry tài trợ, nhưng tiếc một điều rằng họ lại phủ quyết việc trưng bày các món đồ mà Hanlon đề xuất (chẳng hạn như chiếc ghế lang thang để nhốt người hết sức tai tiếng từ thập niên 1930) và các bức ảnh (như ảnh chụp các thành viên Băng đảng Bradley sau vụ xả súng khét tiếng). Nhưng tất cả mọi người đều đồng ý rằng buổi triển lãm vẫn thành công vang dội, và đằng nào cũng chẳng có ai ham ngắm nghía những thứ bạo lực xưa cũ đó làm gì. Như lời bài hát ngày xưa ngân nga, tốt hơn hết nên tập trung vào những điều tốt đẹp và xóa bỏ những thứ tiêu cực.

Có một gian lều kẻ sọc bán đồ uống và thức ăn vặt rộng thênh thang trong công viên Derry, mà tối nào các ban nhạc cũng biểu diễn ở đó. Ở công viên Bassey lại tổ chức lễ hội hóa trang với vòng đu quay Hoành tráng Smokey và các trò chơi do người dân thị trấn đứng tiệm. Có một chiếc xe điện đặc biệt chạy vòng quanh các khu tiền lòe loẹt nhưng đáng mến này.

Và chính tại đây, Adrian Mellon đã chiến thắng trò chơi để rồi thiệt mạng sau khi giành được chiếc mũ giấy chóp cao đính hoa kèm dải băng ghi dòng chữ TÔI ❤️ DERRY!

4

“Cháu mệt rồi,” John “Webby” Garton ca thán. Dù không để ý nhưng cậu thanh niên này và hai người bạn của mình đều vô tình ăn vận theo phong cách Bruce Springsteen, dù nếu được hỏi thì thể nào hắn cũng chê bai Springsteen là đồ ngu ngốc, xăng pha nhớt và sẽ mạnh mồm tỏ lòng hâm mộ những nhóm heavy metal “số dách” như Def Leppard, Twisted Sister hay Judas Priest. Ống tay của chiếc áo thun xanh trơn của hắn bị rách, để lộ cơ bắp cuồn cuộn. Mái tóc nâu dày che hết một bên mắt, riêng điểm này thì giống John Cougar Mellencamp hơn là Springsteen. Trên tay hắn là hình xăm màu xanh vẽ những biểu tượng kỳ lạ, trông chẳng khác nào những vết mực được vẽ nguệch ngoạc bởi một đứa trẻ. “Cháu không muốn nói nữa.”

“Cậu chỉ cần kể cho bọn tôi nghe những gì đã xảy ra vào chiều thứ Ba sau hội chợ là được.” Paul Hughes ôn tồn. Hughes vừa mệt mỏi, vừa kinh ngạc lại vừa bàng hoàng trước vụ án mạng khủng khiếp này. Suy nghĩ cứ trở đi trở lại trong đầu ông, rằng dường như ai nấy ở Derry này đều ngấm ngầm biết Lễ hội Ngày Kênh Đào Derry sẽ khép lại bằng một sự kiện kinh hoàng, chỉ là họ không đủ gan viết lên tờ Chương trình Sự kiện mà thôi. Nếu lên lịch thì chuỗi lịch trình sẽ trông như sau:

Thứ Bảy, 9:00 tối: Buổi diễn nhạc cuối cùng với sự góp mặt của Ban nhạc trường Trung học Derry và Tiệm cắt tóc nam Mello-Men.

Thứ Bảy, 10:00 tối: Chương trình pháo hoa hoành tráng.

Thứ Bảy, 10:35 tối: Nghi lễ hiến tế Adrian Mellon chính thức bế mạc Lễ hội Ngày Kênh Đào.

“Mẹ kiếp, lễ hội,” Webby đáp.

“Vậy nói tôi nghe cậu đã nói gì với Mellon và nạn nhân nói gì với cậu.”

“Ôi trời ơi” Webby đảo mắt ngao ngán. “Nào, Webby,” cộng sự của Hughes mất kiên nhẫn. Webby Garton lại đảo mắt và kể lại từ đầu.

5

Garton trông thấy hai người bọn họ, Mellon và Hagarty, õng à õng ẹo bước đi, ôm eo nhau tình tứ và rinh rích cười như hai ả đàn bà. Ban đầu, hắn ta còn tưởng hai người này là nữ. Nhưng rồi hắn nhận ra Mellon, bởi ngày trước từng có đứa chỉ cho. Săm soi nhìn tiếp, hắn trông thấy Mellon quay sang Hagarty… rồi cả hai trao nhau một nụ hôn nhẹ nhàng.

“Ối, khéo tao nôn mửa mất thôi!” Webby ré lên, tỏ vẻ kinh tởm.

Chris Unwin và Steve Dubay lúc đó cũng có mặt. Khi Webby chỉ tay về phía Mellon, Steve Dubay nói rằng hình như thằng bóng còn lại tên là Don gì đấy, bàn hươu tán vượn về chuyện tên này cho một thằng nhóc trường Trung học Derry đi nhờ rồi sau đó giở máu ba lăm.

Mellon cùng Hagarty bắt đầu đi về hướng ba gã thanh niên kia, rời khỏi gian hàng chơi ném vòng và về phía lối ra hội chợ. Về sau, Webby Garton khai với hai viên cảnh sát Hughes và Conley rằng “lòng tự tôn công dân” của hắn bị tổn thương khi chứng kiến thằng bê đê chó má đó đội mũ ghi dòng chữ TÔI ❤️ DERRY. Chiếc mũ trông thật ngu đần, chứ còn sao nữa: nó là một chiếc mũ giấy chóp cao, gắn bông hoa rõ to trên chóp, tung tẩy bốn phương tám hướng. Sự ngớ ngẩn của chiếc mũ khiến lòng tự tôn công dân của Webby càng thêm sứt mẻ.

Khi Mellon và Hagarty đi ngang qua, ôm eo nhau tình tứ, Webby Garton la lối: “Để tao cho lũ chúng mày ăn luôn cái mũ đấy, đồ bóng chúa!”

Mellon quay sang nhìn Garton, chớp mắt đong đưa rồi trả lời: “Cưng à, nếu cưng đói thì anh có thứ ngon lành hơn nhiều so với mũ của anh đấy.”

Nghe đến đây, Webby Garton quyết định cho cậu bóng biết thế nào là răng môi lẫn lộn. Nếu khuôn mặt của Mellon là địa lý thì hắn sẽ cho núi dâng cao, lục địa trôi dạt. Không kẻ nào được phép bóng gió hắn là đổ lại cái. Không một kẻ nào.

Hắn bắt đầu tiến về phía Mellon. Hagarty, bạn của Mellon, thấy tình hình có vẻ căng thẳng bèn kéo Mellon đi, nhưng Mellon vẫn lì lợm đứng đó, miệng nhoẻn cười. Vì thế mà Garton khai với cảnh sát Hughes và Conley rằng hắn chắc cú Mellon hôm ấy không sợ trời mà cũng chẳng sợ đất gì sất. Về sau, lúc nghe hai cảnh sát Gardener và Reeves thuật lại thông tin này, Hagarty cũng đồng tình. Chuyện là hôm ấy, tâm trạng Mellon đang lâng lâng chín tầng mây vì được ăn những hai chiếc bánh rán phết mật ong ở hội chợ. Vì vậy, anh đã không nhận ra mối nguy hại khôn lường mà Webby Garton có thể đem đến.

