← Quay lại trang sách

Chương 3 SÁU CUỘC GỌI (1985)
1
STANLEY URIS ĐI TẮM

Về sau, Patricia Uris nói với mẹ rằng lý ra cô phải để ý đến dấu hiệu bất thường ngay từ đầu. Cô nói đáng lẽ cô phải biết điều đó vì Stanley không bao giờ đi tắm vào chập tối. Anh tắm vào mỗi buổi sáng sớm và thỉnh thoảng ngâm mình khá muộn (một tay cầm tạp chí, tay kia cầm lon bia lạnh), nhưng đi tắm lúc 7 giờ tối không phải thói quen của anh.

Chưa kể còn chuyện mấy cuốn sách. Bình thường, đáng lẽ anh sẽ rất vui mừng, song chẳng hiểu vì lý do kỳ quặc gì, chúng lại khiến anh buồn lòng và u uất. Chừng ba tháng trước cái đêm oan nghiệt ấy, Stanley đã phát hiện một người bạn thuở ấu thơ của anh sau này hành nghề viết lách – không phải báo chí mà là viết tiểu thuyết. Cái tên đề trên các tác phẩm là William Denbrough, nhưng thỉnh thoảng Stanley lại gọi người này là Bill Cà Lăm. Chồng cô đọc gần hết các đầu sách của tác giả này; và thật ra anh cũng đang đọc nốt cuốn cuối cùng vào cái đêm trong bồn tắm – đêm 28 tháng 5 năm 1985. Vì tò mò, Patty cũng chọn đại một cuốn để đọc thử. Song sau ba chương, cô từ bỏ việc đọc tiếp.

Hồi sau, cô kể với mẹ mình rằng chúng không phải những cuốn tiểu thuyết bình thường mà là tiểu thuyết kinh dị. Cô chỉ nói đơn giản như vậy, tựa hồ cô đang mô tả một cuốn sách khiêu dâm. Patty là một phụ nữ nhẹ nhàng và tốt bụng song vụng ăn nói – cô muốn kể với mẹ rằng cuốn sách đó khiến cô kinh sợ và bụng dạ khó chịu đến mức nào, nhưng bất lực. “Nó đầy quái vật,” cô tả. “Cả đống quái vật săn đuổi trẻ con. Nội dung có cảnh giết chóc và… con không biết nữa… những cảm xúc rất tồi tệ và đau đớn. Nhìn chung là thế.” Thật ra, cô còn thấy nó kinh khủng chẳng kém gì sách khiêu dâm; hai từ “khiêu dâm” nghe thật lạ lẫm, phần vì cả đời mình cô chưa bao giờ thốt ra từ này, dù cô hiểu rõ ý nghĩa của nó. “Nhưng Stan như tìm được bạn cũ sau nhiều năm xa cách… Anh ấy còn đề cập đến việc viết thư cho người này, nhưng con biết anh ấy chỉ nói thế thôi… Con biết anh ấy cảm thấy rất thật kinh khủng khi đọc những câu chuyện ấy, và… và…”

Và rồi Patty Uris òa lên nức nở.

Đêm ấy, chừng sáu tháng nữa là tròn hai mươi tám năm kể từ cái ngày năm 1957 khi cậu bé George Denbrough đối mặt với Gã hề Pennywise, Stanley và Patty ngồi trong phòng nghỉ của căn nhà nằm ở ngoại ô Atlanta. Ti vi đang mở. Patty ngồi trên chiếc sô pha ngay trước màn hình, tay thì đan móc, mắt thì hướng về chương trình truyền hình ưa thích mang tên Gia Đình Feud . Cô ái mộ Richard Dawson và thấy dây đồng hồ quả quýt anh này hay mang quyến rũ khủng khiếp, dù có cạy răng cũng đừng hòng khiến cô thú nhận điều này. Cô thích chương trình vì lúc nào cô cũng đoán ra câu trả lời được ưa chuộng nhất (thật ra không có câu trả lời đúng trong Gia Đình Feud ; chỉ có câu trả lời được ưa chuộng nhất). Cô từng hỏi Stan tại sao những câu hỏi cô thấy dễ như trở bàn tay mà mấy gia đình tham gia chương trình lại vò đầu bứt tai đến thế. “Có lẽ khi đứng dưới ánh đèn sân khấu thì khó khăn hơn,” Stanley đáp, và cô cảm thấy mặt anh sa sầm lại. “Mọi thứ khó hơn rất nhiều khi thực sự lâm trận. Đến lúc đó, ai chẳng ngợp. Vào trận mới gian nan em ạ.”

Nghe có vẻ đúng phết , cô thầm nhủ. Thỉnh thoảng, Stanley có những góc nhìn rất sâu sắc về bản chất con người. Cô còn thấy góc nhìn ấy tinh tế hơn hẳn người bạn cũ William Denbrough của chồng mình, kẻ làm giàu bằng cách viết cả đống sách kinh dị nhằm khơi gợi bản chất thiên về phần con chứ chẳng phải phần người.

Nhưng tính ra thì vợ chồng nhà Uris cũng có thua kém ai đâu! Vùng ngoại ô họ sống là một nơi tuyệt vời, căn nhà họ mua với giá 87.000 đô-la vào năm 1979 hiện giờ dư sức bán với giá 165.000 đô-la - nói vậy không có nghĩa là cô muốn bán, cô chỉ nắm thông tin như vậy thôi. Nhiều lần, khi lái chiếc Volvo từ trung tâm thương mại Fox Run về nhà (Stanley lái Mercedes – cô suốt ngày trêu anh bằng cách gọi chiếc xe là Sedanley), cô trông thấy căn nhà của mình lấp ló đầy nhã nhặn phía sau bờ giậu thủy tùng thấp và tự nhủ trong lòng: Ai sống ở đó thế nhỉ? Sao, là tôi đấy! Là phu nhân của quý ông Stanley Uris đấy! Thật ra, suy nghĩ này không chỉ khiến cô sung sướng, mà đan xen bên trong là niềm kiêu ngạo mãnh liệt đến độ lắm lúc cô thấy dợm trong người. Chuyện là thế này, ngày xửa ngày xưa, có một cô thiếu nữ mười tám tuổi cô đơn tên là Patricia Blum. Vào hôm tổ chức tiệc khiêu vũ, bạn bè không cho cô tham dự tăng hai ở câu lạc bộ sang trọng mạn trên thị trấn vùng ngoại ô Glointon, New York. Lý do mọi người tẩy chay cô là vì họ của cô vần với từ plum, quả mận. Vâng, cô của năm 1967 là thế, một quả mận Do Thái gầy trơ xương, và tất nhiên hành vi phân biệt đối xử ấy là vi phạm luật pháp, nhưng bây giờ cô không phải chịu cảnh như thế nữa. Song một phần trong cô vẫn day dứt khôn nguôi về chuyện xưa. Một phần trong cô mãi đau đáu nhớ đến cảnh cô cùng Michael Rosenblatt đi bộ về phía chiếc xe ô tô của bố anh với tiếng sỏi lạo xạo dưới đôi cao gót cô mang và đôi giày tây anh mướn. Michael đã mượn chiếc xe đó và dành nguyên buổi chiều kỳ công ngồi đánh bóng. Một phần trong cô sẽ mãi nhớ cảnh sánh bước cùng Michael trong bộ đồ dự tiệc màu trắng anh đi thuê – cô vẫn nhớ nó lấp lánh ánh lên trong đêm xuân tơ năm ấy! Cô khoác trên mình chiếc váy dài màu xanh nhạt mà mẹ nói rằng cô trông như một nàng tiên cá, và ý tưởng một nàng tiên cá Do Thái nghe buồn cười đấy chứ. Hai người bọn họ ngẩng cao đầu bước đi và cô nhất quyết không rơi lệ – lúc ấy thì không - nhưng tận trong thâm tâm, cô biết họ không bước về , không, thật ra chẳng phải thế; điều họ đang làm là thối lui, thối lui , vì nó rõ là vần với thúi hôi . Cả đời họ chưa bao giờ cảm thấy mình là dân Do Thái đến vậy, họ thấy mình như kẻ cầm đồ, kẻ đánh xe bò, cảm thấy mình nhớp nhúa, với cái mũi dài ngoằng, làn da như chết trôi; thấy mình như đám Do Thái đáng tởm mọi rợ; muốn nổi điên lên nhưng lại chẳng tức giận được; cơn giận chỉ đến sau đó, khi sự đã rồi. Phút giây ấy, cảm xúc duy nhất trong lòng cô là nhục nhã, là đau đớn cùng cực. Và rồi có kẻ phá lên cười nhạo báng. Tiếng cười khanh khách, chói tai tựa hồ tiếng dương cầm lướt vội, ngồi trong xe, cô mới dám òa lên khóc, thế đấy, nàng tiên cá Do Thái với cái tên vần với quả mận giàn giụa nước mắt. Mike Rosenblatt vụng về đặt tay lên gáy an ủi cô, nhưng cô xoay người quay đi, cảm thấy bẽ bàng, nhơ nhuốc, cảm thấy thật Do Thái.

