Chương 4 BEN HANSCOM GỤC NGÃ
1
Khoảng 11 giờ 45 phút tối, một trong số những tiếp viên hàng không phục vụ khoang hạng nhất chuyến bay từ Omaha đến Chicago – chuyến bay số hiệu 41 của hãng United Airlines – được một dịp hồn bay phách tán. Trong vài khoảnh khắc, cô cứ ngỡ vị khách nam ở ghế 1-A đã chết.
Khi thấy anh này lên máy bay ở Omaha, cô đã tự nhủ: “Ôi trời, rắc rối đây rồi. Anh ta xỉn quắc cần câu.” Mùi rượu whiskey nồng nặc quanh đầu anh ta gọi cô nhớ đến đám bụi lúc nào cũng lởn vởn quanh nhân vật cậu bé bẩn thỉu trong loạt truyện tranh Peanuts – tên cậu bé ấy là Pig Pen. Cô rất lo anh ta sẽ yêu cầu Dịch vụ Hạng nhất, hay nói cách khác, dịch vụ rượu. Cô dám chắc anh ta sẽ gọi đồ uống - có khi gọi ly đúp cũng nên, và cô sẽ phải quyết định xem có nên phục vụ anh ta hay không. Đã vậy họa vô đơn chí, sấm chớp đì đùng suốt chuyến bay tới nay, và cô đoán chắc thể nào cũng tới lúc anh khách này, một anh chàng cao lênh khênh mặc quần jean và áo chambray, ói mật xanh mật vàng.
Nhưng khi Dịch vụ Hạng nhất đi ngang, anh chàng cao kều nọ không gọi gì ngoài lý nước khoáng có ga, lịch sự hết mức có thể. Sau đó, ánh đèn gọi dịch vụ chỗ anh cũng không lóe sáng, và cô tiếp viên hàng không chẳng mấy chốc đã quên bẵng anh chàng này, vì cô bận tối mắt với chuyến bay hôm ấy. Thành thật mà nói, đây là chuyến bay cô muốn quên đi ngay khi nó hạ cánh, là một trong những chuyến bay mà người tiếp viên như cô sẽ tự hỏi – nếu mót được thời gian mà hỏi – liệu mình có bao nhiêu khả năng sống qua con trăng này.
Chuyến bay United 41 uyển chuyển giữa sấm sét và chớp sáng như vận động viên trượt băng lành nghề thoăn thoắt trượt xuống triền đồi. Trời rất giông. Hành khách cảm thán và đùa cho bớt lo về sấm chớp mỗi khi họ thấy ánh sáng lóe lên trong những đám mây dày cộm bọc quanh máy bay. “Mẹ ơi, Chúa đang chụp hình các thiên thần hở mẹ?” Một cậu bé hỏi, và bà mẹ, lúc này mặt xanh như tàu lá, cười mà run rẩy. Hóa ra Dịch vụ Hạng nhất là dịch vụ duy nhất trên chuyến bay 41 đêm ấy. Tín hiệu đèn thắt dây an toàn được bật lên suốt hai mươi phút của chuyến bay và không lần nào tắt. Trong lúc đó, các tiếp viên đứng dọc lối đi, tất tả đáp lại nút yêu cầu dịch vụ của khách hàng, liên tục lóe sáng như pháo hoa của một xã hội văn minh.
“Tối nay Ralph bận,” tiếp viên trưởng nói với cô khi họ bước ngang qua nhau trên lối đi, chị ấy quay lại chỗ hành khách với xấp túi nôn mới trên tay. Lời chị vừa nói nửa là mật hiệu, nửa là câu đùa. Ralph khi nào cũng bận nếu chuyến bay gặp thời tiết xấu. Máy bay chao đảo khiến một hành khách khẽ ré lên, nữ tiếp viên hơi giật mình, cô đưa tay giữ thăng bằng và vô tình nhìn thẳng vào đôi mắt vô hồn đang chằm chằm của vị hành khách nam ở ghế 1-A.
Trời ơi, anh ta chết rồi, cô thầm nghĩ. Trước khi lên máy bay, anh ta uống nhiều quá… máy bay chòng chành… tim anh ta… anh ta sợ quá nên chết rồi.
Đôi mắt của vị hành khách cao lêu đều nọ chĩa vào cô nhưng không nhìn thấy cô. Chúng không động đậy. Chúng đờ đẫn. Chắc chắn đó là đôi mắt của người đã chết.
Nữ tiếp viên ngoảnh mặt quay đi khỏi ánh nhìn ghê sợ ấy, tim muốn trào lên khỏi cổ họng với tốc độ tên lửa, lưỡng lự không biết nên làm gì, nên hành động ra sao, và tạ ơn Chúa ít nhất người này không ngồi cạnh ai, chí ít sẽ không có ai hét lên hoặc hoảng loạn. Cô quyết định đầu tiên sẽ báo cho tiếp viên trưởng rồi phi hành đoàn nam ở trước. Có lẽ họ sẽ bọc chăn quanh người và khép mắt anh ta lại. Phi công sẽ giữ nguyên đèn thắt dây an toàn dù họ đã ra khỏi cùng thời tiết xấu để không ai tiến tới nhà vệ sinh, và khi các hành khách khác đã bước xuống máy bay, họ sẽ nghĩ anh này còn say ngủ…
Những suy nghĩ này lướt vụt qua đầu cô, và cô quay đầu lại nhìn thêm lần nữa cho chắc. Ánh nhìn vô hồn, chết chóc vẫn dán vào cô… rồi xác chết nhấc ly nước lên nhấp một ngụm.
Đúng lúc ấy, máy bay rung lắc, và tiếng hét khe khẽ vì ngạc nhiên của cô tiếp viên bị lấn át bởi tiếng la to hơn, đầy sợ hãi của những hành khách khác. Đôi mắt của vị khách nam chuyển động - không nhiều, nhưng đủ để cô hiểu anh ta còn sống và vẫn thấy cô. Đoạn cô nghĩ: Tại sao thế nhỉ, lúc anh ta lên máy bay, mình cứ ngỡ anh đã ở tuổi ngũ tuần, nhưng anh này không thể nào già đến mức ấy, dù mái tóc điểm bạc.
Cô bước đến chỗ anh, mặc dù cô có thể nghe thấy tiếng chuông gọi dịch vụ đang mất kiên nhẫn vang lên phía sau (Ralph thật sự bận bù đầu đêm nay: khoảng ba mươi phút nữa, khi họ đã hạ cánh an toàn ở O’Hare, phi hành đoàn sẽ phải dọn hơn 70 túi nôn).
“Thưa ông, mọi chuyện vẫn ổn chứ?” Cô hỏi, miệng nhoẻn cười. Nụ cười giả tạo, không thật lòng.
“Mọi chuyện vẫn ổn và tốt,” người khách lêu đêu đáp lại. Cô nhìn cuống vé hạng nhất nhét vào lưng ghế và thấy tên anh là Hanscom. “Ổn và tốt, khổ nỗi chuyến bay này hơi rung lắc nhỉ? Tôi đoán chắc tối nay cô vất vả lắm. Nên cô đừng lo cho tôi. Tôi” – Anh nở nụ cười trống rỗng với cô, nụ cười khiến cô nghĩ đến con bù nhìn lật phật giữa cánh đồng tháng Mười trơ trọi. “Tôi vẫn tốt, vẫn ổn.”
“Nhìn anh”
(như đã chết)
“có hơi mệt.”
“Tôi chỉ đang nghĩ về ngày xưa,” anh nói. “Chợt tối nay, tôi nhận ra có những thứ thuộc về ngày xưa, chí ít là với tôi.”
Tiếng chuông gọi dịch vụ lại réo rắt vang lên. “Cô tiếp viên ơi?” Một hành khách lo lắng gọi.
“Vâng, nếu anh thấy mình vẫn ổn…”
“Ban nãy tôi nghĩ về con đập ngày xưa mình xây với một vài người bạn,” Ben Hanscom kể. “Những người bạn đầu tiên tôi có, tôi đồ là vậy. Họ xây đập trong lúc tôi…” Anh khựng lại, giật mình rồi ồ lên cười. Một nụ cười chân thật, gần như vô âu vô lo của một cậu bé, và nó thật chẳng ăn nhập gì với chiếc máy bay đang rung lên giật xuống này. “… khi tôi nhảy vào giữa bọn họ. Theo nghĩa đen đấy nhé. Nói chung, cả đám bọn tôi xây một con đập tanh bành. Đến giờ tôi vẫn nhớ.”
“Cô tiếp viên ơi?”
“Xin lỗi anh – Tôi phải làm nhiệm vụ của mình thôi.”
“Tất nhiên rồi, cô cứ đi đi.”
Cô vội vã rời đi, vui mừng vì thoát khỏi ánh nhìn ấy – ánh nhìn chết chóc, gần như thôi miên.