“Nhưng Adrian là thế mà,” Don nói, sụt sùi lấy giấy lau nước mắt, làm loang lổ đôi mắt được đánh phấn sặc sỡ. “Anh ấy có biết gì gọi là tránh voi chẳng xấu mặt nào đâu. Anh ấy thuộc típ người lúc nào cũng nghĩ ở hiền gặp lành.”

Cậu bóng ngày hôm ấy suýt chút nữa đã bị tẩn một trận nhừ tử, nhưng may sao, ai đó đập dùi cui lên tay Garton. Quay đầu lại, hắn trông thấy cảnh sát Frank Machen, một thành viên trong Đội Tinh nhuệ Derry.

“Nào, chuyện đâu còn có đó, mấy cậu” Machen nói với Garton. “Đường ai nấy đi và để hai cậu bóng này yên. Vui vẻ đi hẵng.”

“Chú có nghe nó nhạo báng cháu thế nào không?” Garton hỏi. Lúc này, Unwin và Dubay cũng đánh hơi được rắc rối, hai đứa kéo Garton ra mép đường, nhưng Carton hung hăng gạt phăng đi, thậm chí sẵn sàng thượng cẳng chân hạ cẳng tay nếu hai thằng bạn nhùng nhằng không yên. Đường đường là đấng mày râu mà lại bị xúc phạm như thế, thù này hắn phải trả. Không kẻ nào được bóng gió hắn là đổ lại cái. Không một kẻ nào.

“Chú có thấy anh ta nhạo báng gì cháu đâu?” Machen đáp. “Hơn nữa, cháu là người khơi chuyện trước. Nào, chấm dứt ở đây đi, chàng trai trẻ. Chú không muốn nhiều lời đâu.”

“Nó dám gọi cháu là đồ đồng bóng!”

“Thế cháu lo mình bóng thật à?” Machen hỏi ngược lại, tỏ vẻ quan tâm sâu sắc, khiến mặt Garton đỏ như gấc.

Trong lúc hai người lời qua tiếng lại, Hagarty trầy trật cố kéo Adrian Mellon ra khỏi cảnh đôi co. Mellon rốt cuộc cũng xuôi xị.

“Tạm biệt tình yêu!” Adrian ngúng nguẩy quay lưng chào. “Thôi đi, đồ quỷ,” Machen cắt ngang. “Đi khỏi đây mau.” Garton dợm nhào đến Mellon thì Machen kịp chộp lấy hắn.

“Chú có thể đưa cháu vào khám đấy, anh bạn,” Machen đanh thép, “với cách cư xử của cháu thì đó không phải là một ý kiến tồi đâu.”

“Lần gặp tới mày chết với tao!” Garton gầm ghè với cặp đôi đang bỏ đi, khiến người đi đường phải quay đầu lại. “Và nếu mày còn đội cái mũ đó, tao sẽ giết mày! Thị trấn này không cần đám bóng lộn chúng mày!”

Không buồn quay đầu, Mellon ngoe nguẩy bàn tay trái – với bộ móng sơn màu đỏ hồng - và lại càng đánh mông tợn hơn. Garton lồng lên.

“Thêm một lời hoặc một hành động nữa là cháu vào khám ngay đấy,” Machen nhẹ nhàng. “Cháu đừng nghĩ chú đùa, chú nói là làm.”

“Thôi nào, Webby,” Chris Unwin nơm nớp. “Hạ hỏa đi.”

“Không lẽ chú khoái mấy thằng như thế?” Webby hỏi Machen, lờ tịt Chris và Steve đi. “Chú nói xem?”

“Chú không thích cũng chẳng ghét giới tính thứ ba,” Machen thủng thẳng. “Nhưng chú ủng hộ giang sơn thái bình, và cháu đang phá bĩnh thứ chú thích, nhóc mặt mâm ạ. Thế giờ cháu muốn đi một vòng với chú hay gì?”

“Thôi, Webby,” Steve Dubay dè dặt. “Mình đi mua xúc xích ăn nào.”

Webby cuối cùng cũng chịu thối lui, giật áo một cách kích động và lùa tóc ra khỏi mắt. Machen, một trong số những người cho lời khai vào buổi sáng sau hôm Adrian Mellon qua đời, cho hay: “Điều cuối cùng tôi nghe thấy cậu ta và bè lũ nói khi bỏ đi là ‘Lần sau mà gặp nó, tao sẽ cho nó thừa sống thiếu chết.’“

6

“Cháu xin chú, cho cháu nói chuyện với mẹ,” Steve Dubay lặp lại câu này lần thứ ba. “Cháu phải nhờ mẹ khiến bố dượng xuôi xị, nếu không lúc về nhà cháu sẽ bị tẩn cho lên bờ xuống ruộng mất.”

“Một lát nữa đi,” cảnh sát Charles Avarino nói. Cả Avarino và cộng sự Barney Morrison đều biết còn lâu Steve Dubay mới được về nhà đêm nay, thậm chí là mấy đêm tới. Xem chừng cậu ta vẫn không ý thức được sự nghiêm trọng của vụ việc này, và về sau, khi nghe tin Dubay bỏ học năm mười sáu tuổi, Avarino chẳng lấy làm ngạc nhiên. Vào thời điểm xảy ra vụ án, cậu nhóc vẫn học trường cấp hai Water Street. Chỉ số IQ là 68, theo như bài kiểm tra Wechsler mà cậu ta từng thực hiện một trong ba lần đúp lớp Bảy.

“Kể tôi nghe chuyện gì đã xảy ra lúc các cậu bắt gặp Mellon rời khỏi Falcon,” Morrison mở lời.

“Không, chú ơi, cháu không kể được.”

“Chà, sao lại không nhỉ?” Avarino hỏi.

“Cháu thấy mình bép xép hơi quá rồi.”

“Cậu vào đây để nói mà,” Avarino nói. “Không phải sao?”

“Vâng… Đúng… Nhưng mà…”

“Nghe này,” Morrison trìu mến, đoạn ngồi xuống cạnh Dubay và châm thuốc cho cậu. “Cậu nghĩ tôi và chú Chick khoái bọn bóng lắm à?”

“Cháu chịu…”

“Thế nhìn bọn tôi có vẻ thích bóng không?”

“Dạ không, nhưng…”

“Bọn tôi chung hội chung thuyền với cậu, Steve-o,” Morrison nghiêm nghị nói. “Và tôi nói thật nhé, giờ là lúc cậu, Chris và Webby cần huy động tất cả hội bạn. Vì ngày mai những người dân ở thị trấn này thương tiếc cho cái chết sẽ đòi đưa các cậu về chầu ông bà.”

Mặt mày Steve Dubay trông xám ngoét. Avarino liếc qua là biết cái đầu gan thỏ đế của cậu nhóc hư thân này nghĩ gì, ông đoán cậu nhóc đang nghĩ tới người bố dượng của mình. Và dù Avarino chẳng ham hố gì cộng đồng đồng tính nhỏ ở Derry - giống các viên cảnh sát khác trong lực lượng, ông chỉ mong một ngày nào đó Falcon đóng cửa dẹp tiệm mãi mãi – ông sẽ vui vẻ được hộ tống Dubay về nhà. Thậm chí, ông còn sẵn lòng giữ tay Dubay để ông bố dượng đập cậu con trời đánh của mình ra bã. Avarino không thích dân đồng tính, nhưng điều đó không có nghĩa ông cho rằng họ đáng bị hành hạ và giết hại. Mellon thảm thương không thể tả nổi. Khi họ vớt được xác anh ta từ dưới cầu Kênh Đào lên, mắt anh mở to, trợn ngược đầy hãi hùng. Và ông tướng ngồi đây không ý thức được mình đã tiếp tay cho điều gì.