Căn nhà lọt thỏm duyên dáng phía sau bờ giậu thủy tùng khiến cô nguôi ngoai… nhưng chỉ phần nào. Sự tổn thương, nỗi tủi hổ vẫn còn đó, và giờ đây, dù cô đã tìm được chỗ đứng cho mình nơi khu phố yên tĩnh, hào hoa phong nhã này, cảnh tượng cô bước về chiếc xe với tiếng sỏi lạo xạo dưới chân vẫn giày xé tâm can cô đến vô ngần. Ngay cả việc là thành viên của câu lạc bộ sang trọng này, nơi vị quản lý luôn kính cẩn nghiêng mình chào vợ chồng họ “Kính chào quý ông quý bà Uris”, cũng chẳng khiến cô nguôi ngoai. Trên đường về nhà, yên vị trong chiếc xe Volvo 1984, hướng mắt nhìn về căn nhà nhã nhặn giữa bãi cỏ xanh rờn mênh mông, nhiều lúc, à mà không, rất nhiều lúc, cô lại nghĩ về tiếng cười khanh khách chói tai ấy. Và cô thầm trù ẻo con ả đã ré lên cười khi đó giờ đang sống trong căn nhà tập thể xập xệ, cưới một gã không phải dân Do Thái vũ phu, rằng con ả ấy có thai ba lần và sẩy cả ba, rằng chồng ả ta lang chạ với đám mèo mả gà đồng bệnh tật đầy mình, rằng ả bị trẹo đĩa khớp, bàn chân bẹt, bị u nang trên cái lưỡi khanh khách đầy nhơ bẩn ấy.

Cô hay giày vò bản thân vì những suy nghĩ này, những suy nghĩ ác nghiệt và tự hứa với lòng mình sẽ thay đổi – rằng cô sẽ thôi uống những ly cocktail chua chát đầy nghiệt ngã, cay đắng. Cô giữ tâm hồn mình không vọng động được vài tháng. Khi đó, cô tự nhủ: Mình đã vượt qua những sự kiện ấy rồi. Mình không còn là con bé mười tám tuổi năm ấy nữa. Mình là một phụ nữ ba mươi sáu tuổi, cô gái lắng nghe tiếng sỏi lạo xạo bất tận trên đường lái xe, cô gái xoay người né khỏi tay Mike Rosenblatt lúc anh cố gắng an ủi vì đó là tay của người Do Thái, cô gái ấy đã cách mình nửa cuộc đời. Nàng tiên cá ngu xuẩn bé nhỏ năm nào giờ đây đã chết. Giờ mình có thể quên cô gái ấy đi và sống đúng với bản thân. Được rồi. Tốt lắm. Tuyệt vời. Nhưng rồi tình cờ cô đi đâu đó – ở siêu thị chẳng hạn và bất chợt nghe thấy tiếng cười khanh khách ở lối đi bên cạnh, lưng cô lại gai lên, ngực cô cứng nhói, tay cô siết chặt thanh nắm ngang của xe đựng hàng hoặc chỉ nắm rịt vào nhau, và suy nghĩ lại nảy lên trong cô: Có kẻ nào đó vừa gièm pha rằng mình là dân Do Thái, rằng mình chỉ là một ả Do Thái mũi to đáng ghét, rằng Stanley cũng chỉ là một thằng Do Thái mũi to đáng ghét, hắn ta là kế toán do dân Do Thái giỏi số mà, chúng ta phải cho đám đấu tham gia vào câu lạc bộ là vì năm 1981, cái lão bác sĩ phụ khoa Do Thái mũi to kia thắng kiện, nhưng mà nhé, chúng ta cứ cười nhạo chúng đi, cười cho đã, cho hả hê, cho sặc sụa vào. Hoặc bỗng dưng, văng vẳng trong tai cô là tiếng sỏi lạo xạo và suy nghĩ Nàng tiên cá! Mỹ nhân ngư! lại khởi lên trong lòng.

Patricia đang nhắc tới bác sĩ Mel Mermelstein. Ông là một người Do Thái gốc Hungary và là người duy nhất sống sót trong gia đình sau cuộc thảm sát tại trại tập trung Auschwitz. Năm 1981, ông đã thắng kiện ở tòa án Mỹ, chứng minh được người Do Thái đã bị sát hại bằng khí ga ở Auschwitz.

Để rồi bao cay đắng, tủi nhục lại ùa về như cơn đau nửa đầu, và cô thấy tuyệt vọng, không chỉ cho bản thân mà cho cả nhân loại. Người sói. Cuốn sách của Denbrough – cuốn mà cô đọc được dăm ba chương rồi bỏ xuống - viết về Người sói. Người sói, khốn kiếp. Gã đàn ông ấy thì biết cái quái gì về Người sói chứ?

Tuy nhiên, phần lớn thời gian, tâm trạng cô tươi tỉnh hơn – cô thấy mình hơn thế. Cô yêu chồng, yêu tổ ấm và cũng biết cách yêu cuộc đời và yêu bản thân. Mọi thứ êm đẹp mà. Ngày xưa mọi sự làm gì được như thế, tất nhiên – thậm chí có bao giờ “được” chưa nhỉ? Khi cô chấp nhận nhẫn đính hôn của Stanley, bố mẹ cô vừa giận vừa khó chịu. Cô gặp anh ở bữa tiệc của câu lạc bộ thời đại học. Là một sinh viên được nhận học bổng của Đại học Bang New York, anh qua trường cô dự tiệc. Một người bạn chung giới thiệu họ với nhau, và đến hết buổi tối, cô đồ rằng mình đã yêu anh. Đến dịp nghỉ giữa kỳ thì cô chắc chắn về việc đó. Khi nàng xuân gõ cửa, Stanley trao cho cô một chiếc nhẫn kim cương nhỏ với bông hoa cúc xuyên ngang, cô gật đầu.

Cuối cùng, dù không bằng lòng, bố mẹ cô đành ưng thuận. Họ không thể làm gì khác, dù rồi đây, Stanley Uris sẽ dấn thân vào thị trường lao động đầy rẫy các kế toán viên trẻ tuổi – và khi bước vào khu rừng rậm đó, anh không có tài chính gia đình để chống lưng, đã vậy lại còn phải tính đường chăm lo cô con gái rượu của họ. Nhưng Patty lúc này đã hăm hai tuổi, cô đã là một phụ nữ, và chẳng mấy chốc, cô cũng sẽ tốt nghiệp với tấm bằng cử nhân.

“Tôi sẽ phải chu cấp cho thằng bốn mắt chết băm chết bằm đó cả đời mất.” Một đêm nọ, Patty nghe thấy bố mình nói như vậy. Bố mẹ cô ra ngoài ăn tối, và bố cô hơi quá chén.

“Suỵt, con bé nghe thấy bây giờ,” Ruth Blum nói với chồng.

Đêm đó, Patty nằm thao thức đến hơn nửa đêm, mắt cô khô khốc, hết nóng lại lạnh, căm hận bố mẹ mình. Suốt hai năm sau, cô chật vật lột bỏ cảm giác ghét cay ghét đắng ấy, trong cô đã có quá nhiều căm hận rồi. Thỉnh thoảng, khi nhìn vào gương, cô bắt gặp hậu quả mà nỗi niềm ấy để lại, chưa gì gương mặt cô đã xuất hiện những nếp nhăn rất mạnh mà cảm xúc ấy vẽ lên. Cô đã thắng trận chiến đó với sự giúp đỡ của Stanley.

Bố mẹ anh cũng lo lắng cho cuộc hôn nhân của con trai mình. Tất nhiên, họ không nghĩ cái số Stanley cả đời sẽ chịu cảnh đói rách cơ hàn, nhưng họ nghĩ “hai đứa trẻ có phần vội vã”. Nói người chẳng nghĩ đến thân, Donald Uris và Andrea Bertoly cũng kết hôn từ thuở đôi mươi nhưng hình như họ quên mất điều đó thì phải.

