Chương 5 BILL DENBROUGH ĐÁNH BẠI QUỶ DỮ – I
1
Mình gần như du hành không gian rồi, Bill Denbrough nghĩ. Có khi mình ngồi trong phát đạn bắn ra cũng được ấy chứ.
Mặc dù suy nghĩ này hoàn toàn chính xác, nhưng anh chẳng cảm thấy thoải mái cho cam. Thật ra, trong suốt một tiếng đồng hồ kể từ lúc máy bay Concorde cất cánh (hoặc cách mô tả đúng đắn hơn là rời mặt đất) từ Heathrou, anh đã cảm thấy bức bối vì chứng sợ không gian hẹp của mình. Máy bay rất chật – chật đến nhợn người. Bữa ăn khá cầu kỳ, nhưng các tiếp viên hàng không phục vụ món ăn phải vặn vẹo, oằn người, khom lưng mới trao hết phần cơm cho khách; trông họ chẳng khác nào một đội vận động viên thể dục dụng cụ. Nhìn họ cực nhọc phục vụ thế kia khiến Bill mất hẳn hứng thú ăn uống, trong khi vị khách ngồi bên cạnh anh dường như chẳng buôn quan tâm.
Người ngồi kế bên cũng là một yếu tố cản trở lớn. Anh chàng này vừa mập vừa không giữ gìn vệ sinh, có thể lớp trên cùng của da anh ta xịt nước hoa Ted Lapidus, nhưng bên dưới, Bill oẫn ngửi thấy thứ mùi của ghét bẩn và mồ hôi. Anh ta cũng không biết nhìn trước ngó sau với cùi chỏ tay trái của mình; cứ thỉnh thoảng, cùi chỏ ấy lại huých thẳng vào anh.
Hết lần này đến lần khác, anh hướng mắt về màn hình hiện số ở phía trước khoang máy bay. Nó cho anh thấy viên đạn nước Anh này đang bay với vận tốc bao nhiêu. Hiện tại, khi đạt đến tốc độ hành trình, Concorde giữ ở mức mach 2. Bill lôi từ túi quân của mình ra một cây bút rồi dùng đầu bút chạm vào nút trên đồng hồ điện tử mà Audra tặng anh vào dịp Giáng sinh vừa rồi. Nếu tốc kế thể hiện đúng số – mà Bill thấy chẳng có lý do gì để nó thể hiện sai – thì họ đang đi với vận tốc 29 ki-lô-mét một phút. Bill nghĩ thông tin này cũng không phải điều anh thực sự muốn biết.
Số Mach (Mach number, nombre de Mach) là tỉ lệ giữa tốc độ một vật đang bay trong không khí với tốc độ của âm thanh. Mach 2 nghĩa là gấp hai lần vận tốc âm thanh.
Bên ngoài cửa sổ, vốn vừa nhỏ vừa dày như cửa sổ trên con tàu vũ trụ Mercury ngày xưa, anh có thể trông thấy bầu trời không mang sắc xanh mà mang sắc tím chạng vạng, mặc dù bây giờ đang là giữa ban ngày. Ở nơi đại dương và bầu trời không giao nhau, anh có thể nhìn thấy đường chân trời cong cong, Mình đang ngồi đây, Bill nghĩ, với ly Bloody Mary trên tay, bắp tay bị khuỷu tay ông mập ở bẩn bên cạnh chọc vào liên tục, giương mắt quan sát bề mặt cong của Trái Đất.
Anh khẽ mỉm cười, thầm nhủ người đủ sức chống chọi một thứ như thế này thì chẳng thứ gì có thể làm anh sợ hãi. Thế mà anh vẫn sợ, không chỉ sợ vì mình đang bay với tốc độ 29 ki-lô-mét một phút trong cái vỏ chật hẹp mỏng manh này. Anh như cảm thấy Derry đang sà xuống anh. Và đó chính là câu miêu tả đắt giá nhất. Bất kể có đang di chuyển với tốc độ 29 ki-lô-mét một phút hay không, anh có cảm giác mình đang ngây ra như tượng khi Derry sà xuống anh như một con thú to lớn đã âm thầm rình rập suốt thời gian dài mới nhào ra khỏi chỗ nấp. Derry, ôi, Derry! Ta có nên viết bài thơ ca tụng Derry không nhỉ? Ngợi ca thứ mùi hôi thối của nhà máy, của con sông? Ngợi ca sự tĩnh mạch trang nghiêm của những con đường rợp bóng cây? Ngợi ca thư viện? Standpipe? Công viên Basses? trường Tiểu học Derry?
Ngợi ca Vùng Đất Cằn?
Ánh sáng chợt rực rỡ chói sáng trong đầu anh, những ánh đèn hồ quang cực mạnh. Tựa hồ anh đã ngồi trong một sân khấu tối tăm suốt hai mươi bảy năm, chờ đợi sự kiện gì đó xảy ra, và cuối cùng, nó đã bắt đầu rồi đây. Khung cảnh đang dần dần lộ ra từng chút một, qua từng ngọn đèn, tuy nhiên, nó không phải một bộ phim hài vô hại như Thạch tín và đăng ten cũ; với Bill Denbrough, nó có nhiều nét giống bộ phim kinh dị Phòng của bác sĩ Caligari hơn.
Trong tất cả các câu chuyện mình viết, anh miên man nghĩ, lòng vơ vẩn hứng thú. Tất cả các tiểu thuyết. Derry là nơi chúng khởi nguyên; Derry là suối nguồn của chúng. Tất cả xuất phát từ những gì xảy ra vào mùa hạ năm ấy, và từ biến cố ập đến với George mùa thu trước đó. Trong bao cuộc phỏng vấn, người ta hỏi mình CÂU HỎI ẤY… thế mà mình đều cho họ câu trả lời sai.
Khuỷu tay người đàn ông béo ú bên cạnh lại huých vào khiến đồ uống của anh sánh ra. Suýt chút nữa Bill lên tiếng, nhưng rồi lại thôi.
CÂU HỎI ẤY, tất nhiên là “Anh lấy ý tưởng từ đâu?” Đó là câu hỏi mà Bill đoán tất cả những người viết truyện giả tưởng đều phải trả lời – hoặc ra vẻ trả lời – ít nhất là hai lần một tuần, nhưng người như anh, kiếm miếng cơm manh áo bằng cách viết nên những điều không tồn tại và không thể tồn tại, phải trả lời – hoặc ra vẻ trả lời – nhiều lần hơn rất nhiều.
“Mọi nhà văn đều có một đường ống dẫn xuống tiềm thức,” anh nói với bọn họ, lược bỏ chi tiết mỗi năm trôi qua, anh lại càng thêm nghi ngờ liệu tiềm thức có tồn tại hay không. “Nhưng riêng nhà văn viết truyện kinh dị lại có một ống dẫn đi sâu hơn, có lẽ… xuống tận phần tiềm thức của tiềm thức, nếu các vị chấp nhận.”
Câu trả lời nghe thì văn vẻ, nhưng thực chất anh nói mà lòng chẳng tin. Tiềm thức ư? Phải, đúng là có thứ gì đó dưới tầng tâm trí, nhưng Bill nghĩ người ta đã quá đề cao khái niệm ấy rồi; suy cho cùng, có khi chức năng của nó cũng tương đương việc ta chảy nước mắt khi bụi bay vào mắt hoặc xì hơi tầm một tiếng sau khi ăn thùng uống vại. Ẩn dụ thứ hai nghe có vẻ hay ho hơn, nhưng ngẫm đi ngẫm lại thì cũng khó coi khi trả lời phỏng vấn rằng những điều như giấc mơ, cảm giác da diết mơ hồ và déjà vu chẳng có gì ghê gớm mà chỉ là tiếng xì hơi trong tâm trí. Nhưng những người phỏng vấn ấy, sốt sắng cầm theo sổ tay cùng máy thu âm Nhật dường như cần nghe câu trả lời, mà Bill cũng mong mình giúp ích nhiều nhất có thể. Anh biết cái nghiệp viết lách rất cực, cực kinh khủng. Tốt nhất không cần hành họ cực nhọc hơn mà hãy nói, “Hỡi bạn hiền, thôi thà anh hỏi tôi ‘Kẻ nào vừa xừ hơi?’ cho rồi.”
Lúc này anh đang nghĩ: Thật ra từ trước khi Mike gọi, anh đã luôn biết họ hỏi sai; giờ anh còn biết thêm câu hỏi đúng là gì. Không phải anh lấy ý tưởng từ đâu mà là tại sao anh có những ý tưởng ấy. Ừ thì đúng là có một ống dẫn, nhưng ống dẫn ấy chẳng xuất phát từ tiềm thức mà Sigmund Freud hay Carl Jung định nghĩa, trong tâm trí chẳng có hệ thống nước thải bên trong, cũng chẳng có hang động dưới lòng đất đầy quỷ Morlock nào ngấp nghé. Phía bên kia ống dẫn chẳng có gì ngoài Derry. Chỉ có Derry mà thôi. Và..