“Chúng cháu không cố tình làm hắn bị thương,” Steve lặp lại. Đây là lời khai mà cứ khi nào bối rối cậu ta lại vin vào.

“Đó là lý do cậu muốn khai thật với bọn tôi,” Avarino chân tình thủ thỉ. “Nói hết sự thật với bọn tôi, và có khi chuyện này chỉ bé như lỗ mũi thôi. Đúng không, Barney?”

“Chứ còn gì nữa,” Morrison gật gù.

“Tôi hỏi thêm lần nữa, cậu đã nói gì?” Avarino dụ dỗ.

“Dạ…” Steve lừng khừng, đoạn chậm rãi kể lại mọi thứ.

7

Khi Falcon được mở cửa vào năm 1973, Elmer Curtie nghĩ rằng khách khứa đến đây đa phần sẽ là người đi xe buýt – trạm xe bên cạnh phục vụ ba tuyến khác nhau: Tuyến Xe lửa, Tuyến Greyhound và Tuyến Hạt Aroostook. Tiếc rằng ông không nhận ra rất nhiều hành khách đi xe buýt là phụ nữ hoặc gia đình dắt díu theo con nhỏ. Hơn nữa, có những người cất rượu bia trong túi nâu và thậm chí còn chẳng bước xuống xe. Những người xuống xe thường là binh lính, thủy thủ, họ chỉ muốn làm đôi ba ly cho tỉnh táo – thời gian dừng chân chỉ mười phút, chẳng thể nào chén chú chén anh cho thoải mái.

Curtie bắt đầu lờ mờ ngộ ra hiện trạng vào năm 1977, nhưng lúc ấy đã quá trễ: ông nợ ngập đầu, hóa đơn chất như núi và giật gấu vá vai mãi mà lỗ vẫn hoàn lỗ. Ông từng liều lĩnh nghĩ đến việc đốt nơi này để lấy tiền bảo hiểm, nhưng phải thuê dân chuyên phóng hỏa thực hiện giùm, chứ tự làm thì có mà vải thưa che mắt thánh… khổ nỗi ông cũng chẳng biết những kẻ chuyên đốt nhà đó tụ tập ở đâu.

Tháng Hai năm đó, ông quyết định sẽ cố đấm ăn xôi đến ngày 4 tháng 7; nếu tới lúc đó tình hình không khởi sắc, ông sẽ rời khỏi nơi đây, nhảy lên tuyến Greyhound và xuôi xuống Florida kiếm miếng cơm manh áo dưới đấy.

Tuy nhiên, đời lắm bất ngờ, năm tháng sau, thiên thời địa lợi đến với quán rượu được sơn đen và vàng óng, bày biện chim nhồi bông này (anh trai của Elmer Curtie là một người nhồi bông chim nghiệp dư, khi ông này qua đời, có bao nhiêu Elmer thừa kế tất). Bình thường, tiệm chỉ bán được sáu mươi ly bia, pha chế đâu đấy chừng hai mươi ly đồ uống một đêm, thì đợt này, Elmer phục vụ được những tám mươi ly bia, rót hơn trăm ly đồ uống… trăm hai chục ly… thậm chí có đêm lên đến trăm sáu chục.

Khách khứa đến quán ông hầu hết là thanh niên trai tráng, lịch thiệp. Nhiều người ăn mặc chẳng giống ai, nhưng thời bấy giờ, ăn mặc lố lăng vẫn là điều hết sức bình thường, và phải mãi đến năm 1981, Elmer Curtie mới phát hiện khách khứa đến tiệm mình đều là người đồng tính. Nếu nghe ông kể điều đó, dân Derry sẽ phá lên cười và trêu Elmer Curtie đừng tưởng họ ngu si mà lòe bịp - nhưng lời ông nói hoàn toàn là thật. Giống như một anh chồng bị vợ cho mọc sừng, ông là người cuối cùng biết chân tướng sự thật… mà đến lúc ngộ ra, ông cũng mặc kệ. Dù gì quán rượu cũng đang hái ra tiền, chưa kể, dù ở Derry có bốn quán rượu khác cũng ăn nên làm ra nhưng chỉ có mỗi Falcon là khách khứa không thỉnh thoảng cao hứng đập phá tanh bành cửa tiệm. Thứ nhất, chẳng có bóng hồng nào để cánh mày râu tranh giành đến sứt đầu mẻ trán; thứ hai, những vị khách này, dù bóng hay không, xem chừng biết cách dĩ hòa vi quý hơn so với những gã đàn ông thích gái gú thông thường.

Khi ngộ ra xu hướng tình dục của các vị khách hay lui đến quán mình, ông nghe đầu làng cuối xóm bàn tán những điều hết sức chói tai về Falcon – mấy chuyện này thật ra đã được rỉ tai bao năm, chỉ có điều đến tận năm 1981, Curtie mới nghe thấy. Thậm chí ông còn để ý những kẻ hăng say đàm tiếu nhất là những người đàn ông có dùng pa lăng xích kéo cũng nhất quyết không vào Falcon, như thể sợ bắp tay sẽ rơi ra khỏi cẳng không bằng. Ấy thế mà họ lại siêng ngồi lê đôi mách vậy đấy.

Người ta đàm tiếu với nhau rằng chỉ cần bén mảng vào đó vào bất cứ đêm nào, ta sẽ thấy cảnh đàn ông nhảy nhót sát rạt nhau, cạ của quý vào nhau ngay trên sàn nhảy, hôn nhau thắm thiết ở quầy, xúc lọ trong nhà vệ sinh. Thậm chí phía sau còn có một căn phòng dành cho khách khứa lui tới nếu muốn vui vầy tí đỉnh ở Tháp Tráng kiệt – có một ông chú trung niên to cao mặc đồng phục Đức quốc xã, từ cánh tay lên tới vai bôi trơn đầy đủ, sẵn sàng phục vụ nếu khách có nhu cầu.

Tất cả chỉ là tin đồn, không điều nào là thật. Khi hành khách từ trạm xe buýt với cái cổ họng khát khô bước vào quán để làm một ly bia hay một ly highball, họ chẳng thấy Falcon có gì bất thường - đúng là có rất nhiều thanh niên trai tráng, nhưng nó không có gì khác so với hàng nghìn quán rượu cho tầng lớp lao động trên khắp đất nước này. Khách khứa là dân đồng tính, nhưng đồng tính là một chuyện, biết suy nghĩ hay không lại là chuyện khác. Nếu thích chút lố lăng, họ có thể đến Portland. Nếu muốn thêm phần táo bạo – sự táo bạo theo kiểu quán Ramrod hoặc Peck’s Big Boy - họ có thể đến New York hoặc Boston. Derry khá nhỏ, chỉ là một tỉnh lị, và cộng đồng người đồng tính ở Derry hiểu rõ cái bóng mà họ vẫn xoay xở nương vào để tồn tại.

Một thức uống có cồn thường được phục vụ gồm đá lạnh trong ly cao bằng thủy tinh hoặc ly Collins.