Stanley là người duy nhất tin vào bản thân, hữu chí về tương lai, chẳng hề lung lạc trước những thác ghềnh mà bố mẹ họ thấy đang trải ra trước mặt “hai đứa trẻ”. Và rốt cuộc, sự tự tin của anh đã được chứng thực chứ không phải trở thành nỗi lo của bố mẹ. Tháng Bảy năm 1972, khi tấm bằng còn chưa kịp ráo mực, Patty kiếm được một công việc dạy tốc ký và tiếng Anh thương mại ở Traynor, một thị trấn nhỏ cách Atlanta hơn sáu mươi cây số về phía nam. Khi nghĩ lại quá trình mình có được công việc này, lúc nào cô cũng thấy đôi chút – chậc, kỳ lạ. Cô soạn một danh sách chừng bốn mươi công việc khả dĩ từ các quảng cáo trên tạp chí giáo viên, sau đó viết bốn mươi lá thư trong vòng năm đêm – tám bức mỗi đêm - yêu cầu có thêm thông tin về công việc và đơn ứng tuyển. Cô nhận được hai mươi hai phản hồi cho hay vị trí đã có người đảm nhiệm. Một số quảng cáo khác, sau khi đọc bản mô tả chi tiết kỹ năng cần có, cô nhận thấy mình không đủ tầm; ứng tuyển chỉ tổ tốn thời gian của cô và họ. Cô hoàn thành đơn cho chừng chục vị trí. Cái nào nhìn cũng tiềm năng như cái nào. Stanley bước vào lúc cô đang rối như canh hẹ, tự hỏi liệu mình có thể xoay sở điền hết chục đơn xin làm giáo viên này mà không phát khùng hay không. Anh nhìn xấp giấy vương vãi trên bàn, đoạn chạm vào bức thư từ giám đốc trường Traynor, một bức thư chẳng nổi bật cũng chẳng mờ nhạt hơn những bức thư khác.

“Đây,” anh nói.

Cô ngước nhìn anh, giật mình trước giọng điệu chắc nịch đầy chân phương của chồng. “Anh biết gì về Georgia mà em không biết à?”

“Không. Anh chỉ biết đến nơi đó qua phim ảnh thôi.” Cô nhìn anh, nhướng mày.

“ Cuốn theo chiều gió [^cuon]. Vivien Leigh. Clark Gable. ‘Tôi sẽ nghĩ về điều đó vào ngày mai, vì ngày mai là một ngày khác.’ Nghe anh có giống dân miền Nam không, Patty?”

Tựa Việt của cuốn Gone with the Wind.

“Vâng. Nam Bronx. Nếu anh không biết gì về Georgia, cũng chưa từng tới đó, vậy tại sao…”

“Vì nó hợp.”

“Sao anh biết được điều đó chứ, Stanley.”

“Có chứ,” anh nói ngắn gọn. “Anh biết mà.” Nhìn anh, cô nhận ra anh không đùa: anh nghiêm túc khi nói vậy. Cô cảm giác có chút bứt rứt lăn tăn gợn sau lưng mình.

“Làm sao anh biết?”

Từ nãy đến giờ, anh vẫn khe khẽ mỉm cười. Nhưng nụ cười ấy chợt lung lay, và anh thoáng bối rối. Mắt anh tối sầm lại, như thể anh đang nhìn vào trong, viện hỏi một công cụ đang tích tắc đều đặn, nhưng anh lại chẳng hiểu cách thức nó hoạt động, như người bình thường không hiểu cơ chế của chiếc đồng hồ đeo trên cổ tay mình.

“Con Rùa không giúp được ta,” đột nhiên anh thốt lên. Từng lời phát ra rành mạch. Cô nghe thấy rõ mồn một. Cái nhìn vào trong đó, đầy ngạc nhiên- vẫn nán lại trên mặt anh, và nó bắt đầu làm cô thấy sợ.

“Stanley? Anh nói gì vậy? Stanley ?”

Anh giật bắn người. Cô đang ăn dở mấy quả đào trong lúc viết đơn, và tay anh hất phải đĩa. Chiếc đĩa rơi xuống sàn nhà vỡ toang. Đôi mắt anh như tỉnh trở lại.

“Ôi trời! Anh xin lỗi.”

“Không sao đâu. Stanley – nãy anh nói gì thế?”

“Anh quên rồi,” anh qua loa. “Nhưng anh nghĩ mình nên cân nhắc về Georgia, em yêu ạ.”

“Nhưng…”

“Tin anh đi,” anh nói, và cô làm theo.

Cuộc phỏng vấn của cô diễn ra tốt đẹp ngoài mong đợi. Ngồi trên tàu về lại New York, cô biết mình sẽ nhận được công việc này. Trưởng khoa Kinh doanh có cảm tình với Patty ngay lập tức, và cô cũng thế, thậm chí cô còn nghe thấy tiếng khớp đánh cạch giữa hai người. Chừng một tuần sau, thư xác nhận đến. Trường công Hợp nhất Traynor đề nghị mức lương 9.200 đô-la và hợp đồng thử việc.

“Con tính chết đói sao?” Herbert Blum cằn nhằn khi nghe con gái nói mình dự định sẽ nhận việc. “Đã vậy lại còn vừa chịu nóng vừa chết đói nữa chứ.”

Cô đem lời bố nói kể với Stanley thì anh bảo, "Vớ vẩn lẩn thẩn, Scarlett à." Trước đó, cô tức điên người, đến mức rơm rớm nước mắt, nhưng nghe anh nói xong, cô phì cười, và Stanley kéo cô vào lòng.

Câu gốc là “Fiddle-dee-dee”, lời thoại này là của nhân vật Scarlett Hara (do Vivien Leigh thủ vai) trong bộ phim Gone with the Wind của đạo diễn Victor Fleming (1939).

Về nóng thì rất đúng, nhưng chết đói thì không. Họ lên xe hoa vào ngày 19 tháng 8 năm 1972. Patty Uris động phòng hoa trúc khi còn trinh nguyên. Cô cởi bỏ xiêm y giữa tấm trải giường mát lạnh ở một khách sạn nghỉ dưỡng tại Poconos, tâm trạng dậy sóng và bão giông - ham muốn như tia chớp lóe lên, nhục dục ngọt ngào, sợ hãi như mây đen. Khi Stanley nhẹ nhàng bước vào giường, nằm bên cạnh cô, cơ bắp lực lưỡng, dương vật của anh như dấu chấm than chĩa thẳng từ lớp lông vàng nhạt, cô thì thầm: “Đừng làm em đau nhé, anh yêu.”

“Anh sẽ không bao giờ làm em đau,” anh nói khi ôm cô vào lòng, và đó là lời hứa anh chân thành giữ vững cho đến ngày 27 tháng 5 năm 1985 – cái đêm trong bồn tắm.

Nghề giáo của cô rất suôn sẻ. Stanley kiếm được công việc lái xe tải bánh mì với mức lương 100 đô-la một tuần. Tháng Mười một năm đó, khi trung tâm thương mại Traynor Flats khai trương, anh nhận được một công việc ở văn phòng H&R Block ở đó, lương 150 đô-la một tuần. Thu nhập của cả hai vợ chồng lúc đó là 17.000 đô la một năm – đối với họ, số tiền ấy như cả một gia tài, nhưng đó là những năm tháng xăng có giá 35 xu một thùng, một ổ bánh mì trắng chưa tới 5 xu. Vào tháng Ba năm 1973, không om sòm, chẳng ầm ĩ, Patty Uris bỏ thuốc tránh thai.

Năm 1975, Stanley nghỉ việc ở H&R Block và tự mở công ty riêng. Bố mẹ đôi bên đều đồng tình cho rằng đây là một nước cờ dại dột. Không phải Stanley không nên tự gây dựng cơ nghiệp riêng - ai chẳng mong anh lập công ty riêng kia chứ! Nhưng họ cho rằng hành động này là quá sớm, và nó tạo quá nhiều áp lực tài chính lên Patty. (“Thể nào khi thằng ăn hại đó làm con bé dính bầu,” Herbert Blum sưng sửa nói với anh trai của mình vào một đêm nhậu trong bếp, “em cũng phải cưu mang đám chúng nó.”) Các ông bố bà mẹ cho rằng đàn ông tốt nhất không nên nghĩ đến chuyện tự lập công ty riêng cho đến khi đã đủ trưởng thành và già đời hơn – bảy mươi tám tuổi chẳng hạn.

