DERRY TAO ĐOẠN ĐẦU TIÊN
Bao nhiêu đôi mắt người phàm… từng nhác thấy cấu trúc bí mật của chúng đằng đẵng suốt bao năm?
Trích đoạn dưới đây và các Tao đoạn khác được trích dẫn từ cuốn “Derry: Góc khuất lịch sử thị trấn” của Michael Hanlon. Cuốn sách là tổng hợp các ghi chú chưa từng được xuất bản và các trích đoạn bản thảo đi kèm với nội dung viết theo hướng gần như nhật ký) được tìm thấy trong kho tàng Thư viện công cộng Derry. Tiêu đề lấy luôn từ tựa viết trên tập hồ sơ gắn đinh kẹp rời, vốn là nơi lưu trữ các ghi chú này trước khi tập hợp thành sách. Tuy nhiên, tác giả nhiều lần nhắc đến tác phẩm trong ghi chép riêng của bản thân là: “Derry: Góc nhìn từ sau cửa địa ngục.”?
Có lẽ nhiều người sẽ thấy ông Hanlon không đoái hoài đến chuyện xuất bản rộng rãi thành sách.
Ngày 02 tháng 01 năm 1985
Liệu cả một thành phố có thể bị ma ám hay không?
Ma ám theo cách những ngôi nhà có hồn ma bóng quế?
Nhưng không chỉ một tòa nhà trong thành phố ấy, hoặc một góc đường, hoặc một sân bóng rổ trong công viên nhỏ, với cái rổ chỏng chờ chẳng có lưới, thò ra dưới ánh hoàng hôn như một công cụ tra tấn gớm guốc, máu me, không chỉ một khu vực…
… mà là mọi thứ . Tất cả mọi công trình.
Liệu điều đó có khả dĩ hay không?
Quý bạn nghe này:
Bị ma ám: “Thường có ma quỷ, âm hồn đến viếng thăm.” Định nghĩa của Nhà xuất bản Funk & Wagnalls.
Ám ảnh: “Liên tục xuất hiện trong tâm trí; khó quên.” Định nghĩa của Ditto Funk & Friend.
Ám: “Xuất hiện và tái diễn thường xuyên, đặc biệt là ma.” Nhưng… hãy cứ nghe tôi đã!
– “Nơi thường bị viếng thăm : nhà nghỉ, hang ổ, nơi vui chơi…” Tất nhiên những chữ in nghiêng là của tôi.
Và còn một nơi nữa. Nơi này, cũng giống như nơi vừa nhắc tới ban nãy, là định nghĩa của danh từ ma ám , và là nơi khiến tôi sợ nhất: “Nơi cho thú ăn.”
Như đám súc sinh đã đánh đập Adrian Mellon rồi ném xác anh ta xuống cầu?
Như con thú chực chờ ngay dưới cầu?
Nơi cho thú ăn.
Thứ gì đang ngấu nghiến ở Derry? Thứ gì đang ăn tươi nuốt sống Derry?
Quý bạn biết không, đời quả lắm điều lạ – kể từ biến cố Adrian Mellon, tôi không ngờ một người sợ đến mất mật như tôi vẫn có thể sống sót, thậm chí hoạt động bình thường. Tựa hồ tôi vừa bước vào một câu chuyện, và ai nấy đều biết phải đến kết truyện bạn mới sợ hãi đến nhường này, khi con ma lẩn lút trong bóng đêm bỗng dưng nhảy bổ ra, ngấu nghiến… ăn thịt bạn, tất nhiên rồi.
Ăn thịt bạn.
Nhưng nếu đây là một câu chuyện, thì nó không giống những câu chuyện kinh dị cổ điển của Lovecraft, Bradbury hay Poe. Bạn thấy đấy, tôi không nắm hết mọi thứ nhưng tôi biết phần nào. Thật ra mọi thứ đã manh nha từ trước tháng Chín, trước cái hôm tôi giở tờ Derry News đọc bản ghi chép phiên tòa sơ thẩm cậu thiếu niên Unwin ấy, nhận ra gã hề giết George Denbrough đã xuất hiện trở lại. Tôi bắt đầu canh cánh từ khoảng năm 1980 – tôi đồ rằng phần nào đó bấy lâu nay ngủ say trong tôi đã thức giấc… và phần ấy biết rằng có thể đã đến lúc Nó hoành hành.
Bạn hỏi phần nào ư? Tôi đoán là phần người canh gác trong tôi.
Hoặc có thể đó là tiếng nói của con Rùa. Phải… Thôi thì cứ cho là thế. Tôi biết Bill Denbrough sẽ cho là như vậy.
Tôi tìm tin tức về những vụ việc đáng sợ ngày trước trong sách cũ; đọc về những vụ án tàn bạo trong những số báo xưa, chúng lấp ló trong tâm trí tôi, càng ngày càng đinh tai nhức óc, tôi như nghe thấy tiếng u u từ vỏ sò của một thế lực nào đó đang tụ hội ngày một mạnh mẽ, tôi như ngửi thấy mùi ozone ngai ngái khi sét sắp đánh xuống. Tôi bắt tay vào viết ghi chú cho cuốn sách mà tôi dám chắc cả đời mình cũng chẳng biên xong. Cùng lúc, tôi cứ thế sống cuộc đời mình. Ở một phần tâm trí, tôi đã và đang sống chung với những điều kinh hoàng nhất, rúng động nhất; ở phần tâm trí khác, tôi lại tiếp tục sống chuỗi ngày tẻ nhạt của một thủ thư trong thành phố nhỏ. Tôi xếp sách lên kệ, tôi làm thẻ thư viện cho khách mới; tôi tắt những đoạn vi phim mà thỉnh thoảng độc giả bất cẩn quên tắt, tôi bông phèn với Carole Danner chuyện tôi muốn vui vẻ với cô ấy, rồi cô ấy cũng đùa lại rằng mình cũng muốn vui vẻ với tôi, và cả hai chúng tôi đều biết thật ra cô ấy chỉ đùa, còn tôi thì không, giống như chúng tôi thừa hiểu cô ấy sẽ không nán lại một nơi tù túng như Derry này lâu, còn tôi sẽ sống ở đây đến chết, mải miết dán những trang Business Week rách nát, hằng tháng ngồi họp với nhà xuất bản, một tay cầm tẩu thuốc, tay kia cầm chồng Library Journals … và nửa đêm, tôi sẽ tỉnh giấc, nắm tay ghì chặt vào miệng để kìm những tiếng la thét.