Don Hagarty lui tới Falcon được hai, ba năm thì một đêm tháng Ba năm 1984, anh được giới thiệu với Adrian Mellon. Trước đó, Hagarty là một người trăng hoa, lần nào xuất hiện cũng cặp kè với người mới. Nhưng đến cuối tháng Tư, ngay cả một người không tọc mạch như Elmer Curtie còn thấy rõ như ban ngày rằng giữa Hagarty và Mellon đã nảy nở thứ gì đó.

Hagarty làm nghề diễn họa kiến trúc cho một công ty kỹ thuật ở Bangor. Adrian Melon làm nghề viết lách tự do, tìm cách đăng bài cho bất cứ trang nào khả dĩ – tạp chí hàng không, tạp chí mở lòng, tạp chí địa phương, thực phẩm chức năng Chủ nhật, tạp chí khiêu dâm. Anh đang mày mò sáng tác tiểu thuyết nhưng kiểu nửa vời – anh viết từ năm ba đại học, và đó là chuyện của mười hai năm về trước.

Anh đến Derry để viết một bài về Kênh Đào - anh được tờ New England Byways cử đi, một tờ báo hai tháng một kỳ, phát hành ở Concord. Adrian Mellon nhận nhiệm vụ này vì anh có thể bòn rút Byways ba tuần công tác phí, trong đó có một căn phòng xinh xẻo nhà nghỉ Derry, và thu thập dữ liệu mình cần cho bài viết trong khoảng năm ngày. Trong hai tuần sau, anh dư sức gom tài liệu cho bốn bài viết nữa về địa phương.

Nhưng suốt ba tuần đó, anh gặp Don Hagarty, và thay vì trở lại Portland khi ba tuần tiền chùa kết thúc, anh kiếm một căn phòng trọ nhỏ ở đường Kossuth. Nhưng rốt cuộc anh chỉ sống ở đó sáu tuần, rồi chuyển về chung nhà với Don Hagarty.

8

Hagarty kể với Harold Gardener và Jeff Reeves rằng mùa hè năm đó là mùa hè đẹp nhất đời anh – anh tự trách lý ra mình phải thủ sẵn thế phòng bị; lý ra anh phải biết Chúa chỉ kê tấm thảm dưới chân những kẻ như anh để dễ bề giật tung.

Anh nói, bóng đen duy nhất là thái độ gắn bó thấy rõ của Adrian với Derry. Anh ấy có một chiếc áo thun đề dòng chữ Maine không tệ nhưng Derry số dách! Anh ấy có một chiếc áo khoác Những Chú hổ Derry. Và tất nhiên là cả cái mũ. Anh ấy hào hứng cho hay bầu không khí nơi đây tràn đầy sức sống và khơi gợi sự sáng tạo. Mà hình như là thế thật: lần đầu tiên trong cả năm trời, anh ấy lấy cuốn tiểu thuyết giậm chân tại chỗ của mình ra khỏi rương.

“Vậy cậu ấy có bắt tay vào viết lách không?” Gardenner hỏi Hagarty, thật ra chẳng quan tâm lắm, chỉ là giữ cho Hagarty tập trung vào câu chuyện.

“Có, anh ấy viết ngày viết đêm. Anh ấy còn nói có khi cuốn tiểu thuyết sẽ nhạt như nước ốc, nhưng thà nhạt chứ không dang dở. Anh ấy dự tính sẽ hoàn thành trước sinh nhật vào tháng Mười. Tất nhiên, anh ấy làm gì biết bộ mặt thật của Derry thế nào đâu. Anh ấy tưởng mình biết, nhưng anh ấy ở đây chưa lâu, sao mà hiểu thấu Derry được kia chứ. Tôi cố tìm cách nói cho anh ấy mà anh chỉ bỏ ngoài tai.”

“Thế Derry thật sự ra sao hả, Don?” Reeves thắc mắc.

“Giống xác một ả điếm nhung nhúc giòi ngoe nguẩy ở bím.” Don Hagarty chỏng lỏn.

Hai viên cảnh sát trợn tròn mắt, người đờ ra như phỗng.

“Một nơi thật sự tệ lậu ,” Hagarty nói. “Chẳng ra thể thống cống rãnh gì cả. Hai người không biết điều đó à? Hai người ở đây cả đời mà không thấy điều đó sao?”

Họ lặng thinh. Sau một lúc, Hagarty kể tiếp.

9

Trước khi Adrian Mellon bước vào đời mình, Don đã dự trù sẵn kế hoạch dứt áo ra đi khỏi Derry. Anh đã ở đây ba năm, phần nhiều lý do là bởi anh đồng ý thuê lâu dài căn phòng với cảnh nhìn ra sông tuyệt vời nhất thế giới, nhưng hợp đồng sắp sửa hết hạn và Don thì mừng như mở cờ trong bụng. Anh không cần đi đi về về cả quãng đường xa từ Bangor. Chấm dứt cả những nhộm nhoạm khó chịu – anh từng bảo với Adrian rằng ở Derry lúc nào cũng có cảm giác như 1 giờ chiều. Có thể với Adrian, Derry là một nơi hay ho, nhưng Don thì sợ phát khiếp. Vấn đề không chỉ nằm ở thái độ kỳ thị người đồng tính của thị trấn này, được những người thuyết pháp hoặc mấy bức tranh graffiti trong công viên Bassey thể hiện rõ như ban ngày, mà nằm ở một thứ anh mơ hồ cảm nhận được. Nghe thấy thế, Adrian phá lên cười.

“Don, thị trấn nào ở Mỹ mà chẳng có một nhóm người ghét dân hai-phai,” anh nói. “Đừng nói với anh rằng em không biết điều đó nhé. Suy cho cùng, đây là thời của Lão khốn Ronnie và mụ Phyllis Bại phái mà.”

“Ra công viên Bassey với em đi,” Don chốt hạ, sau khi thấy Adrian chân chất nghĩ trong lòng như thế – rằng Derry cũng giống như những thị trấn tầm trung khác ở những vùng hẻo lánh. “Em muốn cho anh thấy thứ này, người thương ơi.”

Họ lái xe đến công viên Bassey – lúc này là giữa tháng Sáu, chừng một tháng trước khi Adrian bị giết, Hagarty khai với cảnh sát. Anh dẫn Adrian đi vào vùng tối tăm, có mùi ngai ngái của cầu Hôn Nhau, đoạn chỉ về phía một dòng chữ graffiti. Adrian phải đánh diêm, giữ nó dưới dòng chữ mới đọc được.

CHO TAO THẤY CH*M THẰNG BÓNG, VÀ TAO SẼ THIẾN HỘ MÀY.

“Em biết người ta kỳ thị dân đồng tính mà,” Don trầm tư nói. “Khi còn là một thiếu niên, em bị đập một trận ở ngay bến xe buýt thuộc Daylon; vài đứa ở Portland đã đốt giày của em bên ngoài cửa tiệm bánh mì kẹp, còn lão cảnh sát béo ị chỉ ngồi trong xe tuần tra và rinh rích cười. Em thấy nhiều rồi… nhưng chưa bao giờ em thấy thứ nào giống vậy. Bên này. Anh qua đây mà xem.”

Một que diêm khác chiếu sáng dòng chữ ĐÓNG ĐINH VÀO MẮT ĐÁM ĐỒNG BÓNG (VÌ CHÚA)!

“Kẻ nào viết nổi những lời lẽ này chắc chắn có vấn đề về thần kinh. Nếu chỉ có một người, một con sâu bệnh hoạn làm rầu nồi canh thì không nói, đằng này…” Don khẽ lướt tay dọc theo chiều dài cầu Hôn Nhau. “Những lời như vậy nhiều lắm… và em không nghĩ chỉ do một người viết đâu. Đó là lý do em muốn rời Derry, Ade ạ. Trên đời này không thiếu những kẻ đầu óc điên loạn.”