Một lần nữa, Stanley vẫn vững như kiềng ba chân. Anh còn trẻ, thân thiện, sáng sủa và khéo léo. Trong thời gian làm cho Block, anh mở rộng quan hệ với nhiều người. Những điều đó chẳng khác nào lộc trời cho. Nhưng anh không hề biết Corridor Video, một công ty tiên phong trong mảng kinh doanh bằng video còn non trẻ, sẽ xây dựng công ty trên một miếng đất cằn cỗi do canh tác quá độ cách căn nhà vợ chồng Uris chuyển đến năm 1979 chưa tới mười lăm cây số; anh cũng chẳng thể nào biết chừng một năm sau khi chuyển về Traynor, Corridor sẽ thực hiện một bản khảo sát thị trường độc lập. Mà dù có biết những thông tin này đi nữa, chắc hẳn còn khuya anh mới tin họ sẽ giao công việc ấy cho một chàng trai Do Thái cận thị, tình cờ lại là dân miền Bắc - tay Do Thái lúc nào cũng cười xòa, đi hơi cà nhắc, thích mặc quần jean ống loe vào ngày nghỉ, trên mặt còn lấm tấm vết thâm mụn thời dậy thì. Thế mà họ lại tuyển anh. Thật là vậy. Như thể Stan đã biết tất cả từ trước.

Sau khi cộng tác với Corridor Video, anh được đề nghị trở thành nhân viên toàn thời gian với mức lương khởi điểm 30.000 đô-la một năm.

“Và đó thật ra mới chỉ là bắt đầu thôi,” đêm ấy, Stanley nói với Patty trên giường. “Tháng Tám này, họ sẽ phát triển như vũ bão, em ạ. Nếu không có công ty nào bùng nổ cả thế giới trong chừng mười năm nữa, họ sẽ lừng lững sánh ngang với các ông lớn như Kodak, Sony và RCA.”

“Vậy anh dự tính làm gì?” cô hỏi, dù đã biết câu trả lời.

“Anh sẽ nói với họ rằng được làm việc với họ quả là một vinh dự của anh,” anh đáp và phá lên cười, kéo cô lại gần, hôn thật sâu. Chốc sau, anh đã ở trên cô, họ lên đỉnh - một lần, hai lần, rồi ba lần, như pháo hoa sáng lóa trên bầu trời đêm… nhưng mãi chẳng có con.

Công việc với Corridor Video cho anh cơ hội tiếp xúc với một vài người tiền muôn bạc vạn và quyền uy nhất Atlanta – và hai vợ chồng rất bất ngờ khi thấy hầu hết bọn họ rất tốt tính. Ở tầng lớp đó, vợ chồng cô tìm được sự chấp nhận, tấm lòng rộng mở mà có tìm đỏ mắt ở dân miền Bắc cũng không thấy. Những người giàu nhất, kiệt xuất nhất nước Mỹ sống ở Atlanta, Georgia. Anh sẽ giúp một số người bọn họ giàu có hơn, họ cũng sẽ giúp anh giàu có hơn, và anh sẽ được thỏa sức vẫy vùng, anh không thuộc về ai, trừ người bạn đời Patricia, và vì nàng cũng thuộc về anh, nên anh thấy như vậy là ổn thỏa.

Vào thời điểm họ rời Traynor, Stanley đã hợp thành công ty và tuyển dụng sáu nhân viên. Năm 1983, thu nhập của hai người tiến vào lãnh địa chưa từng khai phá – lãnh địa mà Patty chỉ lờ mờ nghe phập phồng đồn thổi. Ấy là vùng đất trong truyền thuyết của sáu chữ số. Tất cả những điều này xảy đến đơn giản và dễ dàng như việc cô xỏ chân vào đôi giày thể thao mỗi sáng thứ Bảy. Mọi thứ suôn sẻ đến độ thỉnh thoảng cô hoảng sợ. Có lần cô đùa đầy sống sượng về việc trao linh hồn cho quỷ dữ. Stanley cười lăn cười bò, tí thì sặc, nhưng cô chẳng thấy vui chút nào, bất kể là lúc ấy hay sau này.

Con Rùa không giúp được ta.

Thỉnh thoảng, chẳng vì lý do gì, cô tỉnh giấc với suy nghĩ ấy trong đầu, như mảnh vỡ cuối cùng của một giấc mơ bị lãng quên còn sót lại, và cô sẽ quay sang Stanley, chợt thấy cần chạm vào anh, cần khẳng định anh vẫn ở đó.

Đó là một cuộc hôn nhân tốt đẹp – họ không bù khú rượu chè, không lang chạ bên ngoài, không ma túy, không buồn chán, không lời qua tiếng lại. Chỉ có một bóng mây duy nhất. Và mẹ cô chính là người đầu tiên nhắc đến sự hiện diện của bóng mây này. Giờ ngẫm lại, việc mẹ cô là người đầu tiên làm vậy rõ là điềm hung. Nó được viết thành câu hỏi trong thư Ruth Blum gửi con. Tuần nào bà cũng viết cho Patty một bức thư, và lá thư ấy đến vào chớm thu năm 1979. Nó được chuyển cho cô từ địa chỉ Traynor cũ, Patty ngồi đọc nó trong phòng khách chất đầy những thùng rượu các tông, bên trong chứa ngập đồ đạc của họ, trông cô đơn côi, chênh vênh và bơ vơ.

Nhìn chung, nó cũng như bao bức thư mà Ruth Blum gửi từ nhà: bốn trang nghìn nghịt chữ mực xanh, mỗi trang đề Lời nhắn nhủ của mẹ . Chữ bà viết như gà bới, đến độ có lần Stanley cằn nhằn rằng anh không tài nào đọc được một chữ của mẹ vợ. “Anh đọc làm gì?” Patty bật lại.

Bức thư này cũng tràn ngập tin tức thường ngày của mẹ cô, bởi nếu so sánh thì trí nhớ của Ruth Blum chẳng khác nào một đồng bằng rộng lớn, trải dài từ hiện tại đến hằng hà sa số mối quan hệ đan xen. Rất nhiều người mà mẹ nhắc đến trong thư đã bắt đầu phai nhạt trong ký ức của Patty tựa bức hình trong cuốn album cũ, nhưng đối với Ruth, tất cả bọn họ vẫn vô cùng rõ nét. Mẹ cô lúc nào cũng lo lắng về tình hình sức khỏe của hai vợ chồng, tò mò về những thứ họ làm, và lần nào cũng như lần nào, bà tiên lượng bệnh tật cho họ hết sức hiểm nghèo. Bố cô vẫn hay bị đầy bụng. Ông dám chắc đó chỉ là chứng khó tiêu, còn bà viết trong thư rằng ông chẳng nghĩ đến khả năng mình bị viêm loét cho đến khi thực sự thổ huyết, mà có khi đến nước ấy ông cũng vẫn bình chân như vại. Con biết bố con rồi đấy – ông ấy làm việc như trâu, lắm lúc cũng suy nghĩ như trâu, ôi phủi phui cái mồm của mẹ. Randi Harlengen thắt ống dẫn trứng rồi, người ta lấy từ buồng trứng bà ấy u nang to như quả bóng golf, tạ ơn Chúa là không có khối u nào ác tính cả, nhưng có cả thảy hai mươi bảy khối u trong buồng trứng, chưa chết là may đấy! Mẹ cô khẳng định chắc nịch nguyên nhân là do nguồn nước của thành phố New York - đúng là không khí ở đó rất ô nhiễm, nhưng mẹ cô nghĩ nước mới là tác nhân ảnh hưởng nặng nề nhất qua thời gian. Nó tích tiểu thành đại trong cơ thể mỗi người. Bà còn nói không biết Patty có biết không, rằng bà đã bao lần cảm tạ Chúa vì “hai đứa bọn con” được sống nơi thôn dã, cả không khí và nguồn nước - quan trọng nhất là nguồn nước - đều sạch sẽ hơn (với Ruth, khu vực phía Nam, trong đó có Atlanta và Birmingham, đều là vùng quê). Dì Margaret lại đôi co với công ty điện. Stella Flanagan lại đi bước nữa, đúng là giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời. Richie Huber lại bị đuổi việc.

Và giữa tràng giang đại hải những lời tán dóc - nhiều khi ngồi lê đôi mách, giữa một đoạn văn, không mào đầu, chẳng dính dáng gì đến nội dung đáng kể lể, Ruth Blum bâng quơ hỏi Câu hỏi Hành xác: “Thế khi nào con và Stan mới cho bố mẹ lên chức ông bà ngoại đây? Bố mẹ nên có cháu lắm rồi đấy (trai gái đều được). Và trong trường hợp con không để ý, Patty à, bố mẹ cũng lớn tuổi rồi.” Sau đó, bà tiếp tục kể chuyện cô con gái nhà Bruckner sống dưới phố bị trường đưa về nhà vì tội không mặc áo ngực mà khoác chiếc áo thiếu điều thấy hết bên trong.