Những tác phẩm văn học Gothic sai cả rồi. Tóc tôi không bạc trắng. Tôi không mộng du. Tôi không phát ngôn những câu kỳ quặc hoặc mang bàn cầu cơ trong túi áo khoác. Tôi thấy mình cười nhiều hơn một chút, nhưng chỉ có thế, ngoài ra, chắc lắm lúc nụ cười của tôi hơi chói tai hoặc kỳ cục, bởi thỉnh thoảng người ta nhìn tôi với ánh mắt kỳ lạ khi tôi phá lên cười.
Phần nào đó trong tôi -phần Bill gọi là tiếng nói của con Rùa – bảo đêm nay tôi phải gọi cho tất cả bọn họ. Nhưng ngay cả bây giờ, liệu tôi có hoàn toàn chắc chắn không? Tôi có muốn chắc không? Không - tất nhiên là không. Nhưng Chúa ơi, những gì đã xảy ra với Adrian Mellon quá giống những gì mà George, em trai của Bill Cà Lăm, phải gánh chịu vào mùa thu năm 1957.
Nếu nó tái diễn , tôi sẽ gọi họ. Tôi phải làm thế. Nhưng giờ chưa phải lúc. Đằng nào cũng còn quá sớm. Lần trước, mọi chuyện bắt đầu chậm rãi, và phải đến mùa hè năm 1958, con tạo mới thực sự xoay vần. Vậy nên… tôi đợi. Tôi lấp đầy quãng thời gian chờ đợi ấy bằng từ ngữ trong cuốn sổ này cùng những khoảng thời gian dài nhìn vào gương và giật mình nhận ra cậu bé năm nào đã trở thành kẻ quá đỗi xa lạ.
Khuôn mặt cậu bé có phần mọt sách, rụt rè; khuôn mặt người đàn ông giống khuôn mặt nhân viên ngân hàng trong bộ phim phương Tây, một vai chẳng có lời thoại, chỉ có mỗi nhiệm vụ là giơ tay lên đầy sợ hãi khi đám cướp xộc vào. Và nếu kịch bản yêu cầu có ai bị kẻ xấu bắn chết thì anh ta sẽ lãnh nhiệm vụ ấy.
Vẫn là Mike quen thuộc. Vẫn ánh nhìn có phần chằm chằm, cáu bắn vì ngủ ngắt quãng, nhưng phải quan sát kỹ mới phát hiện ra những khác biệt vị tế… quan sát kỹ như lúc người ta dí mặt vào nhau để hôn, mà đã lâu lắm rồi, tôi chưa gần gũi ai như thế. Nếu bạn nhìn lướt qua tôi, có lẽ bạn sẽ nghĩ Anh này đọc nhiều sách quá rồi, chỉ vậy thôi. Tôi đồ rằng có nằm mơ, bạn cũng chẳng thể nghĩ cái anh mang khuôn mặt nhạt nhòa của nhân viên ngân hàng này lại đang trầy trật chỉ để giữ yên tâm trí, sao cho không phát điên…
Nếu tôi gọi điện, có lẽ ai đó trong số họ sẽ tự kết liễu đời mình.
Đó là một trong những điều tôi buộc phải đối mặt suốt những đêm trường khi giấc ngủ mãi chẳng tới, những đêm tôi nằm trên giường trong bộ đồ ngủ màu xanh tẻ nhạt, cặp kính xếp gọn trên chiếc bàn đầu giường, cạnh ly nước tôi luôn để sẵn, phòng hờ nửa đêm tôi tỉnh dậy mà khát nước. Nằm giữa màn đêm, nhấp từng ngụm, tôi tự hỏi họ còn nhớ bao nhiêu - nhiều hay ít. Bằng cách nào đó, tôi dám chắc họ chẳng nhớ chút gì, bởi thật ra họ chẳng cần phải nhớ. Tôi là kẻ duy nhất ở lại Derry. Còn họ, họ tản mát mỗi người mỗi ngả, họ chẳng thể nào biết cuộc đời họ đã đi theo những nếp giống nhau. Nếu tôi đưa họ trở lại, cho họ xem nếp sống ấy… phải, hành động ấy có thể cướp đi mạng sống của họ. Có khi là tất cả bọn họ.
Vì thế, tôi cứ mường tượng đi mường tượng lại trong đầu, tôi nghiền ngẫm về họ , cố tưởng tượng họ ngày ấy và họ bây giờ, tìm cách nhận định ai là kẻ mong manh nhất. Thảng khi, tôi nghĩ ấy là Richie Tozier “Tía Lia” – cậu ấy là người mà đám Criss, Huggins và Bowers hay bắt được nhất, dù Ben mập hơn rất nhiều. Bowers là người Richie sợ nhất – hay nói đúng hơn, người mà cả đám chúng tôi sợ nhất – nhưng những kẻ khác cũng từng gieo rắc nỗi sợ hãi vào cậu. Nếu tôi đột nhiên gọi điện đến California cho cậu ấy, liệu cậu có xem đây giống như bộ phim Sự trở lại của đám du côn tệ hại, hai tên từ dưới mồ, một tên từ nhà thương điên ở đồi Juniper, nơi hắn lảm nhảm cho đến giờ? Thỉnh thoảng, tôi lại nghĩ Eddie là người yếu đuối nhất, bởi cậu ấy có một người mẹ độc đoán và mắc hen nặng. Hay Beverly nhỉ? Cô ấy luôn cố gắng tỏ ra thật mạnh mẽ, nhưng cô cũng sợ như bao thành viên khác trong nhóm mà thôi. Hay Bill Cà Lăm, bởi cậu ấy phải đối mặt với nỗi sợ hãi thường trực khi cậu phủ tấm vải che lên máy đánh chữ? Hay Stan Uris?
Lưỡi máy chém bén ngọt đang chực chờ cướp đi mạng sống của họ, nhưng càng nghĩ, tôi càng thấy họ không hề hay biết sự hiện diện của lưỡi dao. Tôi là kẻ để tay trên tay đòn. Tôi có thể kéo cánh tay đòn ấy chỉ bằng việc mở cuốn danh bạ điện thoại của mình và gọi cho họ, từng người từng người một.