“Hừm, vậy đợi đến khi anh viết xong cuốn tiểu thuyết được không? Anh xin em đấy? Anh hứa trễ nhất là tháng Mười. Ở đây không khí trong lành quá.”

“Nhưng anh ấy nào ngờ thứ mình phải dè chừng lại là nước,” Don Hagarty cay đắng nói.

10

Tom Boutillier và Cảnh sát trưởng Rademacher nghiêng người về phía trước, lặng thinh. Chris Unwin ngồi trên ghế, đầu cúi gằm, lẩm bẩm đều đều với sàn nhà. Đây chính là phần họ muốn nghe, là phần sẽ đưa ít nhất hai kẻ đầu gấu này vào nhà tù Thomaston.

“Hội chợ gì mà chán phèo,” Unwin nói. “Chưa gì họ đã dẹp mấy gian đua xe, như Đĩa bay Hắc ám và Đu quay vòng tròn. Họ gắn biển đóng cửa ở gian Xe đụng. Chẳng có trò gì mở ngoài mấy trò con nít. Vậy nên bọn cháu xuống khu trò chơi và anh Webby thấy trò ném vòng nên trả năm mươi xu để tham gia, ở đó có cái mũ giống mũ thằng bê đê đội, anh ấy cố ném cho bằng được nhưng lần nào cũng trượt, mà càng trượt thì anh ấy càng cáu nhặng xị lên, chú hiểu không? Còn Steve - anh ấy lúc nào mà chẳng đi loanh quanh bảo người ta hạ hỏa cái này bớt giận cái kia, sao mày cứ lồng lên như đỉa phải vôi các kiểu, chú hiểu không? Nhưng vấn đề là hôm đó anh ấy đang nổi máu sau khi chơi thuốc, chú hiểu không? Cháu chẳng biết đó là thuốc gì, chỉ thấy nó màu đỏ. Chắc cũng hợp pháp. Nhưng anh ấy cứ nhằng nhẵng theo anh Webby đến độ cháu nghĩ anh Webby phải tương anh ấy vỡ đầu, chú hiểu không? Anh ấy đi luôn. Còn chẳng thắng nổi cái mũ của thằng bê đê đó. Chỉ có loại cùi bắp mới không thắng nổi cái mũ bê đê ấy. Rốt cuộc bà chủ thí luôn cho anh ấy giải thưởng dù chiếc vòng còn chưa lọt qua, cháu nghĩ chắc bà ấy muốn tống khứ bọn cháu đi chỗ khác. Hên xui. Có khi không phải thế. Nhưng cháu đồ là vậy. Tại cái kèn tò tí te đó, chú biết không? Chú thổi, nó phồng lên, phụt ra, phát ra âm thanh như tiếng xì hơi, chú biết không? Ngày xưa cháu từng có một cái. Cháu được tặng nhân dịp Halloween hay tốt nhất gì đó, cháu khoái nó lắm, tiếc là lại đánh mất. Hay có khi có đứa nào chỉa nó khỏi túi cháu trên sân trường ngu si nhỉ? Sau khi hội chợ đóng cửa, bọn cháu lững thững đi ra ngoài, Steve vẫn lải nhải đến điếc tai về việc Webby không giành nổi cái mũ bê đê đó, chú biết không, và Webby thì im như thóc, cháu thấy điềm này không lành rồi, nhưng lúc ấy cháu đang tê tê, chú biết không? Thế nên cháu biết mình phải đổi chủ đề, cơ mà cháu chẳng nặn ra được gì cả, chú biết không? Sau đó chúng cháu đến bãi đậu xe, Steve hỏi, Chúng mày muốn đi đâu? Về nhà hả? Thì Webby đáp, chạy đến Falcon xem thằng bê đê có mặt ở đó không.”

Boutillier và Rademacher liếc mắt nhìn nhau. Boutillier giơ một ngón tay lên gõ vào má mình: dù tên dốt đặc cán mai mang đôi ủng hầm hố này không hay biết, nhưng hiện tại, hắn đang khai ra một vụ giết người cấp độ một.

“Vì vậy cháu bèn nói, Em phải về nhà, và Webby đáp, Mày sợ đến quán bar đồng bóng đấy à? Thế là cháu đáp, Mẹ kiếp! Đếch phải! Steve vẫn phê hay sao đó, vì anh ấy bảo, Đi làm gỏi thằng bê đê đi! Đi làm gỏi thằng bê đê đi! Đi làm gỏi…”

11

Dòng đời nghiệt ngã đẩy đưa mọi chuyện chệch lối với tất cả mọi người. Lúc ấy, Adrian Mellon và Don Hagarty vừa rời khỏi Falcon sau hai ly bia, họ đi bộ ngang qua trạm xe buýt, quấn quýt tay trong tay. Họ chẳng mảy may nghĩ gì; nắm tay thì nắm tay thế thôi. Lúc đó đã là 10 giờ 20 phút tối. Họ đến khúc quanh và rẽ trái.

Đi ngược lên dòng sông chưa tới nửa dặm sẽ đến cầu Hôn Nhau; họ tính băng qua cầu Phố Chính, nơi khung cảnh kém hữu tình hơn. Sông Kenduskeag đang ở mực nước thấp nhất trong hè, dòng nước sâu chưa tới một mét hai lững lờ xung quanh các trụ bê tông.

Khi chiếc Duster dần tiến về phía họ (Steve Dubay đã phát hiện hai người họ bước ra từ Falcon và vui mừng chỉ cho đám đồng bọn của mình), họ đang ở rìa nhịp cầu.

“Dừng xe! Dừng ngay!” Webby Garton rống lên. Cặp đôi vừa đi ngang qua cột điện và hắn trông thấy họ đang nắm tay nhau. Cảnh tượng trước mắt thổi bùng ngọn lửa trong hắn… nhưng chính cái mũ kia mới khiến hắn trào máu họng. Bông hoa giấy to tướng vắt vẻo hết bên này đến bên kia. “Dừng lại, mẹ kiếp!”

Và Steve dừng thật.

Chris Unwin phủ nhận không trực tiếp nhúng tay vào những hành động sau đó, nhưng Don Hagarty lại khai một câu chuyện khác. Anh cho hay, Garton đã lao ra khỏi xe ngay khi xe còn chưa kịp dừng lại, hai tên kia nhanh nhảu theo sau. Hai bên lời qua tiếng lại. Không mấy dễ nghe. Đêm ấy, Adrian không tỏ thái độ tự đắc hoặc ra vẻ trêu ghẹo nữa, anh nhận ra họ đang vướng phải một chuyện khủng khiếp.

“Đưa tao cái mũ đó,” Gartongầm gừ. “Đưa tao ngay, thằng bóng.”

“Nếu tôi làm vậy thì cậu có để chúng tôi yên không?” Arian hổn hển đầy hãi hùng, rơm rớm nước mắt, hết nhìn Unwin lại nhìn Dubay và Garton với đôi mắt kinh sợ.

“Đưa tao cái mũ chó đẻ đó!”

Adrian ngoan ngoãn đưa nó. Garton rút con dao gấp từ túi trước quần jean rồi cắt làm đôi. Hắn chà hai miếng giấy vào đít quần, đoạn thả xuống đất và giậm chân thành thịch.