Ben Hanscom quay đầu nhìn ra cửa sổ. Chớp lóe lên trong đám mây giông to đùng cách cánh phải máy chừng mười lăm cây số. Giữa ánh chớp tắt chớp nháy kia, cụm mây trông như những bộ óc trong suốt khổng lồ ngập tràn những suy nghĩ xấu xa.
Anh lần mò trong túi áo vest nhưng đồng bạc đã không còn ở đó. Chúng chuyển từ túi áo của anh sang túi của Rick Lee. Anh chợt ước giá mà mình giữ lại ít nhất một đồng. Biết đâu nó lại có ích. Tất nhiên, anh có thể ra bất cứ ngân hàng nào – à, ấy là khi anh đang không lởn vởn cách mặt đất khoảng tám ki-lô-mét – và đổi lấy cả nắm đồng bạc, nhưng anh chẳng thể làm nên trò trống gì với những chiếc bánh mì kẹp bằng đồng ăn hại mà ngày nay, Chính phủ vẫn nhất nhất bảo là xu thật ấy. Và để chống lại Người sói, ma cà rồng và tất cả những loại quái vật lộng hành khi đêm xuống, ta cần phải có bạc; bạc thật. Ta cần bạc để ngăn chặn quỷ dữ. Ta cần…
Anh nhắm mắt lại. Xung quanh anh ồn ào tiếng chuông. Máy bay lắc lư, trồi sụt, chòng chành, còn không gian réo rắt tiếng chuông. Chuông ư?
Không… tiếng kẻng.
Là tiếng kẻng, tiếng kẻng đặc biệt ấy, tiếng kẻng đặc biệt nhất trong mọi loại kẻng, tiếng kẻng đám học sinh đợi cả năm trời khi bao nô nức đi học đã hạ nhiệt, và điều này xảy ra khi tuần đầu tiên trôi qua. Tiếng kẻng, âm thanh báo hiệu tự do, đỉnh cao của mọi loại kẻng trường.
An vị trên chiếc ghế ở khoang hạng nhất, lững lờ giữa giông tố ở độ cao hơn tám ki-lô-mét, Ben Hanscom quay mặt ra cửa sổ và chợt anh cảm thấy bức tường thời gian đột nhiên mỏng lại; nhu động ruột tệ hại/ tuyệt vời bắt đầu xảy ra. Anh thầm nhủ: Chúa ơi, mình đang bị quá khứ của bản thân tiêu hóa kìa.
Chớp lại đì đùng lóe lên trên mặt anh, và dù anh không để ý, ngày mới đã sang. Ngày 28 tháng 5 năm 1985 đã chuyển sang ngày 29 tháng 5 trong đêm tối bão bùng vốn là ở phía tây Illinois; dưới kia, bao nhà nông bán mặt cho đất, bán lưng cho trời ngủ say như chết, mơ về cơ hội đời lên hương, và ai mà biết liệu thứ gì sẽ đánh vào nông trại, tầng hầm hay đồng ruộng của họ khi chớp âm ỉ còn sấm đùng đoàng ngoài kia? Chẳng ai biết những thứ này; họ chỉ biết điện chập chờn trong đêm, và không khí như tích điện với cơn bão giật đì đùng.
Nhưng rồi tiếng kẻng vang lên giữa không trung, cách mặt đất chừng tám ki-lô-mét, khi máy bay lướt sang cùng thời tiết quang đãng, khi chuyển động đã nhịp nhàng trở lại tiếng kẻng lại vang lên, tiếng kẻng ngân vang khi Ben Hanscom chìm vào giấc ngủ; và lúc anh thiếp đi, bức tường giữa quá khứ và hiện tại xóa nhòa hoàn toàn, để anh rơi ngược trở về nhiều năm trước, tựa người rơi xuống giếng - có lẽ anh là Người Du hành thời gian qua giếng - với miếng sắt vỡ đeo trên tay, rơi mãi, rơi mãi xuống vùng đất của dị nhân Morlock, nơi những cỗ máy cứ thình thịch trong hầm tối. Anh trôi về năm 1981, 1977, 1969, và đột nhiên anh trở lại đây, trở lại tháng Sáu năm 1958; ánh nắng hạ chói chang tràn ngập mặt đất, và dưới hàng mi đang say giấc, mắt của Ben Hanscom nheo lại sau khi nhận lệnh từ bộ não mơ màng, nhưng thứ anh thấy lúc này không phải là màn đêm phủ khắp phía tây Illinois mà là ánh mặt trời rạng rỡ của một ngày tháng Sáu ở Derry, Maine, hai mươi bảy năm về trước.
Tiếng kẻng.
Tiếng kẻng ấy.
Trường học.
Trường học.
Trường học…
2kết thúc rồi!
Tiếng kẻng vang lên khắp các sảnh trường Derry, một tòa nhà bằng gạch sừng sững trên đường Jackson, và ngay khoảnh khắc ấy, đám trẻ lớp Năm trong lớp của Ben Hanscom bật dậy reo hò – và cô Douglas, thường ngày vốn là giáo viên nghiêm khắc nhất, cũng không buồn la rầy bọn chúng. Có lẽ cô biết đó là điều không tưởng.
“Các trò!” cô nói to khi tiếng reo hò đã chấm dứt. “Cả lớp có thể tập trung lần cuối cho cô không?”
Giờ trong lớp rầm rì tiếng trò chuyện vui tươi cùng vài tiếng ca thán. Cô Douglas cầm sổ liên lạc của cả lớp trong tay.
“Mong là tớ đậu!” Sally Mueller lảnh lót nói với Bev Marsh ngồi dãy bên cạnh. Sally là một cô học trò sáng sủa, xinh xắn và lanh lợi. Bev cũng xinh, nhưng dù chiều hôm ấy là ngày cuối cùng phải đi học, cô bé cũng chẳng tỏ ra lanh lợi chút nào. Cô ủ rũ cúi gằm nhìn xuống đôi giày lười của mình. Có một vết bầm màu vàng đã phai trên một bên má.
“Tớ chẳng quan tâm mình có đậu hay không.” Bev cộc cằn.
Sally hừ mũi, ý nói các quý cô không nên nói năng kiểu ấy, đoạn quay sang Greta Bowie. Có lẽ chỉ vì quá hào hứng khi nghe tiếng kẻng báo hiệu kết thúc năm học nên Sally mới quên mất mà tíu tít với Beverly, Ben nghĩ thầm trong bụng. Sally Mueller và Greta Bowie vốn là tiểu thư cành vàng lá ngọc, nhà ở Tây Broadway, trong khi Bev lại sống trong một căn hộ tập thể xập xệ ở đường Chính Phố Dưới. Đường Chính Phố Dưới và Tây Broadway chỉ cách nhau hai cây số rưỡi, nhưng đến một đứa trẻ như Ben cũng biết khoảng cách thật sự của hai khu này chẳng khác nào khoảng cách từ Trái Đất đến sao Diêm Vương. Chỉ cần nhìn chiếc áo len rẻ tiền của Beverly Marsh, cái váy quá khổ có lẽ rinh từ tiệm đồ cũ của Cứu Thế Quân, đôi giày lười mòn vẹt của cô là đủ để biết hai nơi này cách xa vời vợi. Tuy nhiên, Ben vẫn thích Beverly hơn – thích hơn rất nhiều là đằng khác. Sally và Greta lúc nào cũng xúng xính váy áo, và cậu đoán chắc tháng nào hai cô bạn cũng được đi uốn tóc, tạo sóng hay gì đấy, nhưng với cậu, những điều đó chẳng thay đổi được sự thật căn cơ. Dù hai cô bạn này có điệu đà uốn tóc hằng ngày đi nữa, bọn họ vẫn chỉ là hai đứa oắt con nhìn đời bằng nửa con mắt.