Với tâm trạng hẩm hiu, da diết nhớ căn nhà cũ ở Traynor, cảm thấy mông lung và sợ hãi khi nghĩ về tương lai phía trước, Patty bước vào căn phòng sắp sửa được dùng làm phòng ngủ, nằm xuống nệm (bục kê nệm vẫn để ngoài ga-ra, còn tấm nệm nằm chỏng chơ giữa sàn nhà rộng thênh thang không trải thảm, trông chẳng khác nào một món đồ trôi dạt vào bờ biển vàng kỳ cục). Cô gục đầu lên tay, khóc như mưa gần hai mươi phút. Cô đoán hẳn sẽ đến lúc mình trào nước mắt. Bức thư của mẹ chỉ khiến điều đó xảy ra nhanh hơn, giống như bụi chui tọt vào mũi ta và trở ra qua một cái hắt hơi.

Stanley muốn có con. Cô cũng thế . Họ tâm đầu ý hợp về vấn đề này, như cách họ thưởng thức các bộ phim của Woody Allen, việc họ đến giáo đường Do Thái tương đối đều đặn, khuynh hướng chính trị, việc họ không thích cần sa và cả tỉ những điều lớn nhỏ khác. Trong căn nhà ở Traynor có một phòng dư được họ chia đôi ngay giữa. Bên trái, anh kê một chiếc bàn làm việc và ghế để đọc sách; bên phải, cô đặt máy may và một chiếc bàn để chơi trò ráp hình. Hai người đồng thuận về căn phòng ấy đến độ chẳng mấy khi họ nhắc đến nó – chỉ đơn giản là căn phòng hiện diện ở đó, như mũi trên khuôn mặt hoặc chiếc nhẫn cưới trên tay trái. Một ngày nào đó, căn phòng ấy sẽ thuộc về Andy hoặc Jenny. Nhưng đứa trẻ ấy nơi nao? Máy may, giỏ đựng vải, bàn xếp hình, bàn làm việc và chiếc ghế hãng La-Z-Boy đều lầm lũi ở đó, từ tháng này qua tháng nọ, củng cố vị thế của mình, ngày càng bén rễ trong phòng. Đó là suy nghĩ trong lòng cô, dù cô chưa bao giờ đào sâu suy nghĩ ấy; như cái từ khiêu dâm , ấy là khái niệm nhảy múa bên ngoài khả năng mường tượng của cô. Nhưng cô vẫn nhớ, có lần nọ, khi đến chu kỳ kinh nguyệt, cô mở tủ dưới bồn tắm để lấy băng vệ sinh; cô nhìn chăm chăm vào hộp băng vệ sinh Stayfree và nghĩ cái hộp ấy trông thật láo toét, thiếu điều như muốn nói: Xin chào, Patty! Bọn con là con của mẹ đây. Bọn con là những đứa con duy nhất mà mẹ sẽ có, và bọn con đói rồi. Cho bọn con ăn đi. Cho bọn con ăn máu đi.

Năm 1976, ba năm sau khi cô vứt bỏ vị thuốc Ovral cuối cùng, họ đến gặp một vị bác sĩ mang tên Harkavay ở Atlanta. “Vợ chồng tôi muốn biết liệu có vấn đề gì không? Stanley nói, “và chúng tôi muốn biết liệu chúng tôi nên làm gì nếu phát hiện ra vấn đề.”

Họ tiến hành xét nghiệm. Kết quả cho thấy tinh trùng của Stanley rất khỏe, còn trứng của Patty rất dồi dào, các ống dẫn đều khai thông đúng chỗ.

Harkavay, vị bác sĩ không đeo nhẫn cưới, với khuôn mặt cởi mở, ôn hòa, hồng hào của một thạc sĩ vừa trở về sau khi trượt tuyết ở Colorado nhân dịp nghỉ giữa kỳ, giải thích với họ rằng có thể là do căng thẳng. Anh nói vấn đề như vậy rất phổ biến. Anh cho hay, về mặt tâm lý, những trường hợp này tương tự hiện tượng bất lực - càng muốn lại càng không làm được. Hai vợ chồng phải thoải mái. Nếu được, họ không nên nghĩ tới việc phải đậu thai khi quan hệ tình dục.

Stanley mặt nặng mày nhẹ trên đường về. Patty hỏi anh làm sao.

“Anh chẳng bao giờ làm thế,” anh nói.

“Làm gì cơ?”

“Nghĩ đến chuyện đậu thai trong lúc quan hệ.”

Cô khúc khích cười, dù lúc ấy cảm giác cô độc và sợ hãi đã phần nào ùa vào lòng cô. Và đêm đó, khi cô trèo lên giường, cứ tưởng Stanley đã ngủ say thì anh làm cô hết hồn khi đột nhiên lên tiếng trong bóng đêm. Giọng anh đều đều, nhưng nghẹn ngào nước mắt. “Là anh,” anh nói. “Là tại anh.”

Cô xoay người về phía anh, ôm anh vào lòng.

“Đừng nói vớ vẩn như vậy,” cô trấn an anh. Nhưng tim cô đập thình thịch – đập quá nhanh. Anh không chỉ làm cô giật mình; dường như anh còn có thể nhìn vào tâm trí và đọc được suy nghĩ bí mật cô ghim trong đầu, nhưng đến tận phút giây ấy, cô không hề ý thức được. Không nhạc điệu, không lý do, cô cảm giác - cô biết - rằng anh đúng. Có điều gì đó không ổn, mà vấn đề không nằm ở cô. Là do anh. Có khuyết sót nơi anh.

“Anh đừng nói linh tinh như thế,” cô thì thầm giằng xé nơi vai anh. Anh hơi đổ mồ hôi, và cô chợt nhận ra anh đang sợ. Nỗi sợ túa ra từ anh thành những đợt sóng lạnh lẽo, nằm khỏa thân bên cạnh anh bỗng chốc chẳng khác nào lõa lồ trước tủ lạnh đang mở.

“Anh không linh tinh và cũng không nói vớ vẩn,” anh nói với cùng giọng điệu đó, vừa đều đều vừa vỡ òa cảm xúc, “Và em biết mà. Lý do là tại anh. Nhưng anh không biết tại sao.”

“Ai mà biết được những điều đó chứ.” Giọng cô gay gắt, la rầy - giống như giọng của mẹ cô khi bà sợ hãi. Và thậm chí, khi gắt gỏng với anh, cô rùng mình, trở người quằn quại. Stanley cảm nhận được điều đó và đôi tay anh siết chặt lấy cô.

“Thi thoảng,” anh nói, “thi thoảng anh nghĩ mình biết lý do tại sao. Thi thoảng anh nằm mơ thấy ác mộng, anh tỉnh giấc và nghĩ, “Mình biết rồi. Mình biết sai lệch ở đâu rồi? Không chỉ với việc không có thai mà là tất cả. Tất cả những sai lệch trong đời anh.”

“Stanley, đời anh không có gì sai lệch hết!”

“Ý anh không phải là từ bên trong,” anh giải thích. “Bên trong thì ổn. Nhưng anh đang nói đến bên ngoài cơ. Thứ lý ra phải kết thúc mà vẫn còn đang dang dở. Anh tỉnh giấc sau cơn mơ và nghĩ, “Cả cuộc đời mưa thuận gió hòa của mình hóa ra chỉ là mắt của một cơn bão mà mình không tài nào lý giải nổi? Anh sợ lắm. Nhưng rồi nó… phai đi. Như những giấc mơ thường thế.”

Cô biết đôi khi anh nằm mơ thấy ác mộng. Năm sáu lần anh làm cô tỉnh giấc, tay chân quơ quàng, miệng rên rỉ. Có lẽ những lần khác, cô ngủ quá say, không hay biết những khoảng đen tối ấy nơi anh. Lần nào cô vươn tới hỏi, anh đều đáp một câu y chang: Anh không nhớ . Và rồi anh với lấy bao thuốc, ngồi dậy trên giường châm thuốc, chờ đợi dư âm còn sót lại của giấc mơ túa ra lỗ chân lông như mồ hôi.

Không có con. Vào đêm ngày 28 tháng 5 năm 1985 - đêm trong bồn tắm – bố mẹ hai bên vẫn mong ngóng được lên chức ông bà. Căn phòng dư vẫn ở đó; băng vệ sinh Stayfree ban đêm và ban ngày vẫn chiếm cứ vị trí thường thấy trong ngăn tủ dưới bồn rửa mặt, kỳ kinh vẫn đều đặn ghé thăm hằng tháng. Dù vẫn tất bật chuyện riêng nhưng mẹ cô phần nào ý thức được nỗi đau của con gái, bà thôi không hỏi han trong thư, giữ ý khi Stanley và Patty về New York chơi hai lần trong năm. Không ai lôi chuyện liệu đôi vợ chồng có uống vitamin E ra đùa nữa. Stanley cũng thôi không nhắc đến con cái, nhưng thỉnh thoảng, khi anh không biết vợ đang nhìn, cô bắt gặp bóng đen sa sầm trên gương mặt anh. Một bóng đen nào đó không rõ. Như thể anh đang tuyệt vọng tìm cách nhớ lại điều gì.