Don Hagarty lùi lại một chút trong lúc cả đám chăm chú để tâm vào Adrian và cái mũ – anh cho hay anh muốn tìm xem có cảnh sát nào gần đó không.

“Vậy bây giờ các cậu để chúng tôi…” Adrian Mellon chưa kịp nói hết câu thì Garton đã đấm thẳng vào mặt anh, khiến anh loạng choạng lùi về phần rào chắn cao ngang hông dành cho người đi bộ của cây cầu. Adrian hét lên, đưa tay lên miệng. Máu bê bết qua kẽ tay.

“Ade!” Hagarty ré lên, chạy ào tới trước. Dubay ngáng chân anh. Garton đá vào bụng khiến anh ngã khỏi vỉa hè, lao xuống đường. Một chiếc xe chạy ngang qua. Hagarty dựng dậy, thét gào cầu cứu. Nhưng chiếc xe không dừng lại. Anh kể với Gardener và Reeves rằng người lái xe thậm chí còn chẳng buồn nhìn xung quanh.

“Ngậm mõm lại, thằng bóng!” Dubay nói và đá vào mặt anh. Hagarty ngã rạp vào cống, nửa tỉnh nửa mê.

Chốc sau, anh nghe thấy giọng nói - của Chris Unwin - dọa anh biến ngay trước khi chịu trận như thằng bồ mình. Bản thân Unwin cũng khai mình đã dọa nạt như vậy.

Hagarty có thể nghe thấy những tiếng đập thùm thụp và tiếng người yêu của mình la hét. Anh kể với cảnh sát rằng Adrian rít lên như con thỏ dính bẫy.Hagarty bò về phía ngã tư, phía ánh đèn sáng choang của bến xe buýt, và khi đã bò được một đoạn, anh ngoái lại nhìn.

Adrian Mellon, cao một mét sáu lăm, nặng chừng sáu mươi ký, ướt như chuột lột, bị quăng quật từ Garton sang Dubay rồi đến Unwin như một trò chơi dành cho ba người. Người anh run rẩy, ngả nghiêng như con búp bê vải. Chúng nó đấm anh, thụi anh, xé đồ của anh. Hagarty cho hay mình còn chứng kiến Garton thụi vào bộ hạ của Adrian. Tóc anh xõa xươi xuống mặt. Máu ộc ra từ miệng, nhuốm đỏ áo anh. Webby Garton đeo hai chiếc nhẫn to gô trên tay phải: một chiếc của trường Trung học Derry, chiếc còn lại hắn tự làm trong lớp dạy nghề – chữ DB bằng đồng xoắn xít dài chừng bảy phân. DB là viết tắt của Dead Bugs, một nhóm nhạc metal mà hắn vô cùng hâm mộ. Hai chiếc nhẫn cứa đứt môi trên của Adrin và làm vỡ ba răng của hàm trên đến tận nướu.

“Cứu với!” Hagarty ré lên. “Cứu mới! Cứu với! Chúng nó giết anh ấy mất! Cứu với!”

Những tòa nhà trên Phố Chính tối đen đầy ma mị. Không một ai tới giúp họ – Hagarty thật không tài nào hiểu nổi: ở đằng kia, ngay hòn đảo ngập tràn ánh sáng, nơi ngự trị bến xe buýt, vẫn có người kia mà. Ban nãy, khi anh và Ade đi ngang qua, anh đã trông thấy họ. Chẳng lẽ không ai trong số họ đến cứu sao? Không một ai ư?

“CỨU VỚI! CỨU VỚI! CHÚNG NÓ GIẾT ANH ẤY MẤT, CỨU VỚI, TÔI XIN CÁC NGƯỜI, VÌ CHÚA!”

“Cứu à,” một giọng nói thì thầm khe khẽ vang lên bên trái Don Hagarty… và sau đó là một tiếng cười khúc khích.

“Làm gỏi!” Garton hét toáng lên… vừa la hét vừa phá lên cười. Hagarty nói với Gardener và Reeves rằng cả ba tên bọn chúng cười ha hả khi hành hung Adrian. “Làm gỏi nó đi! Làm gỏi nó!”

“Làm gỏi! Làm gỏi! Làm gỏi!” Dubay véo von, cười hăng hắc.

“Cứu à,” tiếng thì thầm ấy lại vang lên, và theo sau giọng nói đầy hắc ám ấy lại là tiếng cười giòn tan, the thé – như tiếng một đứa bé không nhịn nổi mà bật cười.

Hagarty kể, khi nhìn xuống, anh trông thấy một gã hề – và kể từ lúc ấy, Gardener và Reeves bỏ ngoài tai mọi lời Hagarty nói, vì đối với họ, tất cả chỉ là những lời chửi đổng của kẻ rồ dại. Tuy nhiên, về sau Harold Gardener đâm băn khoăn. Khi phát hiện cậu nhóc Unwin cũng trông thấy một gã hề – hoặc chí ít cậu ta khai như vậy - anh bắt đầu sinh nghi. Đồng nghiệp của anh không để tâm đến vấn đề này, hoặc có vẻ ngoài mặt là thế.

Hagarty nói gã hề trông giống Ronald McDonald và Bozo, chú hề trên chương trình ti vi ngày xưa – ấn tượng ban đầu của anh là thế, do hắn ta có những túm tóc xù lớn màu cam. Nhưng sau này, lúc ngẫm lại, anh lại thấy gã ta chẳng giống hai chú hề kia chút nào. Nụ cười được tô trên khuôn mặt trắng bệch có màu đỏ, chứ không phải màu cam, còn đôi mắt thì ánh lên sắc bạc gớm ghiếc. Có lẽ hắn ta đeo kính áp tròng… nhưng phần nào đó trong anh lúc ấy và đến bây giờ vẫn cảm giác khéo có khi màu bạc ấy lại chính là màu mắt thật của hắn ta. Hắn mặc bộ đồ rộng thùng thình với những cái nút bằng bông màu cam; bàn tay hắn đeo găng trắng.

“Nếu anh cần giúp đỡ, Don à” gã hề lên tiếng, “thì tôi tặng anh bóng bay.”

Và rồi nó đưa anh chùm bóng mà nó đang cầm trên tay.

“Chúng lơ lửng” gã hề tiếp tục. “Dưới này cái gì cũng lơ lửng; và chẳng chóng thì chày, bạn anh cũng thế.”

12

“Gã hề ấy biết tên anh để gọi cơ à?” Jeff Reeves nói, giọng vô cảm. Hagarty cúi gằm, Reeves nhìn Harold Gardenner, một mắt nhíu lại thành cái nháy mắt.

“Phải,” Hagarty đáp, không ngẩng đầu lên. “Tôi biết nghe rất kỳ cục.”

13

“Sau đó, các cậu ném cậu ta xuống” Boutillier nói. “Làm gỏi cậu ta.”

“Không phải cháu!” Unwin chối đây đẩy, ngẩng đầu lên. Hắn hất tóc để nó không lòa xòa xuống mắt và nhìn họ khẩn thiết. “Khi thấy họ làm thật, cháu đã cố kéo Steve lại, vì cháu sợ nó sẽ phải bóc lịch… Chúng cháu cách mặt nước ba mét…”

Là bảy mét mới đúng. Một cảnh vệ của Cảnh sát trưởng Rademacher đã đo được con số này.