Cậu thấy Beverly tốt tính hơn và xinh hơn rất nhiều , nhưng dù có cho vàng, cậu cũng chẳng có gan để thổ lộ với cô điều đó. Song thỉnh thoảng, khi mùa đông tràn về, khi ánh sáng bên ngoài vàng vọt khiến ta buồn ngủ như con mèo cuộn tròn trên ghế sô pha, khi cô Douglas thao thao bất tuyệt về môn Toán (cách thực hiện phép chia dài, cách tìm mẫu số chung của hai phân số để làm tính cộng) hoặc đọc câu hỏi từ Những cây cầu phát sáng hay bàn luận về trầm tích thiếc ở Paraguay, vào những ngày tưởng chừng buổi học sẽ kéo dài lê thê mãi, mà thật ra không kết thúc cũng chẳng sao, vì đằng nào thế giới ngoài kia cũng nhơ nhớp tuyết tan… Vào những ngày ấy, Ben thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn khuôn mặt nghiêng nghiêng của Beverly, một cách lén lút vụng trộm, và trái tim cậu đau đến nhói lòng nhưng bằng cách nào đó cũng vì thế mà sáng bừng lên. Cậu đoán cậu phải lòng cô mất rồi, hoặc đã đem lòng thương cô, và đó chính là lý do tại sao cậu luôn nghĩ đến Beverly khi bài hát “Thiên thần Trái Đất” của Penguins vang lên trên trên ra-đi-ô – “người anh yêu thương hỡi/ phút giây nào cũng yêu em…” Phải, nghe thật ngớ ngẩn, nhưng cũng chẳng sao, và sến đến chảy nước, nhưng cũng chẳng sao, vì đằng nào cậu cũng chẳng bao giờ thổ lộ. Cậu cho rằng những thằng phì nộn có lẽ chỉ được phép thầm thương trộm nhớ những cô bạn xinh xắn. Nếu cậu kể với bất cứ ai về tình cảm của mình (mà thật ra cậu cũng chẳng có bạn bè gì để tâm sự), người đó hẳn sẽ cười lăn cười bò đến khi truỵ cả tim cho mà xem. Và giả như cậu bày tỏ tình cảm của mình với Beverly, hẳn cô sẽ phá lên cười (tệ) hoặc nôn ọe vì kinh tởm (tệ hơn).
“Bây giờ cô gọi tên ai thì người đó bước lên nhé. Paul Andersen… Carla Bordeaux… Greta Bowie… Calvin Clark… Cissy Clark…”
Cô Douglas gọi đến đâu, các học sinh lớp Năm của cô lần lượt tiến về phía bảng (ngoại trừ cặp sinh đôi nhà Clark, hai anh em nhà này đi đâu cũng có nhau, tay trong tay, giống nhau như tạc, không thể phân biệt ngoại trừ độ dài mái tóc vàng óng ánh sắc trắng và bộ đồ: cô em mang váy còn cậu anh mặc quần jean), nhận sổ liên lạc màu vàng sẫm với hình quốc kỳ và Tuyên ngôn trung thành ở mặt trước, Kinh Lạy Cha ở mặt sau, đoạn khoan thai bước ra khỏi lớp… rồi sau đó chạy huỳnh huỵch xuống sảnh, nơi cánh cửa chính khổng lồ đã mở toang. Và chúng chạy ào vào mùa hạ, biến mất, đứa phóng xe đạp, đứa nhảy chân sáo, đứa làm bộ cưỡi ngựa, lấy tay đập vào hai bên đùi để giả tiếng vó, đứa lại quàng vai bá cổ nhau, ca vang “Mắt tôi đã có diễm phúc chứng kiến ngôi trường bị thiêu rụi” nhái theo giai điệu “Thánh chiến ca Cộng hoà”.
Tuyên ngôn trung thành (Pledge of Allegiance) được viết vào năm 1892 bởi bộ trưởng Francis Bellamy, là một biểu hiện của lòng trung thành đối với lá cờ của Mỹ và bản thân Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Bản gốc có đoạn như sau: “Tôi cam kết trung thành với Quốc kỳ của tôi và nước Cộng hòa, mà nó là đại diện cho một quốc gia không thể chia cắt, với quyền tự do và công lý cho tất cả mọi người.” Bằng cách không nêu rõ lá cờ nào hoặc lòng trung thành nào đang được cam kết, Bellamy gợi ý rằng lời cam kết của ông có thể được sử dụng bởi bất kỳ quốc gia nào, không chỉ riêng nước Mỹ.
Kinh Lạy Cha (The Lord’s Prayer) là một bài kinh và là lời cầu nguyện được biết đến nhiều nhất trong Ki-tô giáo.
“Marcia Fadden… Frank Frick… Ben Hancom…”
Cậu đứng dậy, liếc trộm Beverly Marsh lần cuối trước khi vào hè (cậu cứ tưởng thế), rồi đi thẳng đến bàn của cô Douglas, một cậu bé mười một tuổi với cái mông to bè ngang ngửa kích thước của New Mexico – cặp mông ấy ních vào chiếc quần jean xanh mới cứng, trông hết sức không thoải mái, những chiếc đinh tán bằng đồng ánh lên những tia sáng nhỏ tia sáng nhỏ, khi hai bắp đùi của cậu cọ vào nhau phát ra tiếng sột soạt sột soạt . Hông của cậu lắc qua lắc lại như con gái. Bụng của cậu phộ từ bên này đánh sang bên kia. Hôm nay thời tiết ấm áp nhưng cậu vẫn mặc áo nỉ rộng thùng thình. Mà thật ra, cậu mặc áo nỉ thùng thình hầu như mọi lúc vì cậu vô cùng xấu hổ về bộ ngực, cậu cảm thấy như thế ngay từ ngày đầu tiên trở lại trường sau kỳ nghỉ Giáng sinh, khi cậu mặc một chiếc áo thun Ivy League mẹ tặng, và Huggins Ợ Hơi, một thằng lớp Sáu, bèn rú lên: “Ê, chúng mày! Xem ông già Noel tặng thằng Ben Hanscom cái gì vào Giáng sinh kìa! Một cặp bưởi cực to!” Ợ Hơi đã cười muốn nôn ruột trước sự nhanh mồm nhanh miệng của bản thân. Đám bạn xung quanh cũng cười rộ – trong đó có cả con gái. Nếu trước mặt cậu lúc ấy có nứt ra một lỗ nẻ dẫn xuống âm phủ, hẳn Ben sẽ nhảy xuống ngay tắp lự… hoặc thậm chí cậu còn lầm bầm nói lời biết ơn.
Kể từ hôm đó, ngày nào cậu cũng mặc áo nỉ. Cậu có tổng cộng bốn cái – màu nâu, màu xanh lá và hai cái màu xanh dương, cái nào cái nấy rộng thùng thình. Đây là một trong số ít những điều hiếm hoi cậu làm trái ý mẹ mình, một trong những lần hiếm hoi cậu thấy mình phải vạch rõ ranh giới, suốt thời ấu thơ gần như “mẹ đặt đâu con ngồi đấy” của cậu. Cậu tự nhủ nếu hôm ấy cậu trông thấy Beverly Marsh khúc khích cười nhạo mình, chắc cậu cũng có đủ lý do để chết mất.
“Cô rất vui khi được dạy em năm nay, Benjamin,” cô Douglas nói khi đưa cậu sổ liên lạc.
“Em cảm ơn cô, thưa cô Douglas.”
Một giọng eo éo giả lả chế giễu vang lên từ cuối lớp nhái lại lời cậu: “Cảm ơn cô, cô Đu lát.”
Còn ai trồng khoai đất này ngoài Henry Bowers. Henry học chung lớp Năm với Ben chứ không học lớp Sáu cùng hội bạn Huggins Ợ Hơi và Victor Criss vì hắn ta bị ở lại lớp. Ben nghĩ có khi Bowers lại đúp lần nữa cho mà xem. Từ nãy đến giờ, cô Douglas chưa gọi tên hắn để phát phiếu báo điểm, mà như thế nghĩa là chấm hết. Ben thấy nôn nao trong lòng, vì nếu Henry thực sự phải ở lại lớp, Ben cũng chịu một phần trách nhiệm… và Henry biết thừa điều đó.
Một tuần trước kỳ kiểm tra cuối năm, cô Douglas sắp xếp lại chỗ ngồi ngẫu nhiên cho cả lớp bằng cách bốc thăm tên của các học sinh từ chiếc mũ để trên bàn. Trời xui đất khiến thế nào mà Ben lại ngồi kế Henry Bowers ở dãy cuối. Lúc làm bài thi, thói quen của Ben là cuộn tròn cánh tay quanh tờ giấy thi và cúi gằm người, cảm thấy có chút gì đó dễ chịu khi áp bụng vào bàn, thỉnh thoảng lại liếm chiếc bút chì Be-Bop để có thêm cảm hứng.
Hôm thứ Ba, lúc đang làm bài thi môn Toán, một tiếng thì thầm vang lên từ bàn bên. Tiếng thì thầm rất trầm, rất khẽ, rất chuyên nghiệp, như tiếng của một tay lừa lọc lão làng đang truyền tin trong sân tập thể dục của nhà tù: “Cho tao chép coi.”
Ben liếc sang trái và nhìn thẳng vào đôi mắt đen đầy thịnh nộ của Henry Bowers. So với một thằng nhóc mười hai tuổi, Henry đô con hơn hẳn. Tay chân của hắn vạm vỡ nhờ làm nông. Bố hắn, một người khét tiếng điên rồ, có một mảnh ruộng ở cuối đường Kansas, gần ranh giới thị trấn Newport, và Henry phải è cổ hơn ba mươi tiếng một tuần cày cuốc, nhổ cỏ, trồng cây, đào đá, bổ củi, gặt hái nếu có thứ để thu hoạch.