Có lẽ tôi sẽ không cần phải làm thế. Tôi cố bám víu vào hy vọng mong manh rằng tôi chỉ nhầm những tiếng lải nhải của tâm trí nhút nhát này với giọng nói trầm hơn, thật hơn của con Rùa. Suy cho cùng, tôi có gì làm bằng chứng? Mellon chết vào tháng Bảy. Xác một đứa trẻ được tìm thấy ở đường Neibolt tháng Mười vừa rồi, thêm một đứa trẻ khác chết trong công viên Tưởng niệm đầu tháng Mười hai, trước cơn tuyết đầu mùa. Có lẽ thủ phạm là một kẻ du thủ du thực như báo chí đưa tin. Hoặc một gã điên loạn đã rời khỏi Derry sau khi thủ ác rồi tự sát vì dằn vặt hoặc ăn năn, như một số cuốn sách đưa ra giả thiết về những gì Jack Phanh Thây hành động.
Cũng có thể.
Nhưng xác bé gái nhà Albrecht được phát hiện ngay bên kia con đường, đối diện căn nhà cũ nát trên đường Neibolt… chưa kể, cô bé còn bị sát hại đúng ngày George Denbrough bị giết vào hai mươi bảy năm trước. Còn xác cậu bé nhà Johnson được tìm thấy ở công viên Tưởng niệm, một bên chân từ đầu gối trở xuống đứt lìa. Tất nhiên, công viên Tưởng niệm là nơi đặt Bể chứa nước Derry Standpipe, và xác cậu bé nằm ngay bên dưới. Bể chứa nước nằm gần Vùng Đất Cằn; đồng thời cũng là nơi Stan Uris trông thấy những đứa trẻ ấy.
Những đứa trẻ đã chết ấy.
Nhưng có thể tất cả chỉ là khói, là hư ảnh. Biết đâu đấy . Hoặc tình cờ. Hoặc giao thoa của hai điều này – thứ âm hưởng độc ác. Phải không nhỉ? Tôi cảm thấy thế. Ở Derry, điều gì cũng có thể.
Tôi cho rằng thứ mà ngày trước từng ở đây, nay vẫn còn hiện diện - thứ xuất hiện vào năm 1957 và 1958; thứ ở đây vào năm 1929 và 1930, khi quán rượu Điểm Đen bị Binh đoàn Lễ nghi Da trắng ở Maine thiêu rụi; thứ đó đã ở đây vào năm 1904, 1905 và đầu năm 1906 – chí ít cho đến khi Xưởng đúc Kitchener nổ tung; thứ đó đã ở đây vào năm 1876 và 1877, cứ mỗi hai mươi bảy năm, nó lại tái xuất hiện. Thỉnh thoảng nó đến sớm hơn một chút, đôi khi lại trễ hơn một chút… nhưng không khi nào nó không xuất hiện. Càng ngược về quá khứ, ta sẽ thấy càng khó tìm những người lần theo những những ghi chú sai sót vì tài liệu càng lúc càng ít và lỗ hổng trong lịch sử vùng đất này càng lúc càng phình ra. Nhưng nếu biết phải tìm chỗ nào - và tìm khi nào - xem như ta đã tiến được bước dài để giải bài toán. Nói chung, nó luôn quay trở lại.
Nó.
Vậy nên, phải, tôi cho rằng tôi phải gọi cho họ thôi. Tôi nghĩ ngoài chúng tôi ra, chẳng còn ai gánh vác trọng trách ấy. Bằng cách nào đó, và bằng lý do nào đó, chúng tôi là những kẻ được chọn để triệt tiêu Nó vĩnh viễn. Số trời đã định? Vận mệnh trêu ngươi? Hay lại là con Rùa chết tiệt ấy? Nó có ra lệnh hay nói chuyện không nhỉ? Tôi chẳng rõ. Mà tôi nghĩ khéo có khi điều đó cũng chẳng quan trọng. Nhiều năm về trước, Bill đã nói Con Rùa không thể giúp ta , và nếu ngày đó lời cậu ấy nói từng đúng, thì bây giờ cũng đúng.
Tôi hồi tưởng cảnh chúng tôi đứng dưới nước, hai tay nắm chặt, thề nguyền sẽ quay trở lại nếu nó tái diễn - sừng sững đứng đó, tựa hồ những vị tu sĩ quây thành vòng tròn, cắt máu ăn thề, tay nắm chặt tay. Một nghi thức có lẽ từ thuở thiên thu, tiếp nhận nguồn sống từ cây đại thụ quyền năng - cái cây mọc ở ranh giới những gì ta biết và những gì ta ngờ vực.
Vì có quá nhiều điểm giống nhau…
Nhưng lúc này, tôi chẳng khác nào Bill Denbrough, trăn trở hết lần này đến lần khác mỗi một chuyện, xem xét những chuyện đã xảy ra và rất nhiều giả thiết khó nghe (phần nào vô căn cứ), càng viết lại càng phát cuồng. Không tốt. Vô ích. Thậm chí là nguy hiểm. Nhưng tình thế này mà án binh bất động thì khó quá.
Mục đích ban đầu của tôi khi sử dụng cuốn sổ này là để vượt qua nỗi ám ảnh của mình bằng cách mở rộng những gì tôi quan tâm – suy cho cùng, câu chuyện này đâu phải chỉ xoay quanh sáu cậu trai và một cô gái, đứa nào đứa nấy đều bất hạnh, bị bạn bè xa lánh, vô tình vướng vào cơn ác mộng vào một đêm hè oi ả khi Eisenhower đương chức tổng thống. Hay nói cách khác, việc tôi đang làm cũng tương tự như việc kéo máy ảnh ra xa - để có thể lấy toàn cảnh thành phố, nơi gần 35.000 người làm việc, ăn, ngủ, mây mưa, mua sắm, lái xe lòng vòng, đi bộ, đến trường, vào tù, và thỉnh thoảng biến mất vào màn đêm.
Tổng thống Mỹ thứ 34 từ năm 1953 đến năm 1961.
Tôi nhiệt thành cho rằng để biết bản chất của một nơi ở hiện tại, ta phải hiểu bản chất của nó trong quá khứ . Và nếu phải nêu ra cái ngày bánh xe số phận bắt đầu lăn bánh với tôi, tôi sẽ nói ấy là một ngày đầu xuân năm 1980, lúc tôi đến gặp Albert Carson, ông cụ đã qua đời vào mùa xuân năm ngoái – hưởng dương chín mươi mốt tuổi, sống trọn vẹn đến tận cuối đời. Ông là thủ thư trưởng ở đây từ năm 1914 đến năm 1960, một quãng thời gian khó tin (mà thật ra, ông ấy cũng là người phi thường), và tôi cảm thấy Albert Carson là người nắm trong lòng bàn tay phần hay nhất lịch sử vùng đất này. Hai chúng tôi ngồi trên hiên nhà ông, tôi hỏi, ông trả lời, bằng giọng nói trầm đục – lúc đó, ông đang phải chống chọi với căn bệnh ung thư họng để rồi đành khuất phục dưới tay bệnh tật.