… Và kẻ nào đấy, kẻ nào bước đi kèn kẹt trên cầu của ta?
Anh đột ngột ngôi thẳng dậy và lần này đến lượt khuỷu tay của anh đi sai chỗ; trong một thoáng, nó chọc hẳn vào sườn vị khách béo ú bên cạnh.
“Này, anh để mắt ở đâu thế,” người đàn ông đó phàn nàn. “Nước sông không phạm nước giếng nhé.”
“Anh thôi chọc tay vào người tôi thì tôi cũng sẽ thôi ch-chọc tay vào a-anh.” Ông mập nhìn anh với ánh mắt cau có và trợn trừng như muốn nói anh-lải-nhải-cái-quái-gì-thế. Bill chằm chằm chĩa ánh nhìn vào đôi phương cho đến khi ông ta quay đi, miệng lẩm bẩm.
Kẻ nào đấy?
Kẻ nào bước đi kèn kẹt trên cầu của ta?
Nhìn ra ngoài cửa sổ, anh thầm nhủ: Chúng ta đang đánh bại quỷ dữ.
Tay và gáy của anh tê tê. Anh nốc hết phần đồ uống còn lại chỉ trong một hơi. Một ánh sáng chói lòa lại lóe lên.
Ánh Bạc. Ngày bé, anh đặt tên chiếc xe đạp của mình theo tên chú ngựa của bộ phim Viễn Tây Kỵ sĩ cô độc. Một chiếc xe đạp hiệu Schwinn cao chừng bảy mươi phân. “Coi chừng ngã cắm đầu đấy nghe chưa, Billy,” bố anh từng căn dặn như thế, nhưng ông chỉ dặn cho có mà thôi. Kể từ ngày George qua đời, ông chẳng màng sự đời nữa. Trước đây, bố vốn là một người vững như bàn thạch. Công bằng mà vững vàng. Kể từ ngày ấy, cậu bé Bill vẫn có thể loanh quanh bên ông. Ông vẫn có những cử chỉ, những hành động của người bố, nhưng ấy chỉ dừng lại ở mức cử chỉ và hành động, không hơn. Dường như ông vẫn luôn lắng tai nghe, chờ đợi George trở về…
Bill đã trông thấy chiếc xe đạp đằng sau ô cửa sổ của cửa tiệm Xe đạp dưới đường Trung Tâm. Nó lầm lũi dựng trên chân chống, to hơn bất cứ chiếc xe đạp nào được trưng bày, mờ xỉn chỗ cần sáng bóng, thắng đơ những chỗ xe khác uốn cong, cong queo những chỗ xe khác thẳng thớm. Trên bánh trước treo bảng:
HÀNG CŨ
Trả giá để mua
Chuyện xảy ra là Bill đã bước vào trong, chủ tiệm ra giá và Bill đồng ý – cậu chẳng biết nên trả giá với chủ tiệm xe đạp ra sao khi một lòng muốn có chiếc xe ấy, chưa kể, cậu thấy cái giá hai mươi tư đô-la ông đề nghị không có gì phải chê, thậm chí còn rất hời. Cậu trả cho Ánh Bạc số tiền cậu bỏ ống suốt bảy, tám tháng vừa qua – nào là tiền sinh nhật, tiền Giáng sinh, tiền cắt cỏ. Cậu để mắt tới chiếc xe đạp trưng bên trong cửa sổ ấy từ dạo Lễ Tạ ơn. Thời điểm câu trả tiền rồi đạp xe về nhà cũng là lúc tuyết dần tan. Thật lạ, bởi mới năm ngoái, cậu chẳng nghĩ ngợi gì về việc sắm một chiếc xe đạp. Ý tưởng ấy chợt nảy nở trong tâm trí cậu, có lẽ nào một trong những ngày tưởng chừng dài bất tận sau ngày George qua đời. Hay nói đúng hơn là bị giết chết.
Lúc mới lái, quả thật suýt chút nữa Bill đã ngã cắm đầu. Lần đạp đầu tiên trên chiếc xe mới kết thúc bằng việc cậu phải nhảy khỏi xe để không tông thẳng vào hàng rào gỗ ở cuối ngõ Kosshuth (cậu không sợ đâm vào hàng rào bằng việc bay qua hàng rào và lao hai mươi mét xuống Vùng Đất Cằn). Chiến tích cậu thu được là một vết rách dài hơn chục phân từ cổ tay đến khuỷu tay trái. Chưa đến một tuần sau, do không phanh kịp thời, cậu lao qua ngã tư đường Witcham và Jackson với tốc độ chắc phải đến 55 ki-lô-mét một giờ, kết quả là cậu bé nhỏ nhắn đo đất trên chiếc xe đồ sộ như con voi xám đầy bụi đường (Ánh Bạc chỉ có màu bạc khi ta để cho trí tưởng tượng chạy rông hết cỡ), những quân bài gắn vào khung xe lạch phạch kêu lên khi nan hoa bánh trước cùng bánh sau quay vù vù, và may mà không có chiếc ô tô nào chạy qua, nếu không thì cậu đã đi đời nhà ma. Giống như Georgie.
Bước vào mùa xuân, cậu lái Ánh Bạc dần dà thành thục hơn. Suốt khoảng thời gian ấy, bố mẹ cậu không hề hay biết con trai mình đang đùa với Thần Chết khi lái xe. Cậu thấy sau vài hôm đầu, chiếc xe đạp chẳng lọt vào tầm mắt của bố mẹ cậu nữa rồi – với họ, nó chỉ là một đống sắt vụn với lớp sơn bong tróc dựng cạnh tường ga-ra vào những ngày mưa.
Nhưng Ánh Bạc còn khuya mới là một đống sắt vụn cũ gỉ. Chớ xem mặt mà bắt hình dong, bởi nó phi như gió. Bạn của Bill – người bạn thực sự và cũng là duy nhất – một cậu bé tên Eddie Kaspbrak, và Eddie rất có khiếu với đồ máy móc. Cậu chỉ Bill cách bảo quản Ánh Bạc sao cho luôn mới – con ốc nào nên siết và kiểm tra thường xuyên, châm dầu chỗ nào trên đĩa xích, làm cách nào để tăng sên, làm cách nào để vá xe khi bị xẹp lốp.
“Cậu nên sơn lại xe cho đẹp,” cậu nhớ Eddie từng khuyên mình như vậy, nhưng Bill không muốn sơn phết gì lên Ánh Bạc hết. Xuất phát từ những lý do mà cậu còn chẳng giải thích được với chính bản thân, nhưng cậu muốn chiếc xe hiệu Schwinn này theo nguyên bản vốn có của nó. Trông nó chẳng khác nào đống đồng nát, như cái xe bị cậu chủ tắc trách thường xuyên vứt ngoài bãi cỏ dưới mưa nắng, như cái xe sẽ kèn kẹt, răng rắc và lọc cà lọc cọc. Đúng là nó như đống đồng nát, nhưng nó phi như gió. Nó sẽ…
“Nó sẽ đánh bại quỷ dữ,” anh nói to rồi phá lên cười. Vị khách mập ú bên cạnh quắc mắt nhìn anh, tiếng cười như tiếng tru khiến Audra thất kinh như vừa nãy.
Phải, trông chiếc xe rõ là cà tàng với lớp sơn cũ xỉn mà giỏ đựng đồ lỗi mốt đặt trên bánh sau, chiếc còi toe toe xưa như Trái Đất cùng bóng chuôi cao su đen – còi được cố định vĩnh viễn vào tay lái bằng một con ốc gỉ sét to bằng nắm tay trẻ con. Trông thật cà tàng.
Nhưng Ánh Bạc có chạy được không? Có được không nhỉ? Lạy Chúa!
Và may sao, nhờ Ánh Bạc chạy ngon lành mà chiếc xe đã cứu Bill Denbrough từ tay Thần Chết vào tuần cuối cùng của tháng Sáu năm 1958 – một tuần sau khi anh gặp Ben Hanscom lần đầu tiên, một tuần sau khi anh cùng Ben và Eddie xây đập, một tuần sau khi Ben và Richie Tozier “Tía Lia” cùng Beverly Marsh đến Vùng Đất Cằn sau xuất chiếu phim sáng thứ Bảy. Hôm Ánh Bạc cứu mạng Bill, Richie đang ngồi ngay sau lưng anh, trên giá đựng đồ của Ánh Bạc… nên anh thấy Ánh Bạc còn cứu cả mạng sống của Richie nữa. Và anh vẫn nhớ căn nhà nơi bọn họ trốn thoát. Anh vẫn nhớ như in. Căn nhà chết dịch trên đường Neibolt ấy.