Tóc của Henry được xén bằng trên đỉnh đầu khiến hắn ta trông có vẻ cau có, ngắn đến độ lộ cả phần da đầu màu trắng. Hắn vuốt keo phần tóc phía trước bằng tuýp kem luôn nhét trong túi quần jean, vì thế phần tóc trước trán hắn lúc nào cũng lỉa chỉa như răng máy cắt cỏ. Quanh hắn luôn thum thủm mùi mồ hôi và mùi kẹo cao su Juicy Fruit. Đi học, hắn mặc một chiếc áo khoác dành cho dân lái mô tô màu hồng có hình con chim ưng sau lưng. Lần nọ, một đứa nhóc lớp Bốn chuốc vạ vào thân khi cười nhạo cái áo ấy. Henry lao vào cậu nhóc tì Umber nhanh như cắt, đấm cho cậu nhóc hai cú bằng nắm tay còn lấm bẩn từ công việc đồng áng. Đứa nhóc mất ba chiếc răng ở đằng trước. Henry được nghỉ học hai tuần. Ben cầu trời với một niềm hy vọng cháy bỏng dù mỏng manh của kẻ thấp cổ bé họng chuyên bị đè đầu cưỡi cổ, rằng Henry sẽ bị đuổi học chứ không chỉ dừng lại ở việc đình chỉ. Tiếc là đời không như mơ. Hạnh phúc ngắn chẳng tày gang. Đình chỉ kết thúc, Henry lại khệnh khạng bước vào sân trường, hằm hè phô trương trong chiếc áo khoác màu hồng, mái tóc vuốt cả đống keo đến độ tóc như muốn nhảy ra khỏi hộp sọ. Hai mắt vẫn còn vết bầm tím và sưng vù do bị ông bố điên rồ của mình đập vì tội “đánh nhau trong sân trường”. Vết bầm rồi cũng mờ đi, nhưng với những đứa trẻ phải cắn răng sống chung với Henry ở Derry, bài học vẫn còn đó. Theo những gì Ben thấy, kể từ ngày ấy, không ai dám hé răng nói nửa lời về chiếc áo khoác mô tô màu hồng với hình con chim ưng đằng sau của Henry.
Khi hắn thì thầm gầm gừ bắt Ben cho hắn chép bài, có ba suy nghĩ đã phóng vụt qua đầu cậu trong vài giây ngắn ngủi – cơ thể cậu phì lũ ra sao thì bù lại, những suy nghĩ ấy cũng thoăn thoắt và nhanh lẹ chừng ấy. Đầu tiên là nếu cô Douglas bắt quả tang Henry chép bài cậu, cả hai chắc chắn sẽ xơi trứng ngỗng trong bài kiểm tra. Thứ hai là nếu không để Henry chép, thể nào sau giờ học, hắn cũng tóm cổ cậu và tặng cậu cú đấm đúp huyền thoại kia, có lẽ lúc đó Huggins sẽ giữ một tay cậu còn Criss giữ tay còn lại.
Đây là những suy nghĩ ngây ngô của một đứa trẻ, và chẳng có gì đáng ngạc nhiên vì suy cho cùng cậu vẫn còn bé. Tuy nhiên, suy nghĩ thứ ba, cũng là suy nghĩ cuối cùng, lại tinh tế hơn nhiều – chẳng khác gì người lớn.
Hắn có thể tóm được mình, chắc chắn là thế. Nhưng vẫn còn khả năng mình né được hắn trong tuần cuối cùng của năm học. Mình nghĩ nếu gắng hết sức thì mình sẽ làm được. Và mình đoán hết hè là hắn lại quên ngay ấy mà. Phải rồi. Đầu óc thằng này bã đậu lắm. Nếu trượt bài kiểm tra, có thể hắn sẽ lại đúp. Và nếu hắn đúp, mình sẽ lên lớp trước. Mình sẽ không phải chết đi trong cùng một phòng với hắn nữa… Mình sẽ lên cấp hai trước hắn. Mình… mình sẽ không phải chịu khổ sở nữa.
“Cho tao chép mau,” Henry gầm gừ lần nữa. Đôi mắt đen của hắn long lên như ra lệnh.
Ben lắc đầu, đoạn khum tay quanh tờ giấy của mình chặt hơn.
“Tao sẽ thịt mày, thằng béo,” Henry lầm bầm, lần này to hơn một chút. Bài làm của hắn đến giờ vẫn là một tờ giấy trắng, trừ chỗ ghi tên. Hắn như ngồi trên đống lửa. Nếu trượt kỳ thi và đúp một lần nữa, bố hắn sẽ đập hắn một trận rằng mỗi lẫn lộn. “Cho tao chép bài, nếu không tao sẽ cho mày biết thế nào là lễ độ.”
Ben lại lắc đầu, hai má run lên bần bật. Cậu sợ hãi nhưng cũng rất quyết tâm. Cậu nhận ra lần đầu tiên trong đời cậu chủ động đi theo quyết định mình vạch ra trong đầu, điều này cũng khiến cậu thất kinh, dù chẳng biết lý do cụ thể ra sao - phải bao nhiêu năm sau, cậu mới ngộ ra điều khiến cậu sợ hơn cả nỗi sợ dành cho Henry chính là sự máu lạnh trong tính toán, cân nhắc thiệt hơn đầy cẩn trọng và thực dụng cùng những dấu hiệu của tính cách người lớn đang dần thành hình. Henry thì cậu còn có thể né. Nhưng không sớm thì muộn, cậu sẽ trở thành người lớn, và lúc ấy thì có khi cậu sẽ nghĩ như vậy gần như mọi lúc.
“Ai đó đang trao đổi phía sau lớp đúng không? Cô Douglas lên tiếng, đầy nghiêm khắc. “Nếu đúng là thế, cô muốn trò đó dừng ngay lập tức .”
Cả lớp im phăng phắc suốt mười phút sau, ai nấy cắm cúi, hí hoáy trên tờ bài thi có mùi mực in roneo tím, và rồi lời hằm hè của Henry lại phát ra từ dãy bên kia, thật nhỏ, chỉ vừa đủ nghe, chắc nịch, lạnh người: “Mày chết với tao, thằng béo.”
3Ben nhận sổ liên lạc và đánh bài chuồn, lòng khấp khởi biết ơn những vị thần linh đã phù hộ nhóc tì mười một tuổi béo ú như cậu, may sao nhờ thứ tự bảng chữ cái mà Henry Bowers không được phép ra khỏi lớp trước để động thủ với Ben bên ngoài.
Cậu không chạy xuống hàng lang như những đứa trẻ khác. Cậu chạy được , chạy rất nhanh so với những cậu bạn to béo ngang mình, nhưng cậu biết rõ lúc chạy nhìn mình buồn cười ra sao. Thế là cậu sải bước thật nhanh, bước ra từ gian sảnh phả mùi sách mát lạnh vào ánh mặt trời tháng Sáu rực rỡ. Cậu dừng lại, ngẩng đầu tắm trong ánh nắng ấy trong chốc lát, lâng lâng dưới sự ấm áp của nó và sự tự do. Cả triệu năm nữa mới đến tháng Chín. Cuốn lịch có thể nói khác, nhưng thông tin trên lịch sai rồi. Mùa hè dài hơn hẳn tất cả những ngày trong kỳ nghỉ cộng lại, và mùa hè là của cậu. Cậu cảm thấy mình cao như bể chứa nước Standpipe và lớn bằng cả thị trấn.
Bỗng dưng có ai đó xô cậu – xô rất mạnh. Những suy nghĩ dễ chịu về mùa hè đang trải trước mắt bị gạt bay khỏi đầu óc Ben khi cậu loạng choạng giữ thăng bằng bên mé bậc đá. May sao cậu chộp được rào sắt, chứ không cậu đã ngã lăn quay rồi.
“Tránh ra cho tao đi, đồ bị thịt.” Hóa ra đó là Victor Criss, với mái tóc chải ngược về sau theo kiểu Elvis Presley, bóng nhờn nhờ Brylcreem. Hắn bước xuống bậc thang và đi về phía cổng chính, tay đút túi quần jean, cổ áo dựng ngược lên, giày bốt gắn đinh dưới để kéo lê lộp cộp xuống đường.
Tim vẫn chưa thôi đập rộn vì sợ, Ben trông thấy bóng Huggins Ợ Hơi bên kia đường, phì phèo điếu thuốc. Hắn đưa tay chào Victor rồi đưa cho cậu bạn của mình điếu thuốc khi đến nơi. Victor hít một hơi, đoạn đưa lại cho Ợ Hơi, rồi chỉ về phía Ben, lúc này đang đứng giữa cầu thang. Hắn nói gì đó và cả hai thằng phá lên cười nắc nẻ. Mặt Ben đỏ lựng. Lúc nào chúng cũng ăn trên ngồi trốc thiên hạ. Sao định mệnh chỉ giỏi trêu ngươi thế nhỉ.