“Chẳng có chuyện gì đáng kể cả. Cậu thừa biết rồi mà.”
“Vậy cháu nên bắt đầu từ đâu?”
“Bắt đầu cái gì, vì Chúa?”
“Việc nghiên cứu lịch sử vùng đất này. Về thị trấn Derry.”
“Ồ. Thế cơ đấy. Vậy hãy bắt đầu từ vụ Fricke và Michaud đi. Ai cũng bảo đó là phần tuyệt vời nhất.”
“Và sau khi cháu đọc…”
“Đọc sao? Chúa ơi, dẹp ngay cho tôi! Vứt chúng vào sọt rác! Đó là bước đầu tiên. Sau đó đọc Buddinger. Branson Buddinger là một tay nghiên cứu dở tàn dở tệ, đã thế, khi chết, cột cờ còn dựng đứng, nếu một nửa những gì tôi nghe kể khi còn bé là đúng, nhưng nếu bàn tới Derry thì ông ấy đặt hết tâm hết sức vào đó. Những sự kiện ông ấy góp nhặt đều sai bét, được cái ông ấy đậm tình, Hanlon ạ.”
Tôi bật cười chút đỉnh, và Carson nhoẻn miệng cười với đội môi xù xì thô ráp – một nét biểu cảm hài hước dù trông khá đáng sợ. Trong phút chốc, nhìn ông như một con kền kền sung sướng dõi theo cảnh con thú vừa bị giết, đợi nó phân hủy vừa phải để đánh chén.
“Sau khi đọc xong Buddinger thì chuyển qua đọc Ives. Ghi chú lại tất cả những người ông ấy từng nói chuyện. Sandy Ives hiện vẫn làm việc ở Đại học Maine. Chuyên nghiên cứu văn hóa dân gian. Sau khi đọc xong thì đến gặp ông ấy rồi mời ông ấy bữa tối. Tôi hay đưa ông ấy đến nhà hàng Orinoka, vì bữa tối ở đấy dường như chẳng bao giờ kết thúc. Hỏi nhiều vào. Hí hoáy viết đầy tên và địa chỉ vào sổ. Nói chuyện với những vị bô lão ông từng trao đổi – những người chưa về với tổ tiên ấy, tính ra chẳng còn mấy người đâu, ha ha ha ha! – rồi lại tiếp tục xin các mối liên hệ từ những người này. Đến lúc đó, cậu sẽ tìm được chỗ đứng mà mình cần, nếu cậu sáng dạ được bằng một nửa những gì tôi đánh giá cậu. Nếu tìm được đủ người, cậu sẽ tìm được một số điều không có trong lịch sử. Mà coi chừng nghe xong lại mất ngủ đấy.”
“Derry…”
“Derry sao kia?”
“Derry không bình thường phải không ạ?”
“Bình thường?” Ông hỏi, giọng thều thào rền rĩ. “Thế nào là bình thường? Từ này nghĩa là gì? Những tấm hình đẹp chụp hoàng hôn Kendugskeag, ảnh Kodachrome do ai đó chụp, thông số f-stop thế này thế kia có được xem là ‘bình thường’ không? Nếu có thì Derry bình thường đấy, vì không thiếu gì danh lam thắng cảnh đẹp ở đây. Hay bình thường là hội những bà cô già chưa nếm mùi đàn ông đòi bảo tồn Tòa nhà Chính quyền hoặc đòi đặt kỷ niệm chương ngay trước Standpipe? Nếu thế mà là bình thường, thì Derry bình thường như mặt trời mọc đằng đông. Vì chúng ta có thừa mứa những bà già thích ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng. Hay bình thường là bức tượng Paul Bunyan bằng nhựa xấu xí ngay trước trung tâm thành phố? Ồ, nếu tôi thủ sẵn một xe tải chứa bom napalm với chiếc bật lửa Zippo cũ, tôi sẽ chăm sóc cái thứ chết dịch ấy, tôi đảm bảo với cậu… nhưng nếu nghĩa của chữ bình thường bao gồm cả bức tượng nhựa ấy, thì Derry bình thường lắm. Vấn đề nằm ở chỗ, với cậu, bình thường có nghĩa là gì hả Hanlon? Hả? Hay để tôi hỏi thẳng, bình thường không bao gồm thứ gì?
F-stop là số mà máy ảnh (hoặc ống kính) hiển thị để cho biết kích thước của khẩu độ ống kính.
Paul Bunyan là nhân vật trong văn hóa dân gian của Mỹ và Canada, là một thợ rừng khổng lồ với sức lực siêu phàm, thường có người bạn đồng hành là chú bò màu xanh tên Babe. Nhiều bang ở Mỹ hay dựng tượng của nhân vật này.
Tôi chỉ biết lắc đầu. Một là ông ấy biết, hai là ông ấy không biết. Một là ông ấy kể với tôi, hai là ông ấy không kể.
“Ý cậu là những câu chuyện đáng sợ cậu nghe thấy hoặc đã biết? Khi nào mà chẳng có những câu chuyện đáng sợ như thế? Lịch sử một thị trấn có thể so sánh với một tòa nhà cũ rộng thênh thang đầy phòng lớn, phòng nhỏ, phòng giặt, phòng ủi, phòng áp mái và đủ loại phòng ẩn náu điên rồ… chưa kể thỉnh thoảng lại có một hai lối đi bí mật gì đấy. Nếu khám phá Căn nhà Derry, cậu sẽ thấy đủ điều. Phải. Có thể về sau cậu sẽ hối hận, nhưng rồi cậu sẽ đi tìm chúng, và một khi đã tìm ra thì xem như sự đã rồi, cậu hiểu chứ? Một số phòng bị khóa, nhưng vẫn có chìa… khi nào cũng có chìa.”
Đôi mắt ông lóe lên nhìn tôi, chất chứa sự dạn dày.
“Có thể cậu nghĩ cậu đã thấy phần bí mật kinh hoàng nhất của Derry… nhưng vẫn còn đấy những bí mật đáng sợ hơn. Còn nhiều, còn nhiều lắm.”