Hôm ấy, anh đã guồng chân lái điên cuồng để đánh bại quỷ dữ, ừ phải, thật là thế, chuyện rành rành ra đấy. Con quỷ với đôi mắt sáng quắc như đồng xu cũ. Con quỷ già nua lông lá với miệng đầu nanh, bê bết máu. Nhưng đó là chuyện xảy ra về sau. Nếu hôm ấy Ánh Bạc cứu mạng Richie và anh, thì có lẽ chiếc xe cũng đã cứu mạng Eddie Kaspbrak vào hôm Bill và Eddie gặp Ben ở chỗ cái đập bị đá tan tành trong Vùng Đất Cằn. Henry Bowers – người ngợm hắn ta trông như thể vừa bị ném vào bãi rác tái chế – đã đập vỡ mũi Eddie khiến cậu ấy lên cơn hen suyễn nặng, mà không may ống thở lại hết đúng lúc đó. Tính ra, tất cả là nhờ có Ánh Bạc, chính Ánh Bạc đã giải cứu họ khỏi tình thế thập tử nhất sinh.
Đã mười bảy năm không lái xe đạp lấy một lần, Bill Denbrough nhìn ra ngoài cửa sổ máy bay, một phát minh mà chẳng ai vào năm 1958 có thể tin nổi – thậm chí tưởng tượng nổi có thật trên đời chứ không phải chỉ trong tạp chí khoa học viễn tưởng. Hỡi Ánh Bạc, PHI THÔI! Anh thầm nhủ và buộc phải nhắm mắt bởi khóe mắt đã cay cay vì lệ.
Chuyện gì đã xảy ra với Ánh Bạc nhỉ? Anh chẳng tài nào nhớ nổi. Phần bối cảnh ấy vẫn còn tối; đèn chưa được bật lên. Có thể như vậy lại hay. Có thể như vậy lại là may mắn.
Hỡi Ánh Bạc.
Hỡi Ánh Bạc.
2“PHI THÔIII!” Cậu hét vang. Gió tạt những lời cậu nói ra phía sau như dải giấy màu trang trí phất phơ trong gió. Giọng của cậu vang thật to, thật mạnh mẽ, như tiếng gầm rống oai hùng. Chẳng lời nào cậu nói âm vang đến thế.
Cậu đạp xe xuôi theo đường Kansas, tiến vào thị trấn, từ từ tăng tốc. Vòng bánh xe quay đều theo guồng chân cậu, nhưng đạp cho xe chạy cũng có cái thú của nó. Nhìn chiếc xe màu xám tăng tốc có chút gì đó hao hao một chiếc máy bay khổng lồ chạy trên đường băng. Ban đầu, ta chẳng tài nào tin nổi một thiết bị cỡ khủng hết ngả lại nghiêng thế kia lại đủ sức cất cánh khỏi mặt đất - nghe rõ là bất khả thi. Nhưng rồi ta thấy bóng máy bay đổ xuống dưới, và trước khi ta có thời gian tự hỏi liệu đây là thực hay mơ thì cái bóng ấy kéo dài phía sau, còn máy bay thì đã cất cánh xé gió, nhẹ nhàng và thanh nhã như giấc mơ vẽ trong tâm trí.
Ánh Bạc đẹp như vậy đấy.
Bill chạy xuống đồi một đoạn rồi đạp xe nhanh hơn, chân hết nâng lên lại hạ xuống khi cậu nhổm người trên phuộc xe. Được cái cậu vốn học nhanh – sau khi bị phuộc xe dập cho vài lần ở chỗ không nên bị dập nhất - từ đó cậu luôn kéo quần đùi lên cao hết cỡ trước khi cưỡi Ánh Bạc. Cuối mùa hè năm ấy, sau một hồi quan sát từ đầu đến cuối, Richie nhận xét, Bill làm thế vì mai mốt cậu ấy muốn có người nối dõi đây mà. Thật tình, tớ thấy ý tưởng ấy phải suy nghĩ lại đấy, nhưng ai mà biết được, có khi con sinh ra lại giống mẹ thì sao?
Cậu và Eddie hạ yên xe xuống hết cỡ, vì thế nó hết đụng lại cọ vào xương cụt của cậu khi cậu đạp xe. Một phụ nữ đang nhổ cỏ trong vườn hoa lấy tay che mắt cho đỡ chói để nhìn cậu chạy ngang. Nụ cười khẽ hiện trên môi bà. Cậu bé lái chiếc xe quá khổ ấy khiến bà nhớ đến chú khỉ lái xe đạp một bánh mà bà từng xem trong Rạp xiếc Barnum & Bailey. Nhưng thể nào cũng có ngày thằng bé ngã cắm đầu cho mà xem, bà nhủ thầm và quay lại tiếp tục nhổ cỏ. Chiếc xe rõ là quá khổ so với người thằng bé. Mà đằng nào cũng chẳng can dự gì đến bà.
3Tránh voi chẳng xấu mặt nào, Bill không dại gì mà dây vào đám côn đồ khi chúng lao ra khỏi bụi cây, mặt mũi như đám thợ săn cáu tiết đang săn con thú vừa tấn công một kẻ trong đám bọn chúng. Nhưng Eddie lại để cái miệng hại cái thân, bảo sao Henry Bowers đã trút giận lên cậu ấy.
Bill còn lạ gì bọn chúng; Henry, Ợ Hơi và Victor là ba kẻ côn đồ nhất trường Derry. Nhiều lần chúng từng đánh hội đồng Richie Tozier, cậu bạn mà thỉnh thoảng Bill chơi cùng. Bill nhận thấy Richie toàn tự mình chuốc lấy; đâu phải không dưng mà cậu ta có biệt danh Tía Lia.
Một ngày tháng Tư nọ, Richie bình phẩm gì đó về cổ áo của chúng khi ba tên này đi ngang qua trong sân trường. Số là chúng dựng ngược cổ áo lên như Vie Morrow trong phim Rừng rậm bảng đen . Lúc đó, Bill đang ngồi cạnh tòa nhà gần đó và bâng quơ chơi bắn bi, thành thử cậu không nghe kỹ. Henry và bè lũ bọn chúng cũng thế… nhưng chúng nghe thủng phần nào nên mới quay sang hướng Richie. Bill đoán Richie lúc nào cũng cố tình nói thật trầm. Nhưng vấn đề nằm ở chỗ, giọng Richie có khi nào trầm đâu.
“Mày nói gì hả, thằng bốn mắt kia?” Victor Criss hỏi.
“Tôi không nói gì cả.” Richie đáp, và lý ra lời đáp ấy – cùng khuôn mặt xanh như tàu lá và hoảng như gặp ma của cậu – đã khiến mọi thứ êm xuôi khép lại. Tiếc thay, miệng của Richie lại như con ngựa bất kham, đang yên đang lành cứ thế lồng lên. Và con ngựa chêm thêm: “Cậu nên ngoáy bớt ráy tai đi, đại ca. Cần tí thuốc nổ khai thông đường ngoáy không?”
Chúng đứng đó, sượng trân nhìn cậu suốt một lúc lâu rồi lao vào rượt. Đứng bên hông tòa nhà, Bill Cà Lăm nhìn cuộc đua không cân sức này từ đầu chí cuối. Cậu chẳng dại gì mà đâm đầu vào, ba tên đầu óc ngu si, tứ chi phát triển ấy thể nào chẳng vui khi được tẩn hai thằng chứ không chỉ một.
Richie chạy xéo qua sân chơi của đám trẻ con, hết bước qua bập bênh lại lách qua xích đu, mãi lúc sau cậu mới nhận ra mình đã chạy vào đường cụt khi tông vào hàng rào lưới B40 chắn giữa sân chơi và công viên nằm cạnh sân trường. Túng quá, cậu bèn trèo lên, tay chân cuống cuồng bấu lấy mắt lưới và mò mẫm tìm chỗ víu, tiếc là leo được khoảng hai phần ba thì Henry và Victor Criss kéo cậu xuống, Henry túm vạt áo khoác còn Victor giật đũng quần jean. Richie hét cuống cuồng khi bị lôi khỏi hàng rào. Lưng cậu đập xuống mặt đường nhựa. Kính bay một nẻo. Cậu quờ quạng tìm thì Huggins Ợ Hơi đá chúng ra xa, và đây cũng là lý do mùa hè năm ấy, một trong hai gọng kính được quấn băng keo.
Bill nhăn mặt, đi vòng ra tiền sảnh tòa nhà. Cậu trông thấy cô Moran, giáo viên lớp Bốn, đang vội vàng đến can ngăn, nhưng cậu biết Richie sẽ bị tẩn cho răng môi lẫn lộn trước lúc cô kịp đến nơi và Richie sẽ khóc bù lu bù loa cho xem. Đồ-mít-ướt, mít-ướt, xem-cái đồ-mít-ướt-kìa.