“Cậu thích nơi này đến nỗi quyết định đứng đây cả ngày à?” Một tiếng nói vang lên bên cạnh.
Ben quay lại, khuôn mặt được dịp đỏ thêm. Beverly Marsh đang đứng đó, mái tóc nâu đỏ như đám mây nhẹ nhàng ôm lấy đầu cô và lững lờ trên vai, đôi mắt cô lấp lánh sắc xanh xám. Chiếc áo len cô đang mặc được xắn lên đến khuỷu tay, sờn quanh cổ và thùng thình chẳng kém áo nỉ của Ben. Vì thùng thình quá nên Ben không biết cô đã có ngực hay chưa, nhưng cậu chẳng để tâm; khi ta đem lòng mến ai đó lúc ta chưa dậy thì, tình cảm ấy dạt dào và mạnh mẽ đến độ ta chẳng cưỡng nổi mệnh lệnh hết sức chân phương ấy, mà Ben cũng chẳng định làm thế cho nhọc công. Cậu để cảm xúc dẫn lối. Cậu vừa thấy ngu ngốc vừa thấy sung sướng, ngượng ngùng tái tê, cái ngượng mà cả đời chưa một lần cậu nếm trải… nhưng cậu vẫn thấy mình may mắn vô cùng. Bao cảm xúc cứ cuộn xoáy thành thứ tình cảm khó tả khiến cậu vừa chống chếnh vừa hạnh phúc.
“Không” cậu khàn giọng. “Đâu có.” Cậu nở nụ cười rộng đến mang tai. Cậu biết mình hẳn trông đang ngớ ngẩn lắm, nhưng cậu không sao kìm được.
“Thế thì tốt. Vì hết năm học rồi. Cảm ơn Chúa.”
“Chúc…” Giọng cậu lại khàn đi. Cậu phải đằng hắng, và hai má càng thêm sắc đỏ. “Chúc cậu có một kỳ nghỉ hè thật vui, Beverly.”
“Cậu cũng thế nhé, Ben. Năm sau gặp.”
Cô rảo bước xuống bậc thang và Ben chiêm ngưỡng mọi chi tiết với đôi mắt của một kẻ tương tự: chiếc váy ca rô sáng màu, mái tóc đỏ tung tẩy phía sau áo len, làn da trắng sứ, một vết cắt nhỏ đang lành phía sau bắp chân, và (chẳng rõ vì lý do gì mà chi tiết cuối cùng này khiến làn sóng cảm xúc cuốn phăng lấy cậu, làm cậu phải chộp lấy rào để đứng cho vững; cảm xúc ấy to lớn, khó tả, rất nhanh, có lẽ ấy là tín hiệu manh nha chút sắc dục mà cơ thể cậu, nơi tuyến nội tiết vẫn ngủ mà không mơ, chưa biết lý giải, nhưng chói lóa như chớp mùa hè) chiếc lắc ánh vàng cô đeo quanh cổ chân phải, ngay trên đôi giày lười, lấp lánh phản chiếu những tia nắng mặt trời.
Cậu thốt lên một âm thanh không rõ nghĩa. Run rẩy bước xuống cầu thang như ông già lụ khụ, cậu đứng lại, dõi theo bóng cô, đến tận lúc cô rẽ trái rồi biến mất phía bên kia bờ rào cao cao ngăn cách sân trường và vỉa hè.
4Cậu chỉ đứng đó một lát, và rồi, trong lúc bạn bè đồng trang lứa vẫn lũ lượt đi ngang qua, tụm năm tụm ba hò hét, chạy toán loạn, cậu sực nhớ đến Henry Bowers nên ba chân bốn cẳng vòng qua tòa nhà. Đi ngang qua sân chơi của đám con nít, cậu lướt ngón tay qua xích đu làm chúng đung đưa ken két và bước qua bập bênh. Cậu ra theo hướng cổng nhỏ dẫn vào đường Charter rồi đi thẳng về phía bên trái, không đánh mắt nhìn về phía đống đá mà cứ cuối tuần cậu lại đến chơi đùa suốt chín tháng qua. Nhét sổ liên lạc vào túi sau, cậu bắt đầu huýt sáo. Dù chân mang một đôi Keds nhưng theo cậu cảm nhận, cậu đi qua tám lốc nhà mà như bay, chân không chạm vỉa hè tí nào.
Độ quá trưa thì tan trường, nhưng ít nhất phải đến 6 giờ tối thì mẹ cậu mới về nhà, vì vào thứ Sáu, sau giờ làm, bà sẽ đến thẳng Shop ‘n Save để mua đồ. Thế là cậu có cả ngày thỏa sức vẫy vùng.
Cậu đến công viên McCarron và ngồi dưới tán cây một lúc, chẳng làm gì, chỉ thỉnh thoảng thì thầm thật khẽ “Mình yêu cậu, Beverly Marsh”, và mỗi lần nói là một lần cậu thấy đầu thêm lâng lâng, hồn thêm bay bổng. Lúc nọ, khi một nhóm cậu bé đi ngang qua công viên và chia đội để chơi bóng chày, cậu thì thầm cái tên “Beverly Hanscom” những hai lần, rồi sau đó vùi mặt vào cỏ cho đến khi đôi má đỏ như gấc bớt hầm hập.
Được một lúc, cậu đứng dậy, băng qua công viên đến Đại lộ Costello. Đi thêm năm dãy nhà nữa, cậu sẽ đến Thư viện công cộng, nơi cậu định vào cho xong. Sắp ra khỏi công viên thì một gã lớp Sáu tên là Peter Gordon trông thấy cậu và hét lớn: “Ê, thằng béo! Chơi không? Bọn tao đang cần hậu vệ cánh phải!” Và rồi cả đám cười phá lên như được mùa. Ben lủi đi nhanh nhất có thể, cổ thụt xuống cổ áo như con rùa rụt vào mai.
Nhưng suy đi tính lại, cậu vẫn thấy số mình còn phước chán; nếu là ngày bình thường, đám con trai đã hò nhau đuổi theo cậu, có khi chỉ để chửi rủa cậu, có khi để vật cậu xuống đất xem cậu có khóc không. Nhưng hôm nay, bọn chúng đang mải mê vào việc bắt đầu trận đấu, xem khi quăng gậy đánh bóng thì nên dùng tay hay chơi thẻ bài để quyết định chọn cầu thủ trước, rồi sau đó xem đội nào giành được quyền đánh bóng, vân vân và mây mây. Ben vui vẻ để cả đám lại với những chộn rộn trước trận đấu bóng đầu tiên của mùa hè rồi tiếp tục đi thẳng.
Đi được ba dãy nhà về phía Costello, cậu nhác thấy một thứ thú vị, thậm chí có khi còn cho cậu chút tiền tiêu vặt, dưới hàng rào trước nhà ai đó. Ánh thủy tinh lóe qua chiếc túi giấy cũ bị rách. Ben dùng chân kéo túi ra vỉa hè. Xem ra cậu ở hiền gặp lành rồi. Bên trong có bốn chai bia và bốn chai sô-đa lớn. Mỗi chai sô-đa lớn bán được năm xu, chai bia Rheingold có giá hai xu. Hai mươi tám xu ngay dưới hàng rào, chực chờ một đứa nhóc đến mang đi. Đứa nhóc số đỏ nào đó.
“Mình chứ ai,” Ben vui vẻ reo lên, không hay biết điều gì đang đợi cậu lát nữa. Cậu bắt đầu cất bước, cẩn thận giữ đáy túi để nó không bục ra. Cậu bước vào chợ Đại lộ Costello cách đó một dãy nhà. Cậu đổi chai lấy tiền và đổi gần hết tiền lấy kẹo.
Đứng ở quầy kẹo, cậu chỉ trỏ, thích mê tiếng cửa kéo xành xạch khi chủ tiệm mở cánh cửa dọc theo rãnh có gắn vòng bi. Cậu nhận được năm que kẹo cam thảo màu đỏ, mười viên kẹo cứng hình thùng nước ngọt (một xu đổi được hai viên), một bọc kẹo viên (mỗi hàng có năm viên, mỗi bọc có năm hàng, cứ bóc ra là ăn được), một túi Likem Ade, một túi kẹo Pez cho súng bắn kẹo Pez-Gun ở nhà.
Ben bước ra ngoài với túi giấy nhỏ đựng kẹo trong tay, và bốn xu còn lại trong túi trước bên phải của chiếc quần jean mới. Đưa mắt nhìn túi giấy màu nâu ê hề kẹo ngọt, một suy nghĩ bất chợt hiện lên trong đầu cậu
(mày cứ tham ăn tục uống thế đi, đừng mơ lọt vào mắt Beverly Marsh)
nhưng suy nghĩ ấy thật đáng ghét nên cậu gạt nó ra. Chẳng nhọc công lắm; suy nghĩ ấy quen bị hắt hủi rồi.