“Ông có nghĩ…”
“Tôi nghĩ tôi phải xin kiếu cậu ở đây thôi. Hôm nay họng tôi rát quá. Đến lúc tôi uống thuốc và đi nằm rồi.”
Nói cách khác, đây, tôi đưa cậu con dao, cái nĩa, hỡi bạn hiền; mày mò xem cắt được gì.
Tôi bèn bắt đầu với lịch sử của Fricke và lịch sử của Michaud.
Theo lời Carson, tôi ném chúng vào thùng rác, nhưng vẫn đọc trước. Công nhận là chúng dở y như lời ông nói. Tôi đọc lịch sử của Buddinger, sao lại các chú thích rồi truy tìm các thông tin liên quan. Thế này đầy đủ hơn, nhưng quý bạn biết đấy, chú thích là thứ rõ kỳ khôi – chúng như đường mòn ngoằn ngoèo len lỏi qua vùng quê hoang dại và rối rắm. Chúng rẽ nhánh hết chỗ này đến chỗ khác; nhỡ chẳng may nhầm lối, bạn sẽ nhanh chóng đâm đầu vào ngõ cụt tua tủa bụi gai hoặc đầm lầy. Ngày xưa, một giáo sư chuyên ngành Khoa học thư viện trong lớp tôi từng phát biểu: “Nếu thấy một chú thích, hãy đạp lên đầu nó, kết liễu nó, trước khi nó kịp sinh sôi.”
Mà quả vậy, chúng sinh sôi rất ghê, thỉnh thoảng cái sự sinh sôi ấy là điều tốt, nhưng bản thân tôi thấy đa phần thì không. Những chú thích trong cuốn Lịch sử Derry xưa (Orono: Nhà xuất bản Đại học Maine, 1950) viết theo lối rất khuôn sáo của Buddinger tham khảo nhiều tài liệu đã bị lãng quên và luận văn thạc sĩ đã phủ bụi suốt chiều dài một trăm năm qua trong lĩnh vực lịch sử và văn hóa dân gian, qua các bài báo trên những tạp chí giờ chỉ còn là dĩ vãng cùng hàng đống ngất ngưởng báo cáo cũng như sổ sách về thị trấn.
Cuộc đối thoại của tôi với Sandy Ives còn thú vị hơn. Thảng hoặc, nguồn tư liệu của ông giống với Buddinger, nhưng chỉ trùng như thế chứ không hơn. Ives đã dành phần lớn đời mình ghi chép lại phần lịch sử truyền miệng - hay nói cách khác, những giai thoại dông dài – đúng từng từ từng chữ, hành động mà hẳn Branson Buddinger sẽ chê bai là đường quang không đi mà lại đâm quàng bụi rậm.
Ives viết loạt báo về Derry trong khoảng thời gian từ năm 1963 đến năm 1966. Những bô lão ông từng trò chuyện ngày ấy đều đã qua đời vào thời điểm tôi bắt đầu công cuộc khảo cứu của bản thân, nhưng họ có con, cháu, anh chị em họ. Và tất nhiên, một trong những điều tuyệt vời về thế giới này là: cứ một vị bô lão nhắm mắt xuôi tay thì lại có một vị bô lão mới xuất hiện. Giai thoại trường tồn cùng thời gian, khi nào cũng được kể lại cho đời sau. Tôi đã ngồi trên rất nhiều thềm và hiên sau, uống kha khá trà, bia Black Label, bia nhà làm, nước ngọt, nước vòi, nước suối. Tôi chăm chú lắng nghe, và guồng máy phát băng của tôi cứ thế quay.
Cả Buddinger và Ives đều nhất loạt đồng ý ở một điểm: nhóm người da trắng đầu tiên đến đây khai khẩn có khoảng 300 người. Họ là người Anh, cho thuê tàu thuyền với cái tên chính thức là công ty Derrie. Vùng đất họ được cấp cho chính là Derry ngày nay, phần nhiều ở Newport, thêm vài phần đất nhỏ của những thị trấn bên cạnh. Vào năm 1741, chẳng hiểu sao tất cả mọi người ở thị trấn Derry bỗng biến mất. Tính đến tháng Sáu năm ấy, họ vẫn ở đó – một cộng đồng khoảng 340 nhân mạng - thế mà đến tháng Mười lại chẳng còn một ai. Ngôi làng nhỏ rải rác mấy căn nhà gỗ vắng tanh vắng ngắt. Căn nhà gỗ ở vị trí ngã giao đường Witcham và Jackson ngày nay bị thiêu rụi. Tài liệu lịch sử của Michaud thẳng thừng khẳng định tất cả dân làng bị người Anh điêng giết hại, nhưng không có cơ sở nào – trừ căn nhà bị thiêu rụi. Thà bảo rằng bếp lò nóng quá nên cả căn nhà nhuốm lửa nghe còn có lý hơn.
Thảm sát do dân da đỏ? Khó lắm. Bởi chẳng thấy xương hay xác gì. Lụt lội ư? Năm đó thì không. Dịch bệnh? Các thị trấn xung quanh không có thông tin nào như thế.
Chỉ đơn giản là họ bốc hơi. Tất cả bọn họ, toàn bộ 340 người biến mất không để lại tăm tích gì.
Trong tầm kiến thức của tôi, trường hợp duy nhất tương quan từ ngày xửa ngày xưa là vụ biến mất của những người khai hoang trên đảo Roanoke, Virginia. Mọi học sinh trên đất nước này đều biết đến sự kiện đó, nhưng liệu có ai biết về vụ biến mất ở Derry? Rõ ràng là ngay đến những cư dân nơi đây còn ù ù cạc cạc. Tôi từng hỏi vài học sinh trung học đang theo học khóa học bắt buộc về lịch sử Maine mà cô cậu còn chẳng biết tí gì. Tôi bèn xem thử sách giáo khoa Maine xưa và nay . Có hơn bốn mươi mục viết về Derry, hầu hết tập trung vào những năm thịnh vượng của ngành lâm nghiệp. Không một lời nào viết về sự kiện nhóm khai hoang đầu tiên biến mất… nhưng cái sự, biết gọi là gì nhỉ, sự âm thầm này lại rất đúng điệu.