Bill chỉ có chút ít khúc mắc với đám du côn ấy. Tất nhiên là chúng lôi tật nói lắp của cậu ra làm trò cười. Thỉnh thoảng, chúng lại hứng chí giở thói côn đồ và đùa ác; một ngày mưa nọ, khi đám học sinh bước vào nhà thể chất để ăn trưa thì Huggins Ợ Hơi giật túi đồ ăn ra khỏi tay Bill, đạp lên nó bằng đôi giày của hắn khiến mọi thứ bên trong nát bấy.
“Ối, tr-tr-trời ơi!” Ợ Hơi ra vẻ kinh hãi hét lên, hai tay giơ lên vẩy vẩy trước mặt. “T-t-tao xin lỗi vì làm hỏng đ-đ-đồ ăn của mày, th-th-thằng ch-chó!” Dứt lời, hắn khệnh khạng bước qua sảnh, tiến về chỗ Victor Criss, lúc này đang tựa người vào vòi uống nước bên ngoài nhà vệ sinh nam, cười đến độ thiếu điều thoát vị. Tuy nhiên, Bill cũng xoay xở được: cậu xin Eddie Kaspbrak một nửa chiếc bánh mì kẹp phết bơ đậu phộng và mứt trái cây, chưa hết, Richie còn vui vẻ cho cậu phần trứng nhồi của mình, món mà cậu tuyên bố cứ cách ngày mẹ lại nhét vào hộp cơm của cậu, khiến cậu chỉ muốn mửa.
Nói chung, tốt nhất cứ tránh đường chúng, còn nếu không thể làm thế, phải cố mà im hơi lặng tiếng.
Eddie quên mất nguyên tắc ấy, bảo sao chúng không cho cậu lên đĩa.
Khi đám côn đồ xuôi hạ lưu sông rồi băng sang bên kia, tình hình Eddie không quá tệ mặc dù máu mũi vẫn chảy ra như suối. Thấy khăn tay của Eddie ướt đẫm, Bill đưa cho cậu bạn khăn của mình, để tay cậu ra sau gáy rồi ngửa đầu cậu ra sau. Bill nhớ mẹ hay bắt Georgie làm vậy vì thỉnh thoảng thằng bé cũng hay chảy máu mũi…
Ôi, cứ nghĩ về George là lòng cậu lại đau như cắt.
Lúc tiếng đi như trâu của đám lưu manh ở Vùng Đất Cằn xa dần rồi tắt hẳn, Eddie ngừng chảy máu mũi nhưng cơn hen của cậu cũng trở nặng. Cậu bắt đầu hớp lấy hớp để không khí, tay hết mở ra lại nắm vào như những cái bẫy sơ sài, nhịp thở trở thành những tiếng huýt sáo khò khè trong họng.
“Chết tiệt!” Eddie thở hồng hộc. “Tớ suyễn rồi! Tiên sư!”
Cậu mò mẫm tìm ống thở của mình, mãi mới lôi được nó ra từ trong túi. Trông nó giống chai rửa kính hiệu Windex, loại có đầu xịt trên đỉnh. Đoạn cậu nhét nó vào miệng rồi kéo cần.
“Cậu thấy đỡ hơn chưa?” Bill lo lắng hỏi.
“Chưa. Hết thuốc rồi.” Eddie nhìn Bill với đôi mắt hoảng sợ như muốn nói Xong đời rồi, Bill ơi! Chết tớ rồi!
Ống thở hết thuốc lăn khỏi tay cậu. Con suối tiếp tục róc rách, chẳng mảy may quan tâm Eddie Kaspbrak gần như không thở được. Bill bâng quơ nghĩ thầm: đám du côn nói đúng về một điều: con đập ấy nhỏ như cái lỗ mũi. Nhưng hai người bọn họ rất vui trong quá trình xây, khốn kiếp, bỗng dưng cậu cảm thấy cơn giận trào lên trong họng khi mọi chuyện ra nông nỗi này.
“C-C-Cố chịu đựng nhé, E-Eddie,” cậu trấn an.
Suốt khoảng bốn mươi phút sau, Bill ngồi cạnh bạn mình, nhưng ước mong cho Cơn hen của Eddie sớm thuyên giảm dường như càng lúc càng xa vời. Và đến lúc Ben Hanscom xuất hiện thì nỗi lo đã biến thành nỗi sợ thật sự. Tình trạng không những không bớt mà còn trầm trọng hơn. Đã thế, Tiệm thuốc đường Trung Tâm nơi Eddie thay thuốc lại cách đây những gần năm cây số. Nhỡ cậu đi lấy thuốc cho Eddie, lúc trở lại thấy Eddie bất tỉnh nhân sự thì sao? Bất tỉnh hay khéo…
(trời ơi, đừng nghĩ điều gở)
hoặc chết bất đắc kỳ tử rồi, tâm trí cậu lì lợm lên tiếng.
(như Georgie, chết ngắc như Georgie)
Đừng nói linh tinh! Cậu ấy còn lâu mới chết!
Không, không thể nào. Nhưng nếu cậu quay lại và thấy Eddie bị hôn bê thì sao? Bill cũng rành bê với bò lắm chứ đùa, thậm chí cậu còn đoán tình trạng này được lấy tên từ việc hôn những con bê to đùng, mà điều đó cũng có lý ra phết – suy cho cùng, người ta hoảng vì phải hôn mấy con bê ấy, bảo sao não không lăn đùng ra ngất? Trên những bộ phim về ngành y như Ben Casey , bệnh nhân lúc nào cũng bị hôn bê , và lắm lúc họ cứ bất tỉnh nhân sự mãi, mặc Ben Casey tức tối la ó.
Thế là dù biết mình phải đi, nhưng cậu cứ ngồi ngây ra đó, dù chần chừ ở đây chẳng giúp ích được gì cho Eddie, song cậu không muốn để cậu bạn lại một mình. Đâu đó trong lòng, cái phần mê tín và phi lý trí của cậu, đoán chắc chỉ cần cậu quay lưng đi, Eddie sẽ hôn bê ngay. Đoạn cậu nhìn lên thượng nguồn và trông thấy Ben Hanscom đứng đó. Tất nhiên, cậu thừa biết Ben là ai, kẻ mập nhất trường nổi (tai) tiếng theo kiểu riêng. Ben học cùng khối nhưng khác lớp với cậu. Thỉnh thoảng, vào giờ ra chơi, Bill thấy cậu ta lủi thủi một mình – thường là trong góc – đọc sách hoặc ăn trưa trong túi đựng thức ăn to bằng túi đựng đồ giặt.
Nhìn Ben bây giờ, Bill thầm nhủ trông cậu ta còn tả tơi hơn cả Henry Bowers. Thật khó tin, nhưng thực tình là thế. Bill không thể tưởng tượng nổi hai người bọn họ đã quần thảo một mất một còn thế nào. Tóc Ben dựng ngược, lỉa chỉa đầy đất cát. Áo len hay áo nỉ cậu ta mặc - chẳng biết ban đầu chiếc áo ra sao, mà thật ra, chuyện ấy cũng không quan trọng lắm – trông như đống giẻ rách, bê bết một hỗn hợp trộn giữa máu và cỏ. Quần cậu ấy rách tươm nơi đầu gối.
Thấy Bill nhìn thấy mình, Ben khẽ rụt người, mắt đầy cảnh giác.
“Đ-Đ-Đ-Đừng đ-đ-đi!” Bill hét lên. Cậu đưa hai bàn tay của mình lên không trung, lòng bàn tay hướng ra ngoài, ý thể hiện cậu vô hại. “B-B-Bọn tớ cần gi-gi-giúp đỡ.”
Ben tiến lại gần, mắt vẫn dè chừng. Tướng đi của cậu như thể một hoặc cả hai chân của cậu đều đang đau thấu trời. “Chúng đi chưa? Bowers và bè lũ của hắn?”
“R-Rồi” Bill đáp. “Tớ bảo này, c-cậu c-c-có thể ở lại với bạn tớ trong lúc tớ đi lấy th-thuốc không? Cậu ấy b-b-b-bị…”
“Hen suyễn?”
Bill gật đầu.
Di chuyển xuống con đập vỡ nát, Ben đau đớn ngồi xuống cạnh Eddie, lúc ấy đang nằm ngửa, hai mắt gần như nhắm nghiền, lồng ngực co thắt.
“Kẻ nào đã đánh cậu ấy thế?” Mãi lúc sau, Ben mới lên tiếng hỏi. Đoạn cậu ngẩng lên, và Bill trông thấy trên khuôn mặt người bạn to mập này cũng là cơn thịnh nộ giống như cậu cảm nhận được. “Có phải Henry Bowers không?”