Nếu ai đó hỏi cậu, “Ben này, cậu có cô đơn không?”, hẳn cậu sẽ nhìn người đó với ánh mắt đầy ngạc nhiên. Cậu chưa bao giờ mảy may nghĩ đến điều đó. Cậu không có bạn, nhưng cậu có sách và có ước mơ, cậu có các mô hình Revell; cậu có một bộ đồ chơi gỗ Lincoln Logs khổng lồ và dùng chúng xây đủ thứ trên trời dưới biển. Nhiều lần, mẹ cậu đã phải thốt lên rằng những ngôi nhà mà Ben lắp ráp bằng Lincoln Logs trông còn đẹp hơn một số mẫu thiết kế sẵn. Cậu còn có một bộ lắp ráp Erector Set. Cậu đang mong được tặng một bộ Super Set vào dịp sinh nhật tháng Mười. Nếu có bộ đó, cậu sẽ lắp được một chiếc đồng hồ chạy được và xe ô tô với bộ truyền động bên trong hẳn hoi. Cô đơn ư? Có khi cậu sẽ vụng về hỏi lại. Hả? Là sao cơ?
Một đứa trẻ mù bẩm sinh không biết mình bị mù cho đến khi có ai đó cho nó biết sự thật. Nhưng đến tận lúc ấy, đứa bé chỉ biết khái niệm lý thuyết về mù lòa; chỉ có những ai nay mù từng sáng mắt mới thật sự thấm thía. Ben Hanscom chẳng bao giờ cảm thấy cô đơn vì xưa nay, cậu chưa từng vui vầy cùng bè bạn. Nếu tình trạng này mới diễn ra, hoặc cục bộ hơn thì cậu còn hiểu, đằng này, cô đơn bao trùm lấy cuộc đời cậu và phủ bóng lấy cậu. Nó cứ lừng lững ở đó, như ngón cái có khớp cực dẻo, hoặc phần răng cửa nhọn nhìn rất buồn cười của cậu, cứ khi nào căng thẳng cậu lại đưa lưỡi đánh qua đánh lại phần răng nhọn ấy.
Beverly là giấc mộng ngọt ngào; còn kẹo là hiện thực ngọt ngào. Kẹo mới là bạn của cậu. Vì thế, cậu bảo suy nghĩ lạ lùng kia biến đi chỗ khác, và do vậy, nó lặng thầm biến mất, không phá bĩnh gì nữa. Trên đoạn đường từ chợ Đại lộ Costello đến thư viện, cậu ngấu nghiến hết sạch kẹo trong túi. Ban đầu, cậu thực sự định để dành kẹo Pez để xem ti vi vào buổi tối hôm đó – cậu rất thích nhét kẹo vào khẩu súng Pez-Gun bằng nhựa con con, từng viên một, thích nghe tiếng lò xo bên trong bật tanh tách, và thích nhất là bắn kẹo vào miệng, như một thằng nhóc tự kết liễu đời mình bằng đường. Tối nay có phim Whirlgbirds , với Kenneth Tobey trong vai chàng phi công trực thăng can trường và Dragnet , với nội dung là các vụ án có thật nhưng nhân vật được đổi tên để bảo vệ người vô tội, và cả Cảnh sát Cao tốc , bộ phim truyền hình cảnh sát ưa thích nhất mọi thời đại của cậu, với sự góp mặt của Broderick Crawford trong vai cảnh sát cao tốc Dan Matthews. Broderick Crawford là anh hùng trong lòng Ben. Broderick Crawford nhanh như cắt, Broderick Crawford xấu tính, BroderickCrawford chẳng để ai trèo lên đầu mình… và điều hay ho nhất là Broderick Crawford béo ú.
Cậu bước đến góc đường Costello và Kansas, đoạn băng qua Thư viện công cộng. Thư viện thật ra có hai tòa nhà - mặt trước là một tòa nhà bằng đá đã cũ, xây bằng tiền của một ông lớn trong ngành gỗ vào năm 1890, đằng sau là một tòa nhà bằng đá sa thạch mới xây, thấp hơn, được dùng làm thư viện trẻ em. Thư viện người lớn phía trước và thư viện trẻ em phía sau được nối với nhau bằng một hành lang bằng kính.
Gần trung tâm thị trấn, đường Kansas là đường một chiều, nên Ben chỉ nhìn về một hướng - phía bên phải – lúc băng qua đường. Nếu nhìn sang bên trái, hẳn mặt cậu bé sẽ không còn một giọt máu. Bởi đứng dưới bóng cây sồi cổ thụ to lớn trong khu vườn Nhà Cộng đồng Derry, cách đó một dãy nhà là Huggins Ợ Hơi, Victor Criss và Henry Bowers.
5“Tóm nó thôi, Hank.” Victor háo hức muốn nghẹt thở.
Henry dõi theo thằng oắt con béo ú lạch bạch bước qua đường, bụng đung đưa, phần đuôi tóc chia ra ở sau đầu lắc tới lắc lui như lò xo cầu vồng chết tiệt, mông nó ngọ nguậy trong chiếc quần jean mới như đứa con gái. Hắn ước tính khoảng cách giữa ba người bọn chúng ở khu vườn Nhà Cộng đồng Derry và Hanscom, giữa Hanscom với thư viện an toàn kia. Hắn nghĩ bọn chúng có thể tóm cổ trước khi thằng nhãi vào trong, nhưng biết đâu Hanscom lại hét toáng lên thì sao. Ai chứ thằng oắt con ấy thì dám lắm. Nếu nó hô hoán, người lớn có thể can dự vào, mà Henry thì không muốn ai chõ mũi. Bà cô Douglas chết tiệt đã thông báo với Henry rằng hắn trượt cả hai môn tiếng Anh và Toán. Bà giáo nói sẽ cho hắn lên lớp, đổi lại, hắn phải học bốn tuần lớp phụ đạo hè. Henry thà ở lại lớp còn hơn. Nếu hắn ở lại lớp, bố sẽ đập hắn một trận. Nếu Henry phải đi học bốn tiếng một ngày suốt bốn tuần trong mùa bận rộn nhất của nhà nông thể nào bố cũng sẽ đập hắn cả chục lần, khéo còn nhiều hơn. Hắn chỉ đành cắn răng chịu đựng viễn cảnh tối tăm này vì hắn định bụng trút tất cả tức tối lên thằng bị thịt kia vào chiều nay.
Tính cả vốn lẫn lãi.
“Ờ, đi thôi,” Ợ Hơi đồng tình.
“Đợi đến lúc nó ra ngoài đã.”
Sau khi nhìn thấy Ben mở cánh cửa đôi to lớn, bước vào trong, bọn chúng ngồi xuống phì phèo thuốc lá, kể chuyện cười về mấy ông bán dạo và đợi thằng nhóc trở ra.
Henry biết chẳng chóng thì chày, nó sẽ thò mặt ra. Và khi nó xuất hiện, Henry sẽ cho nó thấy hối hận vì đã sinh ra đời.
6Ben thích mê thư viện.
Cậu thích không gian lúc nào cũng mát lạnh ở nơi đây, ngay cả vào những ngày hè nóng như đổ lửa; cậu thích sự tĩnh lặng rì rầm, thỉnh thoảng vang lên tiếng thủ thỉ, tiếng thủ thư đóng dấu vào sách và thẻ, tiếng lật giấy lạo xạo trong Phòng Báo chí, nơi các cụ ông tụ tập đọc những tờ báo kết thành chuỗi dài. Cậu thích ánh sáng nơi đây, nghiêng nghiêng chiếu qua những khung cửa sổ vừa cao vừa hẹp khi chiều buông hoặc tỏa xuống ấm áp từ những ngọn đèn tròn treo bằng xích vào những đêm đông trong lúc gió rít bên ngoài. Cậu thích mùi sách – thứ mùi cay cay, có gì đó thật tuyệt diệu. Thỉnh thoảng, cậu lại bước qua kệ sách người lớn, chiêm ngưỡng hàng nghìn cuốn sách, thả hồn tưởng tượng một thế giới của bao kiếp người trong từng cuốn, thong thả như cách cậu tản bộ dọc con phố nhà mình dưới chạng vạng bảng lảng khói vào một buổi chiều cuối tháng Mười, mặt trời như dải cam nằm xa xa phía chân trời, tưởng tượng những mảnh đời phía sau khung cửa sổ – người cười đùa, người cãi vã, người cắm hoa, cho con bú, cho chó mèo ăn, hoặc vừa ăn vừa xem vô tuyến. Cậu thích cách hành lang bằng kính nối tòa nhà cũ với thư viện trẻ em lúc nào cũng nóng, ngay cả vào mùa đông, trừ khi có vài ngày âm u mây mù. Cô Starrett, thủ thư trưởng của thư viện trẻ em, nói với cậu nguyên nhân là do một hiện tượng có tên là hiệu ứng nhà kính. Ben thấy ý tưởng này thật hay ho. Nhiều năm sau, cậu sẽ xây dựng trung tâm truyền thông BBC - một kiến trúc được bàn tán rôm rả ở London, và người ta có thể bàn ra tán vào suốt nghìn năm mà chẳng ai biết (ngoại trừ bản thân Ben) rằng trung tâm truyền thông ấy chẳng là gì ngoài hành lang bằng kính của Thư viện công cộng Derry được dựng thẳng đứng.