Có một tấm màn im lặng bọc quanh những gì đã xảy ra nơi đây… nói vậy nhưng người ta vẫn bàn ra tán vào. Tôi đoán chẳng có gì có thể ngăn cản con người rì rầm với nhau. Nhưng muốn nghe thì phải lắng tai kỹ, mà kỹ năng này rất hiếm. Tôi tự thấy bản thân mình đã phát triển được nó trong suốt bốn năm qua. Nếu chưa thì có lẽ tôi không có tài làm công việc này, vì tôi đã kinh qua đủ rèn luyện. Một cụ già từng kể với tôi rằng vợ ông ấy nghe thấy có tiếng bắt chuyện vẳng lên từ lỗ thoát nước ở bồn rửa bát trong ba tuần trước khi con gái họ chết – chuyện xảy ra vào đầu đông năm 1957-58. Cô bé này là một trong những nạn nhân đầu tiên của chuỗi án mạng bắt đầu từ George Denbrough, kéo dài đến tận mùa hè năm sau.
“Rất nhiều giọng nói, tất cả nhao lên huyên thuyên,” ông kể. Ông lão sở hữu trạm xăng Gulf trên đường Kansas, thỉnh thoảng có xe ghé vào, ông lại chậm chạp, cà nhắc bước ra đổ xăng, kiểm tra dầu nhớt, lau kính chắn gió. “Bà nhà tôi bảo có một lần bà ấy đáp lại, dù bà ấy sợ chết khiếp. Bà ấy nghiêng người và cúi mình xuống bồn. ‘Các người là ai?’ Bà ấy nói to. ‘Tên các người là gì?’ Bà nhà tôi bảo tất cả những giọng nói ấy đáp lại - gầm gừ, lải nhải, rống rít, hú hét, cười cợt, đủ kiểu. Bà ấy tả chúng trả lời bà như kẻ bị quỷ ám nói với Chúa: 'Bọn ta là Ác thần'. Suốt hai năm, bà nhà tôi không dám bén mảng tới bồn rửa ấy. Thế là suốt hai năm, tôi quần quật đầu tắt mặt tối ở đây suốt mười hai tiếng, rồi về đến nhà lại phải bục mặt rửa chén bát.”
Trong bản gốc, câu nói đầy đủ là “Our name is legion”. Legion là một binh đoàn quỷ, xuất phát từ câu chuyện trong Tân Ước về việc Chúa Giê-su thực hiện lễ trừ ma quỷ.
Ông nhấm nháp lon Pepsi mua từ chiếc máy bán tự động bên ngoài cửa văn phòng, cụ ông chừng bảy mươi hai hoặc bảy mươi ba tuổi, dáng vẻ mệt nhoài do lao động, nếp nhăn chi chít, thiếu điều chảy thành dòng ở khóe mắt và miệng.
“Chắc giờ cậu nghĩ đầu óc tôi bị chập mạch rồi chứ gì,” ông nói, “nhưng để tôi nói cậu nghe thêm điều này, nếu cậu tắt cái máy ro ro đó đi.”
Tôi tắt máy ghi âm, và mỉm cười với ông. “Nếu xem xét một số điều cháu được nghe suốt mấy năm qua, có lẽ phải đi bảy bảy bốn chín quãng đường mới thuyết phục được cháu rằng ông bị chập mạch,” tôi nói.
Ông mỉm cười đáp lại, nhưng nụ cười không chút hài hước. “Đêm đó, tôi đang rửa chén bát như thường lệ - chuyện xảy ra vào mùa thu năm 58, sau khi mọi thứ đã ổn định trở lại. Bà nhà tôi nằm ngủ trên lầu. Betty là đứa bé duy nhất mà Chúa ban tặng cho chúng tôi, và sau khi con bé bị giết hại, bà nhà tôi ngủ rất nhiều. Chuyện là tôi đã nhấc nắp bồn rửa, thế là nước bắt đầu xả xuống lỗ thoát. Cậu biết âm thanh nước xà phòng phát ra khi chảy xuống lỗ chứ? Nó giống như tiếng hút vậy. Nước chảy phát ra âm thanh sùng sục, nhưng tôi không để ý gì nhiều, định bụng ra lán bổ củi, và ngay khi tiếng động ấy phai dần, tôi nghe thấy tiếng con gái tôi phát ra dưới đó. Tôi nghe thấy giọng Betty dưới ống thoát nước chết tiệt ấy. Con bé đang cười. Nó ở đâu đó dưới màn đêm kia, rú lên cười. Nhưng nếu nghe kỹ thì lại giống như nó đang hét. Hoặc cả hai. Nó vừa hét vừa cười dưới ống cống. Đó là lần duy nhất tôi nghe thấy âm thanh như vậy. Có khi là do tôi tưởng tượng. Nhưng tôi lại không cho là thế.”
Ông nhìn tôi, và tôi cũng đưa mắt nhìn ông. Ánh sáng lọt qua khung cửa kính bẩn thỉu, đáp lên mặt ông, khiến ông trông như Methuselah. Tôi vẫn nhớ, phút giây ấy, tôi lạnh cả người; lạnh buốt đến tận xương tủy.
“Cậu nghĩ tôi bịa chuyện à?” Ông cụ hỏi tôi, ông cụ mới chỉ tầm bốn mươi lăm tuổi vào năm 1957, ông cụ được Chúa ban cho một mụn con gái, Betty Ripsom. Betty được phát hiện trên đường Jackson Phía Ngoài ngay sau Giáng sinh năm ấy, chết cóng, xác bị xé toạc.
“Không” tôi đáp. “Cháu không nghĩ ông bịa chuyện, thưa ông Ripsom.”
“Tôi biết cậu nói thật,” ông nói đầy bất ngờ. “Tôi có thể thấy điều đó trên khuôn mặt cậu.”
Tôi đoán ông còn tính kể thêm cho tôi nghe, tiếc là lúc ấy, chuông phía sau chúng tôi đánh lên chói tai khi một chiếc xe chạy ngang ống cao su trên mặt đường đá dăm và dừng lại ngay cây bơm xăng. Khi chuông reo, cả hai chúng tôi đều nhảy dựng, riêng tôi còn khẽ ré lên. Ripsom đứng dậy, cà nhắc bước ra chỗ chiếc xe, chùi tay vào núi giẻ. Khi quay trở lại, ông nhìn tôi như thể tôi là kẻ lạ chướng mắt vừa mới lang thang bước vào. Tôi đành nói lời tạ từ rồi rời đi.
Buddinger và Ives còn đồng ý với nhau ở chỗ: mọi sự ở Derry có gì đó không bình thường, hay nói đúng hơn, chúng chưa bao giờ bình thường.