Ngoại trừ bóng mây ấy, cuộc sống hai vợ chồng vẫn đầm ấm cho đến đêm ngày 28 tháng 5, khi điện thoại đổ chuông trong lúc chương trình Gia đình Feud đang chiếu trên ti vi. Patty cặm cụi bên hai chiếc áo của Stan, hai chiếc áo khoác của cô, bộ đồ may vá và hộp đựng cúc kỳ quặc; Stanley cầm trên tay cuốn tiểu thuyết mới của William Denbrough, mới phát hành, thậm chí còn chưa có bản bìa mềm. Có một con quái vật đang nhe nanh vuốt ở mặt trước của cuốn sách. Mặt sau là hình một người đàn ông đầu hói đeo kính.

Stanley ngồi gần điện thoại hơn. Anh nhấc ống nghe lên và nói: “A lô, gia đình Uris xin nghe.”

Anh lắng nghe, cái chau mày hiện lên giữa hai lông mày. “Anh nói anh là ai kia ?”

Patty liền cảm thấy hoảng sợ. Về sau, vì xấu hổ mà cô nói dối bố mẹ rằng cô đã linh cảm thấy có điểm hung từ khoảnh khắc điện thoại reo, song thực ra cô chỉ cảm thấy không yên trong lòng vào khoảnh khắc cô ngước lên nhìn chồng khi đang may vá. Nhưng có lẽ như vậy cũng không sao. Có lẽ từ trước cuộc gọi kia, cả hai vợ chồng cô đều đã nghi ngờ tai bay vạ gió sắp sửa ập tới, thứ tai vạ trật quẻ với ngôi nhà xinh xắn hài hòa phía sau bờ giậu thủy tùng thấp, thứ tai vạ hiển nhiên đến độ chẳng ai nhận ra… không cần nhiều, chỉ cần khoảnh khắc sắc bén ấy là quá đủ, như dùi đục đá cắm một lỗ rồi rút ra thật nhanh.

Mẹ em gọi à? Cô thốt lên hỏi anh ngay giây phút đó, trong đầu cứ ngỡ bố cô bị đau tim, bởi ông cụ dư mười cân và từ tuổi tứ tuần đã hay đau bụng.

Stan lắc đầu, đoạn khẽ mỉm cười với điều người bên kia đầu dây nói. “Cậu… Là cậu à! Trời ơi, ai ngờ chứ! Mike! Làm sao mà cậu…”

Anh lại trầm ngâm lắng nghe. Khi nụ cười của anh nhạt dần, cô nhìn thấy – hoặc ngỡ là thấy – biểu hiện phân tích trên gương mặt anh, nét mặt anh trưng ra khi người khác trình bày vấn đề hoặc giải thích sự thay đổi đột ngột trong một tình huống đang diễn ra hay kể với anh điều gì đó kỳ cục và thú vị. Cô đoán chắc là lý do cuối cùng. Khách hàng mới? Bạn cũ? Có lẽ thế. Cô chuyển sự chú ý của mình trở lại ti vi, trên màn hình là cảnh một phụ nữ quàng tay quanh người Richard Dawson và hôn lấy hôn để. Cô trộm nghĩ khéo có khi anh diễn viên này được hôn còn nhiều hơn tảng đá Blarney. Cô nghĩ bản thân mình còn muốn hôn anh ta chứ nói gì ai.

Theo truyền thuyết, tảng đá Blarney tại lâu đài Blarney ở Ireland có khả năng cho người ta tài hùng biện. Vì vậy, du khách thường đến đây hôn ngược tảng đá để có được tài năng đó.

Lúc Patty bắt đầu tìm kiếm cái nút màu đen cho hợp với chiếc áo vải denim xanh của Stanley, cô mơ hồ cảm nhận được cuộc đối đáp đang dần trở nên trôi chảy hơn – Stanley đôi lúc càu nhàu và có lần anh hỏi: “Cậu có chắc không, Mike?” Sau một khoảng dùng rất lâu, anh mới đáp, “Được rồi, tớ hiểu rồi. Ừ, tớ… Ừ. Ừ, mọi thứ. Tớ hình dung đại khái rồi. Tớ… Cái gì?… Không, tớ không hứa trước được đâu, nhưng tớ sẽ cân nhắc kỹ lưỡng. Cậu biết mà… Hả?… Cậu ấy đã làm thế?… Chà, chứ còn gì nữa! Tất nhiên là có. Ừ… chắc chắn rồi… Cảm ơn cậu… Ừ. Tạm biệt.” Đoạn anh cúp máy.

Patty liếc nhìn và thấy anh ngây người nhìn vô định vào khoảng không phía trên ti vi. Trong chương trình, khán giả đang vỗ tay tán thưởng gia đình Ryan vừa đạt được 280 điểm, cả nhà họ đều đoán khán giả sẽ trả lời “môn Toán” cho câu hỏi “Học sinh cấp hai ghét nhất môn học nào ở trường?” Cả nhà Ryan nhảy lên tán loạn và la hét vui mừng. Tuy nhiên, Stanley lại chau mày. Về sau, cô kể với bố mẹ mình rằng sắc mặt anh hơi xám, mà thật là thế, nhưng lúc đó cô không kể, cô gạt chuyện đó sang một bên, đổ cho chiếc đèn bàn có chụp bóng thủy tinh màu xanh nên mới khiến sắc mặt anh trông như vậy.

“Ai gọi vậy, Stan?”

“Hửm?” Anh nhìn cô. Cô nghĩ ánh nhìn trên mặt anh vương chút mơ hồ, đan xen phần nào khó chịu. Mãi đến sau này, khi lặp đi lặp lại khung cảnh ấy trong đầu, cô mới ngộ ra đó là biểu cảm của một người đang dần cắt đứt khỏi thực tế, từng dây, từng dây một. Khuôn mặt của một người vừa bước ra khỏi sắc xanh, bước vào đen tối.

“Ai gọi điện thoại vậy anh?”

“Không có ai đâu,” anh lấp liếm. “Không ai cả, thật đấy. Anh đi tắm đã.” Anh đứng dậy.

“Gì cơ, 7 giờ rồi mà?”

Anh không đáp mà rời khỏi phòng. Lý ra cô đã có thể tra vặn anh nếu có điều gì đó không ổn, thậm chí có thể đi theo hỏi xem anh có đau bụng không - anh rất thoáng trong chuyện chăn gối, nhưng có những thứ anh rất giữ nguyên tắc và không dưng anh bảo mình sẽ đi tắm lúc còn khối thứ khác để làm, thật đúng là mặt trời mọc đằng đông. Nhưng sắp sửa có một gia đình mới, nhà Piscapo, bước lên sân khấu, và Patty biết chắc thể nào Richard Dawson cũng nói gì đó vui vui để nhận xét về cái tên, thêm nữa, cô mò mẫm mãi mà vẫn chưa tìm được cái nút áo màu đen, trong hộp. Chúng trốn đi rồi, tất nhiên, đó là cách lý giải duy nhất…

Thế là cô để anh đi, chẳng mảy may nghĩ đến anh cho tới cuối chương trình, khi họ chạy tên người sản xuất trên màn hình ti vi, cô mới ngước lên nhìn và nhận ra ghế anh trống trơn. Ban nãy cô nghe thấy tiếng xả nước trong bồn tắm trên lầu, được chừng năm, mười phút thì tắt… nhưng cô không nghe thấy tiếng của tủ lạnh đóng mở, tức là anh lên tắm mà không mang theo bia vào để nhâm nhi. Ai đó đã gọi điện đến rồi thảy cho anh một vấn đề đau đầu, vậy mà cô có san sẻ với anh dù chỉ một lời an ủi không? Không. Cô có vặn hỏi để anh tâm sự một chút không? Không. Thậm chí cô có phát hiện điều gì đó không ổn không? Lần thứ ba, không. Tất cả là vì chương trình truyền hình ngu ngốc ấy - cô thậm chí còn không thể giận cá chém thớt lên mấy cái nút áo, chúng chỉ là lời bao biện mà thôi.