Cậu cũng thích thư viện trẻ em, mặc dù nó không sở hữu nét duyên dáng vô hình tướng mà cậu cảm nhận được ở thư viện cũ, với những bóng đèn tròn và cầu thang sắt uốn lượn, quá hẹp nên hai người không thể cùng đi mà một người phải lùi lại. Thư viện trẻ em sáng sủa và đầy nắng, hơi ồn ào dù khắp nơi để bảng CHÚNG TA HÃY CÙNG GIỮ YÊN LẶNG NHÉ!. Hầu hết tiếng ồn thường vang lên ở Khu Gấu Pooh, nơi đám con nít hay đến để xem sách tranh. Hôm nay, Ben bước vào đúng lúc giờ kể chuyện vừa bắt đầu. Cô Davies, thủ thư trẻ xinh đẹp, đang kể câu chuyện “Ba chú dê Gruff”.
“Kẻ nào bước đi kèn kẹt trên cầu của ta?”
Cô Davies kể với giọng gầm gừ trầm thấp, bắt chước giọng của con quỷ trong câu chuyện. Vài đứa trẻ che miệng khúc khích cười, nhưng đa số dõi theo cô với vẻ mặt nghiêm trang, hòa mình vào giọng con quỷ như chấp nhận tiếng nói trong giấc mơ của mình, và đôi mắt nghiêm túc của chúng lấp lánh sự tò mò mà những câu chuyện cổ tích khơi gợi liệu con quỷ có bị đánh bại… hay nó sẽ ăn thịt đàn dê?
Những tấm áp phích rực rỡ được dán khắp nơi. Chỗ này vẽ hình một cậu bé ngoan, chải răng cho đến khi miệng đầy bọt như mõm con chó điên; chỗ kia vẽ hình một cậu bé hư đang hút thuốc lá (bên dưới đề KHI LỚN, TỚ MUỐN BỊ BỆNH NẶNG NHƯ BỐ TỚ); chỗ khác lại là bức ảnh chụp hàng tỷ chấm sáng le lói trong màn đêm. Ở dưới đề:
MỘT Ý TƯỞNG THẮP SÁNG HÀNG NGÀN CÂY NẾN.
Có thư mời THAM DỰ TRẢI NGHIỆM HƯỚNG ĐẠO SINH. Có tấm áp phích nêu cao ý tưởng CÂU LẠC BỘ BẠN NỮ HÔM NAY XÂY DỰNG PHỤ NỮ NGÀY MAI. Có các tờ đơn đăng ký chơi bóng mềm và đơn đăng ký tham gia Đội kịch Thiếu nhi của Nhà Cộng đồng. Và tất nhiên, có một tờ áp phích mời các em THAM DỰ CHƯƠNG TRÌNH ĐỌC SÁCH MÙA HÈ. Ben thích mê chương trình này. Mỗi người đăng ký đều được tặng một tấm bản đồ nước Mỹ. Và với mỗi cuốn sách đọc được và viết bản thu hoạch, ta sẽ được tặng hình dán của một bang, chỉ cần liếm là dán được lên bản đồ. Hình dán có thông tin như loài chim hoặc loài hoa biểu tượng của bang đó, năm được chấp nhận vào Hợp bang, và tổng thống nào xuất thân từ bang này, nếu có. Khi thu thập đủ 48 hình dán lên bản đồ, ta sẽ được tặng một cuốn sách. Ngon lành cành đào quá chừng. Và Ben định thực hiện đúng điều mà tấm áp phích kêu gọi: “Đừng lãng phí thì giờ, hãy đăng ký ngay hôm nay.”
Nổi bật giữa biết bao màu sắc rực rỡ, vui nhộn là một tấm áp phích đơn giản, vào thẳng trọng tâm được dán chỗ bàn trả sách – không tranh vẽ hay hình chụp cầu kỳ, chỉ đơn giản là một dòng chữ đen in trên nền trắng:
__HÃY GHI NHỚ GIỜ GIỚI NGHIÊM!
7 GIỜ TỐI SỞ CẢNH SÁT DERRY__
Chỉ cần nhìn tấm áp phích thôi cũng đã đủ khiến Ben rùng mình. Trong nỗi hân hoan được nhận sổ liên lạc, lo lắng về Henry Bowers, trò chuyện với Beverly và bước vào kỳ nghỉ hè, cậu đã quên bẵng mất giờ giới nghiêm và những vụ án mạng.
Dân tình xôn xao bàn tán số vụ giết người đã xảy ra, nhưng ai nấy đều nhất trí rằng đã có ít nhất bốn vụ kể từ mùa đông năm ngoái – năm nếu tính cả George Denbrough (nhiều người cho rằng cái chết của cậu bé con nhà Denbrough là một tai nạn vô tiền khoáng hậu). Vụ án đầu tiên mà mọi người dám chắc là Betty Ripsom, xác cô bé được phát hiện ngay sau dịp lễ Giáng sinh trong khu vực xây dựng đường cao tốc ở đường Jackson Phía Ngoài. Thân thể cô bé mười ba tuổi được tìm thấy bị cắt rời và đông cứng trong lớp đất bùn. Chi tiết này không được đăng báo, cũng không có người lớn nào kể cho Ben nghe. Cậu nghe phong thanh từ những lời to nhỏ đầu làng cuối xóm.
Chừng ba tháng rưỡi sau đó, khi mùa đánh bắt cá hồi bắt đầu chưa lâu, một ngư dân buông cần ở bờ sông cách Derry chừng ba mươi cây số về phía đông thì cần câu móc phải thứ gì đó, ban đầu ông cứ tưởng là nhành cây. Hóa ra đó là bàn tay, cổ tay và chừng chục phân cánh tay bé gái. Cần câu của ông móc phải chiến lợi phẩm khủng khiếp này ở phần thịt giữa ngón cái và ngón trỏ.
Cảnh sát đang tìm được phần thi thể còn lại của Cheryl Lamonica hạ nguồn, cách đó chừng sáu mươi mét, vướng vào một cái cây đổ xuống sông vào mùa đông năm ngoái. May mắn thế nào mà cái xác không trôi xuống sông Penobscot rồi đổ thẳng ra biển do dòng nước từ tuyết tan mùa xuân.
Cô thiếu nữ nhà Lamonica mới mười sáu tuổi. Cô xuất thân từ Derry nhưng đã bỏ học; ba năm trước, cô hạ sinh cô con gái Andrea. Hai mẹ con sống ở nhà bố mẹ đẻ của Cheryl. “Cheryl thỉnh thoảng hơi bốc đồng nhưng con bé tốt tính lắm,” bố cô vừa khóc vừa khai với cảnh sát. “Andi cứ hỏi “Mẹ đâu?, tôi biết phải trả lời cháu gái thế nào đây.”
Năm tuần trước khi tìm thấy cái xác, gia đình cô đã trình báo cảnh sát con gái mình mất tích. Cảnh sát bắt tay vào điều tra cái chết của Cheryl Lamonica với giả định ban đầu tương đối hợp lý: cô bị một trong những người bạn trai giết hại. Bởi người yêu của cô thì vô số. Nhiều anh là binh sĩ trong căn cứ không quân tít trên Bangor. “Mấy cậu ấy đa số đều rất tốt tính,” mẹ của Cheryl cho hay. Một trong những câu “tốt tính” kể trên là một thượng tá Lực lượng Không quân bốn mươi tuổi, đã có một vợ và ba con ở New Mexico. Một người nữa hiện đang bóc lịch ở Shawshank vì tội cướp có vũ trang.
Cảnh sát nghi ngờ thủ phạm có thể là người bạn trai, hoặc có khi chỉ là một kẻ qua đường, chung chạ giường chiếu với cô.
Nếu đây là bạn mây mưa với nạn nhân, hẳn hắn ta còn hứng thú với các bé trai. Bởi vào cuối tháng Tư, một giáo viên cấp hai đưa các em học sinh lớp Tám đi tản bộ thì trông thấy một đôi giày màu đỏ và quần yếm màu xanh thò ra từ miệng cống trên đường Merit. Mà đoạn đường Merit ấy đã được chặn lại bằng giá cưa. Mặt đường đã được ủi phẳng vào mùa thu năm ngoái. Đường cao tốc nối dài sẽ băng qua khu vực này rồi chạy thẳng theo hướng bắc lên Bangor.