Tôi gặp Albert Carson lần cuối chừng một tháng trước khi ông về với tiên tổ. Họng ông đã trở nặng; cố lắm nhưng ông cũng chỉ thều thào. “Cậu vẫn tính chuyện viết về lịch sử Derry à, Hanlon?”
“Cháu vẫn đang cân nhắc ý tưởng ấy,” tôi đáp, dù tất nhiên tôi chưa bao giờ dự tính sẽ viết về lịch sử vùng đất này – không hẳn thế – và tôi nghĩ ông thừa biết.
“Cậu sẽ tốn đến hai mươi năm,” ông thì thầm, “mà cũng chẳng có ai thèm đọc đâu. Chẳng ai buồn đọc cả. Bỏ qua đi, Hanlon.”
Thoáng ngưng lại, đoạn ông nói thêm: “Cậu biết không, Buddinger tự sát đấy.”
Tất nhiên tôi biết điều đó – nhưng chỉ vì người ta khi nào cũng bàn tán, còn tôi thì luyện được khả năng lắng nghe. Bài báo trên tờ News nói ông ấy bị ngã do tai nạn, mà đúng là Branson Buddinger bị ngã. Nhưng tờ News lại bỏ qua chi tiết ông ấy ngã từ ghế đẩu trong tủ quần áo của mình với thòng lọng quấn quanh cổ.
“Cậu biết chuyện chu kỳ không?”
Tôi nhìn ông, giật mình.
“Ồ, phải,” Carson lầm bầm. “Tôi biết. Cứ mỗi hai mươi sáu hoặc hai mươi bảy năm. Buddinger cũng biết. Nhiều ông già bà lão cũng biết, chỉ là họ chẳng bao giờ đả động đến điều này, ngay cả khi cậu chuốc họ say mèm. Bỏ qua đi, Hanlon.”
Ông cụ vươn bàn tay của mình tới trước như chân chim, đoạn nắm lấy cổ tay tôi, và tôi có thể cảm nhận được căn bệnh ung thư quái ác đang vần vũ quần thảo trong người ông, gặm nhấm tất cả những gì còn sót lại còn gặm nhấm được – mà lúc ấy chắc cũng không còn bao nhiêu, tủ chạn của Albert Carson gần như đã trống trơn.
“Michael, cậu không muốn dính líu vào đâu. Có những thứ ở Derry biết chỉ tổ thiệt thân. Bỏ qua đi. Bỏ qua đi .”
“Cháu không làm được.”
“Vậy hãy coi chừng,” ông nói. Bỗng dưng đôi mắt mở to đầy sợ hãi của một đứa trẻ lại xuất hiện trên khuôn mặt cằn cỗi của cụ ông gần đất xa trời ấy. “Hãy coi chừng.”
Derry.
Quê tôi. Thị trấn đặt theo một tỉnh cùng tên ở Ireland.
Derry.
Tôi chôn rau cắt rốn nơi đây, ở Bệnh viện Derry Home; theo học trường Tiểu học Derry; học lên cấp hai ở trường Trung học cơ sở Đường số 9; cấp ba ở trường Trung học phổ thông Derry. Tôi học Đại học Maine –“không phải ở Derry, nhưng cũng ngay dưới phố”, như các cụ già hay bảo – và rồi tôi lại về đây. Về Thư viện công cộng Derry. Tôi là anh chàng trấn nhỏ, sống cuộc đời ở trấn nhỏ, một trong những người chẳng ai nhớ mặt đặt tên.
Nhưng.
Nhưng:
Vào năm 1851, một nhóm thợ rừng phát hiện thi thể của nhóm thợ rừng trước đó lập trại trú đông ở thượng nguồn sông Kenduskeag - ngay rìa nơi bọn trẻ bây giờ vẫn gọi là Vùng Đất Cằn. Tổng cộng có chín người, xác ai nấy đều bị băm vằm. Đầu lìa khỏi cổ… chưa kể tay… chân… và dương vật của một người còn bị đóng đinh lên bức tường căn chòi gỗ.
Nhưng:
Năm 1851, John Markson đã đầu độc toàn bộ gia đình mình rồi ngồi giữa vòng tròn xác chết mà hắn tự xếp, nuốt nguyên cây nấm độc “Bạch Dạ”. Hẳn hắn ta đã phải chịu đau đớn đến cùng cực trước khi chết. Viên cảnh sát thị trấn phát hiện anh ta đã viết trong báo cáo của mình rằng lúc đầu anh ta còn tưởng xác chết đang nhe nhởn cười; cụ thể anh ta viết “nụ cười trắng nhởn của Markson”. Nụ cười trắng nhởn trong khi miệng đầy thứ nấm chết người; Markson vẫn tiếp tục ăn nấm dù những cơn chuột rút và có cơ đau thấu trời hẳn đang quần thảo cơ thể hắn.
Nhưng:
Vào Chủ nhật Lễ Phục sinh năm 1906, chủ của xưởng đúc Kitchener, nằm đúng chỗ Trung tâm thương mại Derry hiện đang tọa lạc, tổ chức cuộc săn trứng Phục sinh cho “tất cả những đứa trẻ ngoan Derry”. Cuộc săn được tổ chức trong nhà xưởng rộng thênh thang. Tất cả những khu vực nguy hiểm đều được đóng lại, nhân viên tình nguyện dành thời gian canh gác để đảm bảo không có cô cậu nhóc hiếu động nào bày trò chui qua dải phân cách đi thám hiểm. Năm trăm quả trứng Phục sinh bằng sô-cô-la bọc trong giấy bóng sặc sỡ được giấu rải rác khắp xưởng. Đám trẻ vừa chạy vừa cười đùa, ồn ào, ầm ĩ trong xưởng đúc tĩnh lặng vào ngày Chủ nhật, náo nức tìm trứng dưới những chiếc xe tải khổng lồ, bên trong ngăn kéo của đốc công, xếp ngay rãnh bánh răng khổng lồ hoen gỉ, bên trong khuôn trên tầng ba (trong những tấm hình cũ, những cái khuôn này trông như khuôn bánh của một nhà bếp khổng lồ). Nhà Kitchener đã có truyền thống ba đời dõi theo cuộc nổi loạn vui tươi ấy và trao giải khi cuộc đi săn kết thúc, tức vào 4 giờ chiều, dù bọn trẻ có tìm thấy hết trứng không. Chuyến đi săn năm đó dừng sớm bốn mươi lăm phút, vào lúc 3 giờ 15 phút. Đó là lúc xưởng đúc nổ tung. Xác chết của 72 người được kéo ra từ đống đổ nát trước khi mặt trời xuống núi. Con số thương vong cuối cùng là 102. Trong số này có 88 trẻ em. Vào thứ Tư tuần tiếp theo, trong khi thành phố vẫn lặng thinh, chưa hết choáng váng trước bị kịch trên, một phụ nữ phát hiện đầu của cậu bé Robert Hay chín tuổi mắc trên cành táo sau nhà cô này. Có sô-cô-la dính trên răng Dohay và máu trên tóc cậu bé. Cậu là nạn nhân cuối cùng được tìm thấy. Tám đứa trẻ và một người lớn vẫn mất dạng. Đó là bi kịch khủng khiếp nhất trong lịch sử Derry, tệ hơn cả vụ cháy ở Điểm Đen vào năm 1930, và không ai tìm được nguyên căn. Cả bốn lò nung của xưởng đúc đều bị đóng cửa. Không chỉ xếp xó; mà là đóng hẳn.