Được rồi, vậy thì cô sẽ mang một lon bia Dixie lên cho anh, ngồi cạnh anh trên bệ bồn tắm, chà lưng cho anh, đóng vai một nàng Geisha, gội đầu cho anh nếu anh muốn và hỏi anh xem có chuyện gì… hoặc người vừa gọi đến là ai.

Cô lấy một lon bia từ tủ lạnh và lên lầu. Lòng cô bắt đầu không yên khi thấy cánh cửa phòng tắm đóng kín. Không he hé mà đóng kín. Stanley không bao giờ đóng cửa khi tắm. Họ xem hành động này mang dáng dấp của một trò đùa – cửa đóng kín nghĩa là anh ngoan ngoãn làm theo điều ngày xưa mẹ anh từng dạy, còn cửa mở mang hàm ý anh sẵn sàng đi ngược lại những lời dạy mà mẹ anh dặn dò.

Patty dùng móng tay gõ lọc cọc vào cửa, đột nhiên cô nghe thấy rất vang, vang đến hãi hùng, tiếng cạch cạch gai người trên mặt gỗ. Và việc gõ cửa phòng tắm như một vị khách là điều cô chưa từng làm trong suốt bao nhiêu năm đầu gối tay ấp với chồng - cửa phòng tắm hay cánh cửa nào trong nhà cũng vậy.

Lòng cô chợt sôi lên cảm giác nhộn nhạo, và cô hồi tưởng lại hồ Carson, nơi cô hay đi bơi lúc còn bé. Vào đầu tháng Tám, nước dưới hồ ấm như nước trong bồn tắm bồn… nhưng lắm lúc ta sẽ vô tình chạm trán vùng nước lạnh ngắt, đủ để ta rùng mình kinh ngạc và thích thú. Phút trước đương ấm, ấy thế mà phút sau nhiệt độ như vừa giảm gần chục độ dưới hông. Đó là cảm giác của cô lúc này - ngạc nhiên thì có, nhưng thích thú thì không như thể cô vừa bước vào vùng nước lạnh. Có điều nếu năm xưa, khi bơi trong hồ Carson, cô chỉ lạnh từ hông trở xuống, tê cóng đôi chân thon dài, thì hiện giờ lại khác.

Cơn lạnh đang bao trùm trái tim cô.

“Stanley? Stan?”

Lần này, cô không lấy móng tay gõ lên cửa nữa. Cô gõ cửa to hơn. Vẫn không thấy động tĩnh gì, cô đập cửa thùm thụp.

“Stanley?”

Tim cô. Tim cô không yên vị trong ngực nữa rồi. Nó trào lên họng, khiến cô ngạt thở.

Trong sự thinh lặng theo sau tiếng hét của cô (cô rợn người khi mình đang đứng la hét trên tầng, cách nơi cô ngả lưng say giấc nồng hằng đêm chưa tới chục mét), cô nghe thấy một âm thanh khiến phần tâm trí đang để dưới lầu của cô như phát hoảng. Tiếng động khẽ khọt vô cùng. Đó là tiếng nước nhỏ giọt. Tách … dừng. Tách … dừng. Tách … dừng. Tách …

Cô có thể hình dung trong đầu những giọt nước đang tụ lại ở đầu vòi nước, nặng dần, to dần, như có bầu và rồi rơi đánh tách.

Đó là âm thanh duy nhất vang lên. Và rồi cô sửng sốt nhận ra chính Stanley, chứ không phải bố cô, mới là người bị lên cơn đau tim tối nay.

Cô rên lên, chộp lấy tay nắm bằng kính và vặn mở. Tuy nhiên, cánh cửa không nhúc nhích: nó đã bị khóa từ bên trong. Và đột nhiên, ba điều không bao giờ dồn dập ùa vào đầu Patty Uris: Stanley không bao giờ tắm lúc chớm tối, Stanley không bao giờ đóng cửa trừ lúc dùng nhà vệ sinh và Stanley không bao giờ khóa cửa với cô.

Cô cuống cuồng tự hỏi, liệu một người có thể chuẩn bị cho con đau tim không?

Patty đưa lưỡi liếm môi – hành động ấy tạo ra âm thanh như giấy nhám quẹt lên bảng - rồi gọi tên anh lần nữa. Không có lời đáp, chỉ có tiếng nước nhỏ giọt đều đều. Nhìn xuống, cô thấy một tay mình vẫn cầm lon bia Dixie. Cô ngây ngốc nhìn nó, trái tim như mắc cửi trong cổ họng; cô ngây ra như thể cả đời chưa từng nhìn thấy một lon bia nào. Mà hình như là thế thật, hay chí ít, cô chưa thấy lon bia nào biết biến hình như vậy, bởi khi cô chớp mắt, lon bia đã hóa thành điện thoại, đen đúa và đáng sợ như một con rắn.

“Tôi có thể giúp gì cho cô không, thưa quý cô? Có chuyện gì vậy?” Con rắn gắt lên với cô. Patty dập máy rồi lùi lại, chà xát bàn tay vừa cầm điện thoại của mình. Cô nhìn xung quanh và phát hiện mình đã trở lại phòng ti vi, cô nhận ra mình mụ cả người, nỗi hoảng sợ xâm chiếm phần não trước của cô như tên trộm rón rén bước lên cầu thang. Giờ thì cô nhớ ra ban nãy mình đã thả lon bia ngoài cửa phòng tắm, mơ hồ nghĩ: Chắc đây là nhầm lẫn gì đó, sau này nhớ lại, hai vợ chồng sẽ phá lên cười cho mà xem. Chắc sau khi xả nước vào bồn, anh chợt nhớ ra mình không có thuốc lá nên mới đi ra ngoài mua trước khi cởi quần áo…

Đúng. Nhưng vấn đề là anh đã khóa trái cửa phòng tắm và vì mở cửa thì phiền phức quá, thành thử anh quyết định chui qua cửa sổ phía trên bồn tắm và men theo tường nhà bò xuống như một con ruồi. Phải, đúng rồi, chuẩn đấy…

Nỗi sợ hãi lại dấy lên trong tâm trí cô – như thứ cà phê đen đắng ngắt chực trào khỏi vành cốc. Cô nhắm mắt, cố kìm nén. Cô đứng đó, ngây ra như tượng, một bức tượng trắng bệch với mạch đập điên cuồng trong họng.

Giờ cô có thể nhớ lại mình đã chạy xuống nhà, chân loạng choạng trên cầu thang, chạy đến chỗ điện thoại, ồ phải, đúng rồi, nhưng cô định gọi cho ai?

Thật điên rồ song cô đã nghĩ: Mình sẽ gọi con rùa, nhưng con rùa không giúp được ta.

Mà cũng chẳng nghĩa lý gì nữa. Đầu óc cô trống rỗng, và dường như cô nói quàng xiên gì đó, bởi người trực tổng đài hỏi cô có vấn đề gì hay không. Ừ, cô có vấn đề, nhưng làm sao để nói với cái giọng vô nhân ảnh ấy rằng Stanley giam mình trong phòng tắm và không phản hồi với cô, làm sao nói tiếng nước nhỏ giọt đều đều xuống bồn xé nát trái tim cô? Cô cần ai đó giúp. Ai đó…

Đưa mu bàn tay lên miệng, cô cắn chặt. Cô chật vật suy nghĩ, chật vật bắt mình suy nghĩ.

Chìa khóa dự phòng. Chìa khóa dự phòng trong chạn bếp.

Cô chồm dậy, một chân mang dép đá phải túi đựng nút đặt bên cạnh ghế. Vài cái nút rơi ra, lấp lánh như những đôi mắt mơ màng dưới ánh đèn. Cô thấy chừng năm, sáu cái nút đen.

Được gắn bên trong cánh cửa tủ phía trên bồn rửa là chiếc hộp lớn được đánh véc-ni có hình chìa khóa – một khách hàng của Stan đã tự tay làm món quà này trong xưởng và tặng anh nhân dịp Giáng sinh hai năm trước. Chiếc hộp hình chìa khóa chứa đầy móc nhỏ, treo tất cả những chiếc chìa khóa trong nhà, mỗi cái đều được Stan in dòng chữ nhỏ nhắn và gọn gàng: GA-RA, ÁP MÁI, NHÀ TẮM DƯỚI, NHÀ TẮM TRÊN, CỬA TRƯỚC, CỬA SAU. Lệch sang một bên là chìa khóa xe ô tô ghi M-B và VOLVO.

Sau khi giật lấy chiếc chìa khóa NHÀ TẮM TRÊN, Patty chạy lên cầu thang rồi cố tình bước chậm lại. Chạy nhanh chỉ tổ khiến nỗi sợ hãi trào dâng, và nỗi sợ ấy đang rất sát bề mặt. Hơn nữa, nếu cô đi từ từ, có khi mọi chuyện sẽ ổn. Hoặc, nếu có biến gì đó, Chúa sẽ nhìn xuống và thấy cô đang bước đi rồi thầm nhủ: Ồ, may quá – mình lỡ chơi dại, nhưng thế này vẫn đủ thời gian để rút lại.