“Nhưng nó như phát rồ vậy. Hai chúng nó cứ hét toáng ‘Làm gỏi! Làm gỏi!’ rồi nhấc anh ta lên. Webby cắp nách, còn Steve kéo chân, và… và…”

14

Khi nhìn thấy điều đám côn đồ đang làm, Hagarty chạy lại chỗ chúng, vận hết sức bình sinh hét lên “Không! Không! Không!”

Chris Unwin đẩy anh ra sau, khiến Hagarty ngã nhào lên vỉa hè, răng va vào nhau lập cập. “Mày có muốn xuống kia luôn không?” Hắn gầm gừ. “ Biến ngay , thằng oắt!”

Từ trên cầu, chúng ném Adrian Mellon xuống nước. Hagarty nghe thấy tiếng tùm chát chúa.

“Tếch khỏi đây thôi,” Steve Dubai nói. Hắn và Webby trở lại xe.

Chris Unwin đi đến thành cầu và nhìn xuống. Đầu tiên hắn trông thấy Hagarty, trượt xềnh xệch, bò toài xuống bờ sông đầy rác và um tùm cỏ dại. Rồi hắn trông thấy gã hề. Ở đằng xa, gã hề đang kéo Adrian bằng một tay, tay kia cầm bóng bay. Adrian ướt như chuột lột, đuối nước và kêu van. Gã hề ngoẹo đầu, ngước lên cười với Chris. Chris khai hắn trông thấy đôi mắt lóe ánh bạc và hàm răng nhe ra – hắn bảo rằng nào răng nấy đều to tướng.

“Cứ như con sư tử trong rạp xiếc, trời ạ,” hắn cảm thán. “Cháu nói thật, chúng to cỡ đấy.”

Sau đó, hắn khai hắn trông thấy gã hề nhấc một tay của Adrian Mellon lên qua đầu.

“Tiếp theo thì sao, Chris?” Boutillier hỏi, nhưng trong bụng thì rõ ngán ngẩm với phần này. Anh đã chán nghe truyện cổ tích từ lúc mới tám tuổi rồi.

“Cháu không biết,” Chris đáp. “Đúng lúc đó, Steve chộp lấy cháu và ném cháu vào xe. Nhưng… cháu nghĩ nó cắn vào nách anh ta.” Hắn ngước lên nhìn họ với vẻ bối rối. “Cháu cảm giác nó thực sự làm thế, nó đã cắn vào nách anh ta.

Như thể nó muốn ăn thịt anh ta, trời ạ. Như thể nó muốn ăn tươi nuốt sống trái tim anh ta.”

15

Không phải, Hagarty phản bác khi nghe kể lại lời khai của Chris Unwin dưới dạng câu hỏi. Gã hề không lôi Ade lên bờ bên kia, ít nhất đó không phải cảnh anh chứng kiến - và anh khai khi đó anh chỉ biết ngây ra thẫn thờ quan sát, bởi đầu óc anh gần như trống rỗng.

Anh cho biết gã hề đứng gần bờ bên kia, giữ rịt thân thể lỏng tỏng nước của Adrian. Tay phải của Ade kẹp cứng sau đầu gã hề, và đúng là mặt của gã hề nằm dưới nách phải của Ade, nhưng nó không cắn anh, chính xác hơn là nó đang cười. Hagarty có thể thấy nó ngước nhìn từ dưới cánh tay Ade và nhăn nhở cười.

Gã hề siết chặt tay, và Hagarty có thể nghe thấy tiếng xương sườn răng rắc.

Ade ré lên.

“Lơ lửng với chúng tôi nào, Don,” gã hề lên tiếng từ cái miệng đỏ au đang mỉm cười, đoạn đưa bàn tay đang đeo găng trắng của mình chỉ lên phía cầu.

Mặt dưới cây cầu đầy bóng bay – không phải dăm chục hay một trăm mà là hàng ngàn quả, xanh đỏ tím vàng đủ cả, tất cả đều in dòng chữ TÔI ❤️ DERRY!

16

“Chà, như thế có vẻ lắm bóng bay thật,” Reeves nhận xét và nháy mắt với Harold Gardener.

“Tôi biết chuyện đó rất dị thường,” Hagarty nhắc lại, giọng đầy ủ rũ.

“Anh đã thấy những quả bóng đó à?” Gardener xác nhận.

Don Hagarty chậm rãi đưa hai tay lên trước mặt. “Tôi thấy chúng rõ như đang thấy những ngón tay mình lúc này. Hàng ngàn quả bóng. Thậm chí tôi còn không thể trông thấy mặt dưới cây cầu do nó che kín cả rồi. Chúng khẽ đung đưa, dập dềnh lên xuống. Có một thứ âm thanh kin kít trầm đục phát ra. Đó chính là tiếng bóng bay cọ vào nhau. Chưa kể dây. Có cả rừng những sợi dây trắng buông xuống. Trông như tơ nhện. Gã hề kéo Ade xuống dưới đó. Tôi nhìn thấy bộ đồ hắn mặc quệt qua chùm dây. Ade phát ra tiếng lục bục vì ngạt thở, nghe mà đau xót. Tôi chạy theo… và gã hề quay lại nhìn. Tôi thấy mắt của nó, và ngay lập tức tôi hiểu nó là ai.”

“Là ai vậy, Don?” Harold Gardener khẽ khàng hỏi.

“Là Derry,” Don Hagarty đáp. “Nó chính là thị trấn này.”

“Vậy lúc đó anh làm gì?” Reeves lên tiếng.

“Chạy chứ làm gì nữa, anh không có não à?” Hagarty nói, rồi òa khóc.

17

Harold Gardener im hơi lặng tiếng cho đến ngày 13 tháng 11, ngày trước khi John Garton và Steven Dubay hầu tòa ở Tòa án Quận Derry vì tội sát hại Adrian Mellon. Sau đó, anh đến gặp Tom Boutillier. Anh muốn bàn với ông về gã hề. Boutillier thì không - nhưng ông đồng ý thảo luận khi thấy Gardener có thể có những động thái khó lường nếu không được bày cho đường đi nước bước.

“Không có tên hề nào cả, Harold. Những gã hề duy nhất đêm đó là ba thằng du côn ấy. Cả anh và tôi đều biết rõ điều này mà.”

“Chúng ta có hai nhân chứng…”

“Ôi trời, dăm ba lời xàm ngôn. Unwin quyết định lôi thêm Người một tay để đổ vấy tội lỗi theo kiểu ‘Chúng cháu không giết thằng đồng bóng đáng thương đó mà là người đàn ông một tay’ vì cậu ta nhận ra lần này, mình đã gây ra một vụ án tày đình. Hagarty thì phát điên rồi. Anh ta đứng gần đó và chứng kiến đám du thủ du thực kia giết hại người bạn tri kỷ của mình. Giả sử anh ta khai trông thấy đĩa bay chăng nữa, tôi cũng chẳng lấy làm bất ngờ.”

Nhưng Boutillier biết gì đó. Gardener có thể nhìn thấy nó trong mắt ông, và việc Ủy viên công tố Quận cứ vòng vo tam quốc né tránh vấn đề khiến anh phát cáu.

“Thôi nào,” anh thốt lên. “Rõ ràng chúng ta có hai nhân chứng độc lập ở vụ này. Đừng cợt nhả với tôi nữa.”

“Chà, anh muốn tôi đùa cợt? Thế hóa ra anh bảo tôi rằng anh tin có một gã hề ma cà rồng dưới cầu Đường Chính? Tôi lại thấy ý tưởng này nghe vô cùng cợt nhả đấy.”