Bill gật đầu. “Nhìn là biết. Ừ, cậu đi đi. Tớ ở lại cho.”
“C-C-Cảm ơn cậu.”
“Trời, có gì đâu mà khách sáo,” Ben nói. “Tại tớ nên bọn chúng mới trút lên đầu các cậu. Đi đi. Nhanh lên. Tớ còn phải về nhà ăn tối nữa.”
Bill lẳng lặng đi mà không nói gì thêm. Đáng lý ra cậu có thể nói Ben đừng tự trách bản thân mình – chuyện xảy ra chẳng phải lỗi của Ben, có trách thì trách Eddie dại miệng chọc vào ổ kiến lửa. Đám côn đồ như Henry và bè lũ của chúng giống tai nạn chực chờ chúng ta, nó là phiên bản bão lụt, vòi rồng hay sỏi mật. Nói được như vậy thì còn gì bằng, khổ nỗi thần kinh cậu đang cũng như dây đàn nên nếu có nói chắc cũng tốn cả hai mươi phút, mà đến lúc ấy khéo Eddie đã rơi vào cơn hôn bê rồi (đó cũng là một điều Bill học được từ bác sĩ Casey và bác sĩ Kildare; ta không đi vào hôn bê mà ta rơi vào hôn bê).
Đang lõm bõm đi xuống hạ nguồn thì cậu quay lại liếc ra sau. Cậu trông thấy Ben Hanscom nặng nề thu nhặt đá quanh mép nước. Ban đầu, Bill không hiểu cậu ta làm vậy với mục đích gì, nhưng rồi cậu ngộ ra ngay. Cậu ta đang tích trữ đạn dược, phòng hờ đám côn đồ trở lại.
4Bill thuộc nằm lòng đường đi lối lại ở Vùng Đất Cằn. Mùa xuân vừa rồi cậu chơi ở đây miết, thỉnh thoảng cậu đi với Richie, thường xuyên hơn với Eddie, lắm lúc cậu chỉ đi một mình. Dĩ nhiên cậu chưa khám phá toàn bộ khu vực, nhưng cậu có thể tìm lối dẫn ra đường Kansas từ sông Kenduskeag mà chẳng gặp khó khăn gì, và đúng là thế. Cậu bước ngay ra cây cầu gỗ ở vị trí đường Kansas băng qua một con suối nhỏ không tên chảy từ hệ thống nước thải Derry vào sông Kenduskeag bên dưới. Ánh Bạc được giấu bên dưới cầu, tay lái được cột vào trụ cầu bằng dây thừng để bánh xe không chìm xuống nước.
Bill tháo dây, nhét nó vào áo rồi hì hụi vận hết sức lực kéo Ánh Bạc lên vỉa hè, thở hồng hộc, mồ hôi ròng ròng, mấy lần mất thăng bằng mà ngã dúi dụi.
Nhưng cuối cùng, cậu cũng lôi được nó lên thành công. Bill vắt chân qua phuộc xe cao ngất.
Và như mọi lần, một khi đã trên lưng ngựa, cậu như hóa thân thành người khác.
5“Hỡi Ánh Bạc, PHI NÀO!”
Tiếng hô vang lên trầm hơn chất giọng bình thường của cậu nó chẳng khác nào giọng hình tượng cậu muốn trở thành. Ánh Bạc từ từ tăng tốc, tiếng lách cách nhanh dần của những thẻ bài Bicycle kẹp vào nan hoa báo hiệu tốc độ tăng lên. Trông cậu như người đang cố nâng một thanh tạ nặng không tưởng. Cổ cậu nổi gân. Mạch máu thình thịch trong thái dương. Miệng cậu nhệch xuống, run run, bởi cậu đang tung hết sức lực trong cuộc chiến quen thuộc chống lại trọng lượng và quán tính, cố sống cố chết để Ánh Bạc hoạt động.
Và như mọi lần, cố gắng luôn được đền đáp.
Ánh Bạc lăn bánh mượt mà hơn. Những ngôi nhà lướt qua nhẹ nhàng thay vì nhảy cóc lên xuống. Phía bên trái cậu, chỗ đường Kansas giao với đường Jackson, con sông Kenduskeag như chim xổ lồng trở thành Kênh Đào. Đi hết ngã tư, đường Kansas xuôi xuống dốc, dẫn vào đường Trung Tâm và đường Chính, khu thương mại của Derry.
Các con phố ở đây giao với rất nhiều đường, được cái chúng đều có biển báo dừng chờ cho Bill chạy, và chưa bao giờ Bill mảy may nghĩ tới khả năng ngày nọ, một bác tài nào đấy sẽ vượt biển báo và cán cậu bẹp ruột trên đường. Mà nếu có nghĩ chăng nữa, có khi cậu cũng chẳng thay đổi cách chạy xe của mình. Nếu ở một thời điểm khác trong đời, trước đó hoặc về sau chẳng hạn, cậu sẽ đổi cách chạy xe, nhưng mùa xuân và đầu hạ năm ấy là khoảng thời gian kỳ lạ đầy giông tố với cậu. Nếu ai đó hỏi Ben rằng cậu có cô đơn không hẳn cậu sẽ kinh ngạc lắm; tương tự, nếu ai đó hỏi Bill cậu có đem mạng mình ra đùa không hẳn cậu cũng sẽ kinh ngạc lắm. Tất nh-nh-nhiên là kh-không! Cậu sẽ trả lời ngay lập tức (và đầy cấm cảu), nhưng điều đó chẳng thay đổi thực tế rằng tiết trời ngày một ấm lên, cậu phi xuống đường Kansas càng lúc càng nhanh, giống những người lính Nhật lao vào quyết tử với những cuộc tấn công vạn tuế .
Phần đường Kansas này được biết đến với cái tên đồi Dặm Trên. Bill chạy hết tốc độ, người cúi rạp trên tay lái của Ánh Bạc để hạn chế lực cản của gió, một tay giữ hờ trên bóng cao su của chiếc còi toe toe để mọi người còn biết mà né, mái tóc đỏ rực phất phơ bay ngược về phía sau đầu. Tiếng thẻ bài quẹt vào nan hoa vang lên đều đều. Khuôn miệng hì hụi cố gắng ban nãy đã biến thành nụ cười ngớ ngẩn kéo dài tận mang tai. Khu dân cư đã nhường chỗ cho các tòa nhà phục vụ kinh tế (đa số là nhà kho và nhà máy đóng thịt), tất cả mờ đi một cách đáng sợ nhưng đầy thỏa mãn. Phía bên trái, Kênh Đào như ánh lửa bập bùng nơi khóe mắt.
“HỠI ÁNH BẠC, PHI NÀO!” Cậu oai hùng hét vang.
Ánh Bạc phóng qua vỉa hè đầu tiên, cứ ở vị trí này là lần nào cậu cũng làm thế, chân cậu rời khỏi bàn đạp. Cậu cứ thế thả dốc, hoàn toàn phó mặc số phận vào tay vị thần nào đấy có nhiệm vụ bảo vệ trẻ con. Cậu rẽ vào đường, chạy với tốc độ 25 ki-lô-mét một giờ so với tốc độ quy định là 40.
Bây giờ, tất cả đều ở lại sau lưng cậu: tật cà lăm của cậu, đôi mắt trống rỗng đầy tổn thương của bố khi ông luẩn quẩn trong ga-ra, lớp bụi dày đến nao lòng phủ trên khăn che của chiếc đàn dương cầm đóng kín trên lầu - phủi bụi vì mẹ cậu không bao giờ chơi nó nữa. Lần cuối cùng bà đánh đàn là vào đám tang của George, ba bài thánh ca Giám Lý. George ra đường lúc mưa còn rào rào, mặc áo mưa vàng, mang theo con thuyền giấy bọc sáp; hai mươi phút sau, ông Gardener đến đó, bế thi thể em trai cậu bọc trong tấm chăn vấy máu, tiếng hét thất thanh của mẹ. Cậu để lại tất cả phía sau. Cậu là Kỹ sĩ cô độc, cậu là John Wayne, cậu là Bo Diddley, cậu có thể là bất cứ người nào cậu muốn, cậu không còn là thằng bé khóc lóc, sợ sệt đòi m-m-mẹ nữa.
Ánh Bạc phi như bay và Bill Cà Lăm bay cùng chiếc xe, cái bóng xương xẩu như khung cẩu trải dài phía sau. Cậu cưỡi Ánh Bạc xuống đồi Dặm Trên; thẻ bài vang lên đều đặn. Chân Bill đặt lên bàn đạp trở lại, cậu bắt đầu guồng chân, bởi cậu muốn chạy nhanh hơn nữa, muốn chạm đến ngưỡng tốc độ không tưởng - không phải tốc độ âm thanh mà là tốc độ ký ức - để rồi tông thẳng qua rào chắn của đau thương.