Thi thể là của cậu bé Matthew Clements, ba tuổi, mà mới một ngày trước đó, bố mẹ cậu trình báo con trai mình mất tích (tấm hình cậu bé xuất hiện trên trang nhất tờ Derry News : đứa bé trai tóc đen, cười thật tươi trước ống kính với mũ lưỡi trai Red Sox trên đầu). Gia đình Clements sống trên đường Kansas, tít bên kia thị trấn. Mẹ cậu bé, chịu đả kích mất mát quá lớn, điềm tĩnh đến đáng sợ, tựa một quả bóng thủy tinh chực vỡ, khai báo với cảnh sát rằng lúc đó Matty đang lái xe đạp ba bánh lên xuống vỉa hè cạnh nhà, nằm ở góc giao của đường Kansas và ngõ Kossuth. Vừa bước vào nhà, bỏ quần áo giặt xong vào máy sấy, người mẹ nhìn ra ngoài cửa sổ để kiểm tra con trai thì phát hiện Matty đã biến mất. Chỉ còn chiếc xe đạp của cậu bé chỏng chơ ngay mép vỉa hè và lòng đường. Bánh sau vẫn còn quay chậm. Lúc người mẹ nhìn qua, bánh xe mới dừng hẳn.
Với Cảnh sát trưởng Borton, thế là quá đủ. Ngay đêm hôm sau, tại một phiên họp đặc biệt của Hội đồng thị trấn, ông đề ra giờ giới nghiêm là 7 giờ tối; mọi người đều tán thành và đề xuất có hiệu lực ngay ngày hôm sau. Trẻ nhỏ phải được “người lớn đủ thẩm quyền” trông coi mọc lúc mọi nơi, theo như bài báo viết về giờ giới nghiêm trên tờ News . Trường học của Ben tháng trước mới tổ chức cuộc họp đặc biệt. Cảnh sát trưởng bước lên khán đài, thọc ngón cái vào thắt lưng dắt súng và trấn an đám trẻ rằng chúng không có gì phải lo lắng miễn là chúng tuân thủ một số quy định đơn giản không nói chuyện với người lạ, không để người khác chở, trừ người thân thích, luôn ghi nhớ Cảnh Sát Là Bạn Của Dân… và tuân theo lệnh giới nghiêm.
Hai tuần trước, một cậu bạn mà Ben chỉ quen biết sơ sơ (cậu này học chung khối Năm nhưng khác lớp ở trường Tiểu học Derry) đã thò đầu nhìn vào một cống nước mưa trên đường Neibolt và trông thấy rất nhiều tóc lềnh phềnh ở trong đó. Cậu bé này tên là Frankie hay Freddy Ross gì đó (hoặc Roth thì phải), chuyên lần mò vật này vật nọ bằng một dụng cụ tự phát minh mà cậu đặt tên là QUE DÍNH KẸO CAO SU SỐ DÁCH. Nghe cậu ta ba hoa về nó mà xem, ai cũng sẽ thấy trong lòng cậu ta, phát minh đó hoành tráng như cái tên, viết hoa (và thậm chí còn có màu phản quang mới chịu). QUE DÍNH KẸO CAO SU SỐ DÁCH là một nhành cây gắn đống kẹo cao su ở đầu. Vào thời gian rảnh, Freddy (hay Frankie gì đấy) lại xách que đi khắp Derry, nhìn vào cống rãnh. Thỉnh thoảng, cậu trông thấy tiền – hầu hết là mấy xu lẻ, nhưng đôi lúc cũng vớ bẫm được đồng mười xu hoặc thậm chí là hai mươi lăm xu (vì lý do mà chỉ đương sự mới hiểu, cậu gọi đồng hai mươi lăm xu là “quái vật vịnh”). Khi nhác thấy đồng xu, Frankie-hay-Freddy-gì-đấy cùng QUE DÍNH KẸO CAO SU SỐ DÁCH sẽ ra tay ngay. Chỉ cần thọc que xuống tấm lưới sắt là đồng xu đã nằm gọn trong túi cậu.
Ben đã nghe tiếng của Frankie-hay-Freddy-gì-đấy và que kẹo cao su của cậu này từ lâu trước khi cậu ta trở thành tâm điểm chú ý của bàn dân thiên hạ nhờ vào việc phát hiện xác của Veronica Grogan. “Thằng đó tởm lắm,” ngày nọ, cậu bạn mang tên Richie Tozier nói với Ben trong giờ sinh hoạt lớp. Tozier là một thằng nhóc gầy như cò hương với cặp đít chai trên mặt. Ben nghĩ nếu không có cặp kính, khéo thị lực của Tozier chỉ cỡ ông Magoo là cùng, đôi mắt được phóng đại của cậu ta sau cặp đít chai dày cộp lúc nào cũng mang vẻ ngạc nhiên thường trực. Chưa kể, răng của cậu ta to kềnh, chẳng trách ai nấy đều gọi cậu là Hải ly Bucky. Cậu này học chung lớp Năm với Freddy-hay-Frankie-gì-đấy. “Cả ngày cậu ta chọc que kẹo cao su ấy xuống cống rãnh, rồi tối đến cậu ta lại lôi kẹo cao su từ que đó ra gặm.”
Nhân vật hoạt hình cận thị nặng.
“Ôi trời, gớm quá!” Ben thốt lên.
“Chuẩn rồi đấy, thỏ đế” nói đoạn Tozier bỏ đi.
Frankie-hay-Freddy-gì-đấy đưa QUE DÍNH KẸO CAO SU SỐ DÁCH tới lui lưới sắt chỗ cống nước mưa, cứ đinh ninh mình với được bộ tóc giả. Cậu ta tưởng mình có thể hong khô nó và tặng mẹ làm quà sinh nhật hay gì đó. Sau vài phút khều tới khều lui, đúng lúc cậu tính bỏ cuộc thì một khuôn mặt bất thình lình nổi lên khỏi mặt nước bẩn thỉu trong miệng cống bị bít, khuôn mặt dính đầy lá rụng trên hai gò má trắng hếu và đất cát trong đôi mắt trợn trừng.
Freddy-hay-Frankie-gì-đấy vừa hét vừa ba chân bốn cẳng chạy về nhà.
Veronica Grogan học lớp Bốn trường dòng đường Neibolt, được điều hành bởi nhóm người mà mẹ Ben hay gọi là “đám Công giáo”. Cô bé được chôn cất vào ngày cô tròn mười tuổi.
Sau vụ án kinh hoàng ấy, một buổi tối nọ, Arlene Hanscom gọi Ben vào phòng khách rồi ngồi cạnh cậu con trai của mình trên ghế sô pha. Người mẹ cầm tay và chăm chú nhìn con. Ben cũng nhìn mẹ, cảm thấy có chút ngột ngạt.
“Ben này,” bà lên tiếng, “con có ngu ngốc không?”
“Dạ không, thưa mẹ,” Ben đáp, càng lúc càng khó chịu. Cậu chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao. Chưa bao giờ cậu thấy mẹ mặt nặng mày nhẹ đến thế.
“Ừ,” bà đồng tình. “Mẹ nghĩ con không ngốc.”
Bà lặng thinh hồi lâu, không nhìn Ben mà trầm ngâm nhìn ra ngoài khung cửa sổ. Trong thoáng chốc, Ben lo khéo có khi mẹ đã quên bẵng mình. Mẹ cậu vẫn là một phụ nữ trẻ - bà mới chỉ ba mươi hai – nhưng những vất vả của việc đơn thân nuôi con đã in hằn lên khuôn mặt ấy. Bà làm việc bốn mươi tiếng một tuần trong phòng quấn và cuộn len tại Nhà máy Stark’s ở Newport, và nếu hôm nào làm việc mà hít phải bụi và xơ vải quá nhiều, mẹ cậu lại ho khù khụ khiến Ben sốt hết cả ruột. Có những đêm, cậu trằn trọc thật lâu, đưa mắt nhìn ra màn đêm bên ngoài khung cửa sổ cạnh giường, tự hỏi mình sẽ xoay xở ra sao nếu mẹ qua đời. Cậu đoán mình sẽ trở thành trẻ mồ côi. Có khi cậu sẽ trở thành Đứa Trẻ Bang (cậu cứ tưởng điều này có nghĩa là cậu sẽ phải đến sống với các nông dân bắt cậu nai lưng làm việc từ sáng sớm đến tối mịt), hoặc biết đâu cậu sẽ bị gửi vào Trại cô nhi Bangor. Cậu tìm cách trấn an bản thân rằng lo nghĩ về những điều này thì rõ thật ngu ngốc, nhưng vô ích. Cậu không chỉ lo cho bản thân, mà còn lo cho mẹ. Mẹ cậu rất khó tính, nghiêm khắc, nếu muốn điều gì bà sẽ làm cho bằng được, nhưng bà là một người mẹ tốt. Câu thương mẹ rất nhiều.
“Con nghe về nhữ