Nhưng:
Tỷ lệ án mạng ở Derry cao gấp sáu lần tỷ lệ án mạng ở bất cứ thị trấn nào với quy mô tương tự tại New England. Thấy kết luận mình đưa ra về vấn đề này quá khó tin, tôi bèn dẫn số liệu cho một cậu học sinh cấp ba rành máy tính, hễ rảnh là lại ngồi lì trước chiếc máy tính Commodore trong thư viện. Cậu tính toán thêm vài bước – đúng là tuổi trẻ tài cao – bằng cách thêm chục thành phố nhỏ để có “tập hợp số liệu” như cách cậu gọi và trình bày với tôi một biểu đồ cột tạo trên máy tính, trong đó cột Derry cao chót vót như cây nêu. “Người dân nơi này hẳn nóng tính lạ thường, chú Hanlon ạ,” cậu chỉ nhận xét như thế. Tôi không nói gì. Nếu nói, hẳn tôi sẽ bảo cậu rằng thứ gì đó ở Derry nóng tính lạ thường.
Tại Derry, trẻ em mất tích không rõ nguyên nhân và không thấy tăm hơi rơi vào chừng 40 đến 60 em một năm. Phần lớn là trẻ vị thành niên. Người ta cho rằng chúng bỏ nhà ra đi. Tôi cho rằng chỉ một vài em trong số đó là vậy.
Và trong những năm mà Albert Carson gọi là khoảng thời gian của chu kỳ, tỷ lệ mất tích tăng cao chóng mặt. Ví dụ như năm 1930 – năm Điểm Đen bị cháy - có hơn 170 trẻ em mất tích ở Derry - và quý bạn nên nhớ đây chỉ là con số mất tích được báo với cảnh sát và được lưu trữ lại. Cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên, cảnh sát trưởng hiện tại nói khi tôi cho ông ấy xem số liệu. Cả nước đang trải qua Đại khủng hoảng. Chắc đám trẻ chán ngán canh khoai tây hoặc ở nhà chẳng mót được gì ăn nên lén lên tàu hỏa, đi tìm chỗ khác sáng sủa hơn.
Năm 1958, 127 trẻ em, tuổi từ 3 đến 19, đã được báo cáo mất tích Derry. Năm 1958 có Đại khủng hoảng à? Tôi hỏi Cảnh sát trưởng Rademacher. Không, ông ấy đáp. Nhưng người ta đi rày đây mai đó, Hanlon ạ. Nhất là con trẻ, chúng có chịu ngồi yên bao giờ. Lời qua tiếng lại với bố mẹ vì hẹn hò về muộn và đùng một phát, chúng dứt áo ra đi.
Tôi cho Cảnh sát trưởng Rademacher xem tấm hình chụp cậu bé Chad Lowe xuất hiện trên tờ Derry News vào tháng Tư năm 1958. Ông nghĩ đứa bé này bỏ nhà ra đi sau khi cãi nhau với bố mẹ vì hẹn hò về muộn sao, thưa Cảnh sát trưởng Rademacher? Thằng bé mới ba tuổi rưỡi khi nó biến mất.
Chăm chăm nhìn tôi với ánh mắt chua chát, Rademacher đuổi khéo nói rằng nói chuyện với tôi rất vui, nhưng nếu không có chuyện gì khác thì thôi, ông ấy đương bận rộn. Vậy là tôi ra về.
Bị ma ám, ám ảnh, ám.
Thường có ma quỷ, âm hồn đến viếng thăm, như ống nước bên dưới bồn rửa; xuất hiện và tái diễn thường xuyên, đều đặn hai mươi lăm, hai mươi sáu hoặc hai mươi bảy năm một lần; nơi cho thú ăn, như trong trường hợp của George Denbrough, Adrian Mellon, Betty Ripsom, con gái nhà Albrecht, con trai nhà Johnson.
Nơi cho thú ăn. Phải, đó là chi tiết ám ảnh tôi nhất.
Nếu có điều gì xảy ra – bất cứ điều gì – tôi sẽ gọi điện thoại cho họ. Tôi phải làm thế. Tôi vẫn có những phỏng đoán của riêng mình, những cơn trằn trọc, những ký ức - những ký ức quỷ tha ma bắt. Ồ, và còn một thứ nữa - chẳng phải tôi còn cuốn sổ này đấy sao? Tôi rền rĩ với bức tường. Và tôi ngồi đây, tay run lẩy bẩy, đến độ chữ tôi như gà bới, tôi ngồi đây, trong thư viện vắng tanh vắng ngắt sau giờ đóng cửa, lắng nghe những âm thanh vi tế trong những ngăn kệ tối tăm, theo dõi những cái bóng phản chiếu dưới ngọn đèn vàng mờ mịt để đảm bảo chúng không chuyển động… không suy suyển.
Tôi ngồi đây, cạnh chiếc điện thoại.
Tôi đặt một tay lên điện thoại… trượt xuống… chạm vào lỗ quay số giúp tôi liên lạc với tất cả bọn họ, những người bạn cũ của tôi.
Chúng tôi đã dấn thân cùng nhau.
Chúng tôi đã bước vào màn đêm cùng nhau.
Liệu chúng tôi có thể bước ra khỏi đêm đen nếu chúng tôi bước vào lần nữa?
Tôi đồ là khó.
Cầu xin Chúa, đừng bắt con gọi họ.
Cầu xin Chúa.