Cậu đạp, đạp mãi, oằn người trên chiếc xe; cậu đạp để đánh bại quỷ dữ.
Chẳng mấy chốc sau, nút giao Kansas, đường Trung Tâm và đường Chính xuất hiện. Nút giao này là tổ hợp khủng khiếp của đường một chiều, biển báo râu ông nọ cắm cằm bà kia, đèn tín hiệu lý ra phải ăn khớp, nào ngờ lại không. Như một bài báo trên tờ Derry News năm ngoái từng cảm thán, kết quả là một bùng binh giao thông sinh ra từ địa ngục.
Như mọi khi, mắt Bill liếc trái phải, quan sát dòng xe cộ, tìm lỗ hổng để luồn lách. Nếu đánh giá sai lầm – hoặc ta có thể nói là nếu cậu nói lắp - cậu có thể bị thương nặng hoặc toi đời.
Cậu lao như tên bắn vào dòng xe cộ nối đuôi nhau nhích từng bước quanh bùng binh, vượt một đèn đỏ và lấn sang phải để tránh một chiếc Buick gắn cửa gió chạy như rùa bò. Cậu liếc thật nhanh về sau lưng để kiểm tra xem làn giữa có trống hay không. Quay mặt tới trước, cậu nhận ra trong chưa tới năm giây nữa, cậu sẽ tông vào đuôi một chiếc xe bán tải đột ngột dừng ngay chính giữa bùng binh khi bác tài típ người như Chú Ike nghển cổ đọc tất tần tật các biển chỉ đường để đảm bảo mình không rẽ nhầm và dông xe thẳng đến bãi biển Miami.
Ý nói tổng thống Dwight D. Eisenhower.
Làn đường bên tay phải của Bill đầy xe buýt liên thành phố tuyến Derry-Bangor. Cậu đánh xe vào hướng đó và len vào khoảng trống giữa chiếc xe bán tải vừa dừng và xe buýt vẫn chạy với tốc độ 65 ki-lô-mét một giờ. Ở giây cuối cùng, cậu ngoẹo đầu hẳn sang một bên, như người lính làm động tác nhìn sang phải một cách mạnh bạo thái quá, nhằm tránh chiếc gương phía bên ghế hành khách của chiếc xe bán tải táng cho cậu một cú răng môi lẫn lộn. Khói xe nóng nực do xe buýt nhả ra thắt lấy cổ họng, khiến cậu choáng váng như uống phải rượu nặng. Cậu nghe thấy tiếng thất thanh khe khẽ khi tay lái của cậu rạch một đường trên bề mặt bằng nhôm của chiếc xe buýt. Cậu liếc nhìn tài xế thì thấy mặt ông ta cắt không còn giọt máu dưới chiếc mũ công ty Xe buýt Hudson. Bác tài dứ dứ nắm đấm về phía Bill và la hét gì đó. Bill đoán chắc hôm nay không phải sinh nhật ông ấy rồi.
Một nhóm ba cụ bà đang băng ngang đường Chính từ phía ngân hàng New England sang phía tiệm Thuyền giày. Nghe thấy tiếng thẻ bài lạch cạch vào nan hoa, họ bèn ngước nhìn. Họ chỉ còn biết há hốc khi một cậu bé ngồi trên chiếc xe đạp cỡ khủng lướt qua như ảo ảnh, cách họ chưa tới nửa bước chân.
Phần ghê gớm nhất – đồng thời là phần tuyệt nhất - của chuyến du hí đã ở lại phía sau. Cậu đã chứng kiến mình có thể chết bất đắc kỳ tử hết lần này đến lần khác, thế mà cậu vẫn đầu xuôi đuôi lọt vượt qua. Xe buýt không cán bẹp cậu, cậu không làm tàn đời mình cùng ba cụ bà xách theo túi Freese’s và thẻ An sinh xã hội; cậu cũng không nằm xả lai trên cốp sau chiếc bán tải Dodge cũ của Chú Ike. Giờ cậu đạp xe lên đồi, tốc độ tiêu biến dần. Và thứ gì đó – ồ, gọi là khát khao đi, màn vừa rồi cũng mãn nhãn mà? – cũng đang tiêu biến theo. Bao suy tư và ký ức lại đuổi kịp - Bill ơi là Bill, ban nãy suýt tí nữa bọn ta mất dấu cậu đấy, nhưng chúng ta theo kịp rồi đây - lại hòa vào cậu, lần theo áo cậu, nhảy vào tai, lướt vào tâm trí cậu như đám trẻ nhỏ chơi cầu trượt. Cậu dường như cảm thấy chúng an vị ở nơi quen thuộc, thân thể hôi hổi của chúng chen lấn nhau. Trời ơi! Kinh chưa! Chúng ta lại ở trong đầu Bill rồi! Nghĩ về George thôi nào! Được! Ai muốn mở màn trước?
Mày nghĩ nhiều quá, Bill ạ.
Không, vấn đề không phải thế. Vấn đề là, cậu tưởng tượng quá nhiều.
Cậu rẽ vào đường Richard rồi chốc sau ra đường Chính, đạp từ tốn, cảm nhận mồ hôi rịn trên lưng và trên tóc. Bước xuống xe trước Nhà thuốc đường Trung Tâm, cậu tiến vào trong.
6Trước thời điểm George qua đời, Bill có thể truyền tải những điểm chính yếu cho ông Keene qua lời nói. Vị dược sĩ ấy chẳng dễ chịu cho lắm – hoặc chí ít cảm nhận của Bill là thế –được cái ông rất kiên nhẫn, và ông không trêu chọc hay nhạo báng cậu. Nhưng giờ, tật nói lắp của Bill tệ hơn rất nhiều, và cậu thực sự rất sợ nếu cậu không nhanh nhẹn, chẳng may Eddie sẽ gặp chuyện gì đó.
Vì thế, khi ông Keene cất tiếng, “Chào Billy Denbrough, ta có thể giúp gì cho cháu?”, Bill lấy một xấp giấy quảng cáo vitamin, lật mặt sau và viết: Eddie Kaspbrak và cháu đang chơi ở Vùng Đất Cằn thì cậu ấy bị lên cơn hen suyễn, cháu thấy cậu ấy thở phì phò lắm. Bác có thể cho cháu thuốc đổ vào ống thỡ cho cậu ấy không?
Bill viết sai chính tả.
Cậu đẩy tờ giấy qua mặt kính quầy thuốc cho ông Keene. Đọc xong, ông nhìn đôi mắt màu xanh lo lắng của Bill rồi đáp, “Tất nhiên rồi. Cháu đợi ở đây nhé, và đừng táy máy thứ gì đấy.”
Trong lúc ông Keene lục đục ở quầy đằng sau, Bill sốt ruột hết chuyển chân này sang chân kia. Ông vào trong chưa tới năm phút mà Bill thấy dài như cả thế kỷ, đoạn quay lại với một ống bơm nhựa của Eddie. Ông đưa cho Bill và mỉm cười, “Có thứ này là xong ngay.”
“C-C-C-Cảm ơn bác,” Bill lắp bắp. “Cháu không m-mang th theo t-t-t-tiền…”
“Không sao đâu. Bà Kaspbrak có đăng ký ở đây. Ta chỉ cần ghi lại hóa đơn là xong. Ta chắc chắn bà ấy sẽ cảm ơn cháu rối rít ấy chứ.”
Như trút được tảng đá, Bill cảm ơn ông Keene rồi vội vã lên đường. Ông Keene vòng ra sau quầy để nhìn theo cậu bé. Ông thấy Bill bỏ ống thở vào giỏ xe đạp rồi vụng về leo lên. Thằng bé lái được chiếc xe to tướng ấy sao? Ông tự hỏi. Ta thấy khó đây. Ta thấy khó lắm. Nhưng cậu bé nhà Denbrough vẫn làm cho chiếc xe lăn bánh mà không ngã dập đầu rồi từ từ đạp đi. Trong mắt ông Keene, chiếc xe đạp trông chẳng khác nào trò trêu ngươi, nó nghiêng ngả dữ dội từ bên này sang bên kia. Ống thở lăn vòng vòng trong giỏ xe.
Ông Keene khẽ mỉm cười. Nếu tận mắt trông thấy nụ cười ấy, hẳn Bill lại càng thêm chắc chắn rằng ông Keene không nằm trong tốp những người tốt bụng nhất thế giới. Nụ cười của ông sao mà chua chát, ấy là nụ cười của một người có quá nhiều chuyện canh cánh trong lòng nhưng lại chẳng có chút hoan hỉ gì để trái tim được phép reo vui. Phải – ông sẽ thêm thuốc hen suyễn của Eddie vào đơn tính tiền cho Sonia Kaspbrak, và như thường lệ, bà sẽ tỏ ra kinh ngạc – kèm thái độ nghi ngờ chứ chẳng hàm ơn – rằng sao thuốc thang gì mà rẻ thế. Những loại thuốc kia tốn nhiều thế kia mà, bà nói. Ông Keene biết bà Kaspbrak thuộc típ người tin rằng của rẻ là của ôi. Ông có thể thét giá trên trời cho nước xịt Hydrox của cậu con trai bà, và có nhiều lần ông đã có cám dỗ ấy… nhưng hà cớ gì ông lại phải dự phần vào màn ấu trĩ của người đàn bà này? Ông cũng có chết đói đâu.