Nhẹ nhàng từng bước như một cô gái thong thả đến buổi họp mặt của Cộng đồng Sách cho phái nữ, cô bước lên cầu thang và đi đến cánh cửa phòng tắm đang khóa chặt.

“Stanley?” cô vừa cất tiếng vừa thử mở cửa, sốt ruột hơn bao giờ hết, cô chẳng muốn dùng chìa khóa bởi viện đến chiếc chìa khóa này là bước đường cùng. Nếu Chúa chưa kịp rút lại sai lầm trước lúc cô tra chìa, thì xem như sự đã rồi. Điều kỳ diệu chỉ còn là mơ mộng hão.

Cánh cửa vẫn khóa. Tiếng nước nhỏ giọt tách… đi kèm khoảng lặng là lời hồi đáp duy nhất dành cho cô.

Tay cô run rẩy, chiếc chìa khóa kêu cành cạch quanh tay nắm, cô mò mẫm mãi mới tìm được lỗ khóa và tra vào thành công. Cô xoay chìa, lắng nghe tiếng khóa đánh tách. Cô vụng về xoay nắm cửa bằng thủy tinh. Nó lại trượt khỏi tay cô – không phải vì cửa vẫn khóa mà là vì lòng bàn tay cô ướt đẫm mồ hôi. Siết chặt tay, cô xoay cửa. Đoạn cô đẩy cửa mở.

“Stanley? Stanley? St…”

Cô nhìn vào bồn tắm với tấm rèm màu xanh dạt về đầu bên kia của thanh thép không gỉ, quên bằng cách gọi tên chồng mình. Cô chỉ biết thẫn thờ nhìn chằm chằm vào bồn tắm, khuôn mặt đanh lại như đứa trẻ ngày đầu đến trường. Chốc nữa, cô sẽ bắt đầu hét ầm lên, và cô hàng xóm Anita MacKenzie sống cạnh nhà sẽ nghe thấy, để rồi chính Anita MacKenzie là người gọi cảnh sát vì tưởng trộm đột nhập vào nhà Uris và manh động giết người.

Nhưng hiện giờ, vào giây phút này, Patty Uris chỉ lặng lẽ đứng đó, hai tay siết chặt chiếc váy vải cotton sẫm màu, gương mặt nghiêm nghị, hai mắt trợn tròn. Và cái nhìn nghiêm nghị, gần như mộ đạo, bắt đầu biến tướng thành thứ khác. Mắt cô bắt đầu lồi ra. Miệng cô méo xệch thành một nụ cười dị dạng đầy khủng khiếp. Cô những muốn hét lên nhưng không thể. Tiếng hét kinh thiên động địa đến độ không thể phát ra.

Phòng tắm được thắp sáng bằng đèn huỳnh quang. Không gian sáng trưng. Không chút bóng tối. Ta thấy được tất tần tật, dù muốn hay không. Nước trong bồn ngả màu hồng tươi. Stanley nằm tựa lưng vào thành bồn. Đầu anh ngửa hẳn ra sau cổ khiến mái tóc đen cắt ngắn chạm vào phần da giữa xương vai. Nếu đôi mắt trừng trừng của anh vẫn có thể nhìn thấy thì lúc này đây, cô đang nhìn ngược xuống anh. Miệng anh há hốc như cánh cửa mở tung. Biểu cảm của anh kinh hãi đến cứng người, cùng cực. Một hộp dao lam Gillette Platinum Plus nằm trên thành bồn tắm. Anh đã rạch phần cẳng tay của mình, từ cổ tay xuống khuỷu tay, sau đó ngay bên dưới vòng cầu may, anh rạch ngang những vết cắt tạo thành hai chữ T đẫm máu. Vết cắt ánh sắc tím đỏ dưới ngọn đèn trắng đến nhức mắt. Cô thầm nghĩ phần gân và dây chằng lòi ra trông như miếng thịt bò rẻ tiền.

Một giọt nước tụ lại trên đầu vòi nước mạ crôm sáng bóng. Nó to dần. Như có bầu , ta có thể nói thế. Sáng lấp lánh. Rơi. Tách .

Anh đã nhúng ngón trỏ của bàn tay phải vào máu và viết một chữ duy nhất trên nền gạch màu xanh lam phía trên bồn tắm, viết hai chữ thật to, gớm guốc. Dấu máu dây thành đường zích zắc, từ ký tự thứ hai – vết này là do ngón tay anh tạo ra khi bàn tay rơi vào bồn tắm rồi nổi lềnh bềnh như hiện tại. Cô đoán Stanley đã tạo ra vết ấy – ảnh hưởng cuối cùng mà anh để lại thế giới – trước khi lịm đi, Nó như đang thét gào với cô.

Lại một giọt nước rơi xuống bồn.

Tách .

Giọt nước tràn ly. Patty Uris cuối cùng cũng tìm lại được giọng nói của mình. Nhìn chằm chằm vào đôi mắt tuy đã chết nhưng còn lấp lánh của chồng, cô bắt đầu hét lên.

2

RICHARD TOZIER LÊN ĐƯỜNG

Rich thấy mình giữ tinh thần tốt cho đến khi anh nôn thốc nôn tháo.

Anh đã lắng nghe tất cả những lời Mike Hanlon nói, những điều hợp tình hợp lý, trả lời câu hỏi của Mike, thậm chí còn hỏi thêm dăm ba câu. Anh mơ hồ cảm thấy mình đang diễn một trong những Giọng nói của bản thân – không phải thứ giọng kỳ cục và lố lăng như thỉnh thoảng anh hay làm trên ra-đi-ô (Va li Lạc thú, Thư ký Khát tình là giọng anh thích nhất trong số những giọng anh sáng tác trước giờ, và phản ứng của thính giả với Lạc thú rất tích cực, thậm chí ngang ngửa với Giọng Colonel Buford Kissdrivel vốn được mọi người ưa chuộng nhất), mà là một giọng nói ấm áp, đọng tình người và tự tin. Giọng nói Tôi-vẫn-ổn. Nghe thì hay, nhưng chỉ là dối trá. Giống như những Giọng nói khác, tất cả đều là dối trá.

“Cậu còn nhớ nhiều không, Rich?” Mike hỏi.

“Ít lắm,” Rich đáp, đoạn dừng một chút. “Tớ nghĩ là vừa đủ.”

“Cậu có về không?”

“Tớ sẽ về,” Rich đáp, rồi sau đó cúp máy.

Anh ngồi trong phòng làm việc một lúc, ngả người lên chiếc ghế sau bàn làm việc, nhìn ra Thái Bình Dương. Phía bên trái, một nhóm trẻ con đang chơi đùa, nghịch ngợm trên ván nhưng không lướt sóng. Đằng nào cũng không đủ sóng để lướt.

Đồng hồ trên bàn làm việc - một chiếc đồng hồ LED thạch anh mắc tiền do đại diện đơn vị thu âm gửi tặng - cho biết lúc đó là 5 giờ 9 phút chiều ngày 28 tháng 5 năm 1985. Tất nhiên, nơi Mike gọi cho anh sớm hơn nơi này ba tiếng. Trời hẳn đã tối. Thoáng nổi da gà, anh bắt đầu đi lại, làm việc này việc kia. Đầu tiên, chắc chắn rồi, anh mở nhạc - không chủ đích mà anh chỉ lấy đại một đĩa trong số hàng ngàn đĩa được xếp trên kệ. Rock and roll gắn liền với cuộc đời anh, thân thuộc như các Giọng nói, và anh khó mà làm được gì nếu không có nhạc làm nền – càng to càng tốt. Đĩa nhạc anh vừa lấy ra là nhạc Motown xưa. Marvin Gaye, một thành viên sau này của ban nhạc mà Rich thỉnh thoảng hay gọi là Ban nhạc Chết tất, cất giọng ca “Anh nghe vườn nho thì thầm”.

“Oooh-hoo, chắc em đang tự nhủ làm thế nào anh biết phải không…”

“Không tệ,” Rich nhận xét. Thậm chí anh còn khẽ mỉm cười. Chuyện này thật tệ, và thành thật mà nói, nó khiến anh chệch khỏi đường ray, nhưng anh cảm thấy mình sắp xoay xở được rồi. Muỗi.

Anh chuẩn bị đồ đạc để lên đường về quê. Và một tiếng sau đó, anh có cảm giá