“Không, không hẳn thế, nhưng…”

“Hay anh bảo tôi tin Hagarty trông thấy cả triệu quả bóng bay dưới cầu, quả nào quả nấy in đúng dòng chữ viết trên mũ người yêu của anh ta? Biết sao không, tôi cũng nghĩ ý tưởng này nghe vớ vẫn không thể tả.”

“Không, nhưng…”

“Vậy tại sao anh cứ để tâm đến vấn đề này vậy?”

“Ông thôi trò hỏi cung tôi đi!” Gardener gầm lên. “Cả hai người đều mô tả như nhau, và họ không biết người kia khai gì!”

Từ nãy đến giờ, Boutillier ngồi ở bàn làm việc, xoay bút chì trong tay. Đoạn ông đặt nó xuống, đứng dậy, đi đến chỗ Harold Gardener, Boutillier thấp hơn chục phân, nhưng Gardener vẫn e dè lùi lại khi cảm nhận nộ khí của đối phương.

“Anh có muốn ta thua vụ này không, Harold?”

“Không. Tất nhiên là kh…”

“Anh có muốn những thằng phá làng phá xóm kia thoát tội không?”

“Không!”

“Được. Tốt lắm. Vì chúng ta đồng thuận về những điều cơ bản, nên để tôi nói thật với anh suy nghĩ của mình. Phải, rất có khả năng có một gã đàn ông dưới cầu đêm hôm đó. Thậm chí có khi hắn mặc bộ đồ của tên hề, dù theo kinh nghiệm làm việc với nhân chứng từ trước đến nay của tôi, chắc đó chỉ là một gã bợm nhậu hoặc một kẻ đầu đường xó chợ mặc mấy bộ đồ mà người ta đã bỏ đi mà thôi. Tôi đoán hắn mò xuống đấy xem có xu lẻ nào bị rơi hoặc đồ ăn thừa -ví dụ như nửa cái bánh mì kẹp người ta ăn dở rồi vứt xuống, hoặc vụn bánh dưới đáy bịch bim bim Frito hay không. Còn lại đều là do mắt của họ tự biên tự diễn, Harold. Anh thấy như vậy có khả dĩ không?”

“Tôi không biết,” Harold thành thật. Anh rất muốn xuôi theo, nhưng sau khi nghe hai bản đối chiếu lời khai ăn khớp đến thế… không. Anh không thấy điều đó khả dĩ.

“Thôi, chốt lại là thế này. Tôi không quan tâm đó là Thằng hề Kinko hoặc một gã vận độ Chú Sam đi cà kheo hay Bóng chúa Vui vẻ Hubert. Nếu ta đưa nhân vật này vào vụ án, luật sư của bị cáo sẽ vin vào đó trước khi anh kịp ú ớ mô tê. Luật sư sẽ biện hộ cho hai con cừu ngây thơ bé nhỏ kia, với mái tóc mới cắt và bộ quần áo mới đo, chẳng làm gì ngoài việc ném anh chàng đồng tính Mellon xuống cầu cho vui. Anh ta sẽ chỉ ra rằng Mellon vẫn còn sống sau khi rơi xuống, bởi họ có lời khai của Hagarty và Unwin để chứng minh cho việc này.

Ối trời đất ơi, té ra thân chủ của anh ta không phạm tội giết người! Thủ phạm là một tên điên mặc bộ đồ hề. Nếu ta đưa tình tiết này vào, mọi chuyện sẽ đi theo hướng đó, anh biết vậy mà.”

“Đằng nào thì Unwin cũng sẽ khai ra chi tiết này.”

“Nhưng Hagarty thì không,” Boutillier nói. “Vì anh ta hiểu tình thế. Nếu Hagarty không hé miệng thì ai tin Unwin?”

“Chà, có tôi và ông,” Harold Gardener nói chát chúa đến độ bản thân anh cũng bất ngờ. “Nhưng tôi nghĩ còn lâu chúng ta mới khai ra.”

“Ôi trời, tôi xin cậu!” Boutillier rống lên, tay khua loạn xạ. “Chúng giết người đấy! Cậu tưởng chúng nó chỉ quăng anh ta xuống à - Garton có con dao gấp. Mellon bị đâm bảy nhát, trong đó có một nhát vào phổi trái và hai nhát vào tinh hoàn. Vết thương hoàn toàn trùng khớp với con dao. Nạn nhân bị gãy bốn xương sườn – là do Dubay, hắn ta siết người Mellon lại. Đúng là anh ta còn bị cắn. Có vết cắn trên tay, trên má trái và cổ. Tôi đoán là trò của Unwin và Garton, dù chỉ có một vết là khớp rõ ràng nhưng chắc không đủ để làm bằng chứng trước tòa. Và đúng thật, phần nách phải của nạn chân bị xẻo mất một miếng thịt rõ to, nhưng thế thì sao? Có khi một trong ba kẻ thủ ác có sở thích cắn phá. Khéo hắn còn dựng hết cột cờ lên lúc cắn ấy chứ. Tôi đoán đó là Garton, dù chẳng bao giờ ta chứng minh được đúng sai. Thêm nữa, Mellon cũng bị sứt mất phần dái tai.”

Boutillier ngưng bặt, nhìn chằm chằm vào Harold.

“Nếu ta đem chi tiết gã hề vào, còn lâu ta mới trừng trị thích đáng được bọn chúng. Cậu có muốn vậy không?”

“Không, tôi nói rồi mà.”

“Nạn nhân là một anh chàng đồng bóng, nhưng anh ta nào hãm hại ai,” Boutillier nói. “Và thế là dung dăng dung dẻ, bỗng dưng ba thằng côn đồ mang bốt hầm hố xuất hiện, kết liễu đời anh ta. Tôi sẽ cho chúng đi tù mọt gông, bạn hiền à, và nếu tôi nghe tin chúng nó vào Thomaston và bị lôi ra thông lỗ hậu, tôi sẽ gửi thiệp với lời nhắn gửi rằng tôi mong thằng đè chúng ra thông dính AIDS.”

Gắt vậy, Gardener nghĩ thầm trong đầu. Kết án như thế cũng sẽ đánh bóng lý lịch cho ông trong hai năm tới, khi ông chạy đua lên chức chứ gì.

Nhưng anh bỏ đi mà không nói gì thêm, vì anh cũng muốn đám sát nhân đó vào tù bóc lịch.

18

John Webber Garton bị kết tội ngộ sát cấp độ một và thụ án mười tới hai mươi năm tù ở nhà tù bang Thomaston.

Steven Bishoff Dubay bị kết tội ngộ sát cấp độ một, lãnh án mười lăm năm ở nhà tù bang Shawshank.

Christopher Philip Unwin được xét xử riêng bởi hắn chưa tới tuổi thành niên, bị kết tội ngộ sát cấp độ hai. Hắn chịu án sáu tháng tại Cơ sở Huấn luyện ở Nam Windham dành cho nam, hưởng án treo.

Vào thời điểm những lời này được chấp bút, cả ba bản án đều đang bị kháng cáo; có lẽ chẳng mấy chốc, rồi người ta sẽ lại thấy Garton và Dubay lang thang ngắm gái hoặc chơi trò ném vòng ở công viên Bassey, cách không xa địa điểm phát hiện thi thể của Mellon nổi lềnh phềnh bên một trụ cầu Phố Chính.

Don Hagarty và Chris Unwin rời khỏi thị trấn.

Tại phiên tòa chính – của Garton và Dubay – không ai đề cập đến gã hề.