Rẻ à? Ồ, vâng, đúng rồi. Nước xịt Hydrox (Sử dụng theo nhu cầu được đánh ngay ngắn trên mẩu giấy dán trên từng lọ thuốc xịt) rẻ một cách diệu kỳ, nhưng ngay cả bà Kaspbrak còn phải công nhận nó rẻ mà có võ, vì nó kiểm soát cơn hen của con trai bà rất tốt. Giá thành rẻ bởi nó chỉ đơn thuần là hợp chất của Hydro và Oxy, thêm chút long não để nước xịt có vị thuốc men.
Hay nói cách khác, liều thuốc chữa hen suyễn cho Eddie là nước máy.
7Vòng ngược lại tốn nhiều thời gian hơn vì Bill phải chạy lên đồi. Có nhiều chỗ, cậu còn phải xuống xe và đẩy Ánh Bạc đi. Dốc thoai thoải thì còn cắn răng đạp được, chứ cậu chẳng còn sức đạp lên dốc cao.
Cậu giấu chiếc xe và trở lại con suối lúc 4 giờ 10. Bao nhiêu viễn cảnh tối tăm hiện lên trong đầu cậu. Nào là cậu nhóc Hanscom đã bỏ đi, mặc Eddie hấp hối. Nào là đám côn đồ đã lần ngược trở lại và đập hai người nhừ tử. Hoặc… tệ nhất là… tên giết trẻ con đã kết liễu một hoặc cả hai người. Giống cách mà hắn đã giết George.
Cậu biết thiên hạ bàn ra tán vào và xì xầm to nhỏ rất nhiều về chuyện đó. Bill cà lăm thật, chứ không điếc - dù thảng hoặc hình như mọi người nhầm tưởng cậu điếc thật, vì cậu chỉ mở miệng khi nào thật sự cần thiết. Nhiều người cho rằng vụ sát hại em cậu không liên quan đến những vụ giết hại Betty Ripsom, Cheryl Lamonica, Matthew Clements và Veronica Grogan. Lại có người đánh giá George, Ripsom và Lamonica bị cùng một kẻ xuống tay, còn hai vụ kia là tác phẩm bắt chước của một kẻ khác. Luồng ý kiến thứ ba theo hướng kẻ giết các cậu bé lại khác với kẻ sát hại các cô bé.
Bản thân Bill nghĩ rằng họ bị giết bởi cùng một người… nếu kẻ xuống tay là con người . Thỉnh thoảng, cậu lại miên man nghĩ ngợi về chuyện đó. Như nhiều lúc cậu tự hỏi cảm nhận của mình về Derry vào mùa hè năm nay. Phải chăng là do vết thương lòng từ cái chết của George vẫn rớm máu, do bố mẹ chẳng để ý đến cậu nữa rồi, nỗi đau mất đứa con út vẫn dằn vặt họ, đến độ họ đã quên bẵng mất Bill vẫn còn sống sờ sờ ra đấy, và nhỡ may cậu làm gì tổn hại bản thân thì sao? Do những thứ đó kết hợp với các vụ án mạng khác? Do những tiếng nói đôi lúc vang lên trong đầu cậu, thì thầm với cậu (chắc chắn đó không phải là tiếng nói của bản thân cậu, vì những tiếng nói này không bị cà lăm – chúng rất nhẹ nhàng nhưng chắc chắn), khuyên nhủ cậu làm điều này điều khác? Phải chăng đó là những thứ khiến Derry khác đi? Khiến thị trấn manh nha đe dọa, với nhiều con đường lạ lẫm chẳng chút mời gọi mà chỉ phủ bóng sự im lìm báo hiệu đầy điềm gở. Nhiều con đường khiến một số người ngại ngần và sợ hãi?
Cậu chẳng rõ, nhưng cậu cho rằng - giống như việc cậu cho rằng tất cả những án mạng kia đều do cùng một thế lực gây ra – Derry thực sự biến đổi, và rằng cái chết của em trai cậu báo hiệu khởi đầu của biến đổi ấy. Những viễn cảnh tối tăm xuất hiện là vì một suy nghĩ cứ mãi lởn vởn trong đầu cậu: Ở Derry lúc này, điều gì cũng có thể xảy ra. Bất cứ điều gì.
Nhưng khi cậu vòng qua ngã rẽ cuối cùng, tình hình không đến nỗi nào. Ben Hanscom vẫn ở đó, ngồi cạnh Eddie. Eddie đã có thể dựng người dậy, tay buông thõng trong lòng, gục đầu khò khè thở. Trời chiều đang dần xuống, để lại những vệt xanh dài dát trên sông.
“Trời, cậu tốc hành thế” Ben đứng dậy. “Tớ cứ tưởng phải nửa tiếng nữa cậu mới về.”
“X-Xe tớ nh-nh-nhanh lắm,” Bill nói, giọng pha chút tự hào. Trong chốc lát, hai đứa nhìn nhau với ánh mắt cẩn trọng và mệt mỏi. Đoạn Ben dè dặt mỉm cười, thấy thế, Bill cười đáp lại. Cậu này béo nhưng có vẻ chơi được. Cậu ấy không bỏ của chạy lấy người. Hẳn cậu ta cũng có chút chí khí nam nhi, nhất là khi Henry và đám phá làng phá xóm kia vẫn có thể lảng vảng đâu đó quanh đây.
Bill nháy mắt lại với Eddie khi thấy ánh mắt đầy biết ơn của cậu bạn. “Th-Thuốc của c-cậu đây, E-E-E-Eddie.” Dứt lời, cậu ném ống thở cho bạn mình. Eddie bèn nhét ống thở vào miệng, bật chất và hít lấy hít để. Đoạn cậu ngả ra sau, mắt nhắm nghiền. Ben quan sát mà lòng ngập ngụa lo lắng.
“Chúa ơi! Cậu ấy bị nặng lắm đúng không?”
Bill gật đầu.
“Ban nãy tớ cứ lo sốt vó,” Ben thì thầm nói. “Tớ sợ ngộ nhỡ cậu ấy bị co giật thì tớ biết phải làm sao. Tớ cố nặn óc nhớ lại những gì thầy cô giảng cho mình ở hội Chữ thập đỏ tổ chức hồi tháng Tư. Nhưng tớ chỉ nhớ được mình phải nhét que vào trong miệng để cậu ấy không cắn đứt lưỡi thôi.”
“Cái đó là cho đ-đ-động kinh mà.”
“Ủa? Vậy à, ờ, chắc là thế.”
“Mà cậu ấy sẽ kh-không bị c-co giật đâu.” Bill trấn an. “Có th thuốc vào là cậu ấy kh-khỏe ngay. Nh-nhìn kìa.”
Tiếng thở nặng nhọc của Eddie đã thuyên giảm. Cậu mở mắt nhìn họ.
“Cảm ơn, Bill, cậu lên tiếng. “Đúng là tai bay vạ gió.”
“Chắc cậu lên cơn lúc đám chúng nó đấm mũi cậu phải không?” Ben hỏi.
Eddie nở nụ cười buồn, đứng dậy rồi nhét ống thở vào túi sau. “Tớ còn chẳng nghĩ tới mũi của mình nữa cơ. Tớ nghĩ tới mẹ tớ thôi.”
“Hả? Thật à?” Ben có vẻ ngạc nhiên, nhưng tay cậu cũng đưa lên sờ chiếc áo rách bươm trên người mình rồi rờ rẫm đầy lo âu.
“Mẹ mà nhìn thấy máu vương trên áo tớ, thể nào mẹ cũng xách tớ tới Phòng Cấp Cứu của bệnh viện Derry trong một nốt nhạc cho xem.”
“Chi vậy?” Ben hỏi. “Máu cầm rồi mà. Trời, cậu nhắc làm tớ nhớ tới một thằng nhóc học chung mẫu giáo với tớ tên là Scooter Morgan, nó bị chảy máu mũi khi ngã từ khung leo trèo. Thầy cô phải đưa nó đi cấp cứu vì mãi không cầm được máu.”
“Thế hả?” Bill hỏi, giọng tò mò. “Thế nó có ch-ch-chết không?”
“Không, nhưng nó phải nghỉ học một tuần.”
“Cầm được máu hay không cũng thế cả thôi,” Eddie ủ rũ nói. “Mẹ tớ vẫn sẽ đưa tớ đi cấp cứu cho bằng được. Thể nào mẹ tớ cũng nghĩ mũi tớ bị gãy và có mảnh xương cắm vào não tớ hay gì đó.”
“XX-Xương có thể văng vào n-n-não sao?” Bill hỏi. Mấy tuần rồi cậu mới có cơ hội trao đổi về chủ đề hay ho thế này.
“Tớ chịu. Nhưng cậu mà nghe mẹ tớ nói, cậu có thể mắc đủ thứ hầm bà lằng.” Eddie quay sang Ben. “Tháng nào mẹ tớ cũng đưa tớ đi cấp cứu một, hai lần. Tớ ghét phòng đó lắm. Có lần, một ông hộ lý còn nói với mẹ tớ lý ra họ phải bắt bà trả tiền thuê phòng nữa kìa. Đợt đấy, mẹ tớ nổi sùng luôn.”
“Chà,” Ben cảm thán. Cậu thầm nghĩ mẹ của Eddie hẳn quái dị lắm. Tự lúc nào, hai tay cậu đã mân mê chiếc áo rách như tổ đỉa của mình mà cậu không hay. “Thì cậu không chịu là được mà? Cậu thử nói với mẹ, ‘Mẹ ơi, con thấy khỏe rồi mà, mẹ cho con ở nhà xem Săn Biển đi.’ Hao hao vậy đó.”
“Èo,” Eddie khó chịu gọn lỏn.
“Cậu là Ben H-H-H-Hanscom ph-phải không?” Bill hỏi.
“Ừ. Còn cậu là Bill Denbrough nhỉ?”
“U-Ừ. Còn đây là E-E-E-E-E-E…”
“Eddie Kaspbrak,” Eddie giới thiệu. “Tớ chả thích cậu nói lắp tên tớ tí nào đâu Bill. Nghe cứ như Elmer Fudd ấy.”
“X-xin lỗi.”
“Chà, tớ rất vui được gặp hai cậu,” Ben lịch sự, thế mà chẳng hiểu sao lời nói nghe có vẻ kiểu cách và tẻ nhạt. Cả ba rơi vào im lặng. Được cái, sự im lặng ấy không hề ngượng nghịu. Bởi hiện giờ, cả ba cậu bé đã đánh bạn với nhau.
“Sao bọn chúng truy lùng cậu thế?” Mãi sau, Eddie hỏi.
“Đám đấy kh-khi nào cũng r-rượt ng-người kh-khác mà,” Bill nói. “Tớ gh-ghét đám chết dịch ấy.”
Trong một khắc, Ben lặng thinh – cậu không khỏi ngưỡng mộ khi thấy Bill sử dụng những từ mà thỉnh thoảng mẹ Ben hay liệt vào Những từ hư hỏng. Từ lúc sinh ra tới giờ, Ben chưa bao giờ nói ra miệng Những từ hư hỏng ấy, dù Halloween hai năm trước, cậu có viết từ chửi tục lên cột điện thoại (những chữ cực nhỏ).
“Bowers ngồi cạnh tớ vào kỳ thi,” Ben kể. “Hắn muốn chép bài của tớ nhưng tớ không cho.”
“Trời, cậu muốn sớm lên bàn thờ hả,” Eddie nói đầy thán phục.
Bill Cà Lăm phá lên cười. Ben quắc mắt nhìn đối phương, rồi nhận ra cậu ta không cười nhạo mình (khó mà giải thích lý do, cậu chỉ biết thế thôi), cậu liền nhoẻn cười.
“Chắc vậy nhỉ,” cậu đùa theo. “Hắn phải học hè, do đó, hắn ta và hai tên du côn kia mai phục tớ, mọi chuyện là thế.”
“Tr-Trông cậu tã như thể ch-chúng muốn gi-giết cậu vậy,” Bill nhận xét.
“Tớ ngã từ đường Kansas xuống đây. Lăn từ trên triền đồi.” Cậu nhìn Eddie. “Tính ra có khi tớ sẽ gặp cậu trong Phòng Cấp cứu ấy chứ. Mẹ tớ mà nhìn thấy quần áo của tớ, thể nào cũng gọi cấp cứu.”
Bill và Eddie cùng phá lên cười nắc nẻ, thấy thế, Ben cười ồ theo. Cậu cười đau cả bụng nhưng mặc kệ, cậu cứ thế cười giòn giã và hào hứng. Rốt cuộc cậu phải ngồi xuống bờ hồ, mông bệt xuống đất đánh phịch, âm thanh ấy lại khiến cậu cười lăn cười bò. Cậu thích tiếng cười của mình hòa với tiếng của hai cậu bạn này. Ấy là âm thanh trước giờ cậu chưa từng được nghe: không phải tiếng cười cho bớt lạc lõng - kiểu đấy cậu nghe nhiều rồi – mà là tiếng cười trong đó có âm vang nụ cười của cậu.
Cậu ngước nhìn Bill Denbrough, bốn mắt vừa giao nhau, cả hai lại cười như được mùa.
Bill kéo quần, dựng cổ áo lên rồi khệnh khạng hằm hè bước đi với vẻ đăm đăm khó ở. Cậu gằn giọng nói, “Tao thịt mày, thằng oắt. Đừng giỡn mặt với tao. Đầu óc tao ngu si nhưng tứ chi rất phát triển. Tao dùng trán đập vỡ được vỏ óc chó đấy nhé. Tao còn đái ra giấm và ị ra xi măng đó. Tên tao là Hèn Hạ Bowers, tao là đại ca ngồi gốc cây đa ở khúc Derry này.”
Eddie bò lăn bò càng trên bờ sông, ôm bụng cười rũ rượi. Ben quằn quại, đầu gập giữa hai gối, nước mắt tèm lem, nước mũi phọt ra từ lỗ mũi thành dải trắng, cười như điên như dại.
Bill ngồi xuống với hai cậu bạn, và rồi cả đám im dần.
“Nói vậy chứ có một điều tuyệt vời ông mặt trời đấy,” Eddie phân tích. “Nếu Bowers phải đi học hè, chúng mình sẽ không đụng mặt hắn ở đây.”
“Các cậu hay chơi ở Vùng Đất Cằn lắm à?” Ben tò mò, có nghìn năm trôi qua, cậu cũng chẳng bao giờ dám nghĩ đến điều đó – Vùng Đất Cằn khét tiếng thế kia cơ mà – nhưng giờ, khi đã đến đây, cậu thấy nó không đến nỗi nào. Thành thật mà nói, phần rìa bờ sông ở dưới thấp này cũng phong cảnh hữu tình dưới ánh tà dương đang dần buông ra phết.
“Ch-Ch-Chuẩn. Nó v-vừa sạch. L-Lại kh-không a-a-ai đ-đến làm ph-phiền bọn t-tớ. Ch-chơi th-thoải mái. B-B-Bowers và đám c-côn đ-đồ kia cũng không x-xuống đ-đây đ-đ-đâu.”
“Cậu và Eddie thôi à?”
“R-R-R …” Bill lắc đầu. Ben để ý mặt cậu ấy nhăn lại như nùi giẻ ướt khi cà lăm, và bất chợt một suy nghĩ kỳ cục lướt qua đầu cậu: Bill không hề cà lăm khi giả vờ bắt chước cách nói của Henry Bowers. “Richie nữa!” Bill hét lên, dừng lại một chút rồi mới nói tiếp. “Richie T-Tozier cũng h-hay đến đây. Nhưng giờ c-cậu ấy và b-bố đang chuẩn bị lau dọn tầng á-á-á…”
“Áp mái,” Eddie dịch và ném một viên đá xuống nước. Tõm.
“À, tớ có biết cậu ấy,” Ben nói. “Thế ra các cậu hay đến đây hả?” Cậu thấy ý tưởng này thật thú vị thậm chí cậu còn khao khát muốn được đi cùng nữa kìa.
“C-C-Cũng nhiều,” Bill nói. “H-Hay ng-ngày mai c-cậu c-c-cũng quay lại đ-đây đi? T-tớ và E-E-Eddie đang c-cố xây một con đ-đ-đập đấy.”
Ben á khẩu. Cậu quá đỗi bất ngờ trước lời mời cũng như trước thái độ chân phương và hết sức tự nhiên của lời mời ấy.
“Chắc mình phải tính đường khác,” Eddie trầm ngâm. “Con đập không ăn thua cho lắm.”
Ben đứng dậy đi về phía con suối, phủi đất cát bám trên phần đùi to mập của mình. Vẫn còn cành cây chất thành đống ở hai bên bờ suối, còn lại đều bị nước cuốn trôi hết.
“Các cậu kiếm thêm mấy tấm ván đi,” Ben nói. “Xếp mấy tấm ván thành hàng… mặt đối mặt&hell